Hôm nay tôi cống hiến quí độc
giả tìm hiểu về sự tích, lịch sử Bồ Tát Quan Thế Âm mà mọi người dân Việt,
nhất là trong giới Phật tử thường mỗi khi gặp nạn thì hay niệm danh hiệu
của ngài "Quan Thê Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn", nhưng thực tế ít ai hiểu
rõ về chân lý, sự tích, xuất xứ từ đâu, nguồn gốc của Quan Thế Âm như thế
nào. Do đó, tôi mới cố gắng đi sưu tầm, tham khảo các kinh sách để cụ thể
hoá ra bài này hầu góp phần trong nền văn hoá Phật Giáo và phổ biến đến quí
độc giả bốn phương am tường. (Nếu có gì thiếu sót, kính xin quí chư Tăng,
Ni cao minh, quí thiện trí thức niệm tình thứ lỗi và xin cung cấp thêm tư
liệu cho được phong phú hơn).
Quan Thế Âm tiếng Phạn là “Avalokitesvara” dịch sang tiếng Hán
là Quan Thế Âm hay Quán Tự Tại …Danh hiệu Quan Thế Âm, nghĩa là quan sát
tiếng kêu than của chúng sanh trong thế gian để độ cho họ thoát khổ. Theo
Kinh Bi Hoa thì ở vào đời quá khứ có đức Phật ra đời hiệu là Bảo Tạng Như
Lai. thời đó có vua Chuyển Luân Thanh Vương là Vô Chánh Niệm. Vua có quan
đại thần là Bảo Hải, phụ thân của đức Bảo Tạng khi chưa xuất gia đối trước
Đức Phật Bảo Tạng phát ra 48 đại nguyện. Do đó, Đức Bảo Tạng thụ ký cho Vua
(khi đó đã là Pháp Tạng Tỳ Kheo) sau này thành Phật hiệu là A Di Đà ở vào
thế giới cực lạc.
Vua Chuyển Luân có nhiều con. Con cả là Thái Tử Bất Tuấn cũng
do ngài Bảo Hải khuyến tiến. Thái Tử cũng đi xuất gia theo cha và đối trước
Đức Bảo Tạng Như Lai phát ra bảo nguyện đại bi thương xót, cứu độ tất cả
các loài chúng sanh bị khổ não. vì vậy Đức Bảo Tạng thụ ký cho Thái Tử thành
Bồ Tát hiệu là Quan Thế Âm, còn Bảo Haỉ là tiền thân của Đức Thích Ca Mầu
Ni. Đức Bảo Tạng thụ ký cho Thái Tử rằng: "Vì lòng đại bi Ông muốn quán niệm
cho tất cả chúng sanh được cùng về cõi an lạc (cực lạc). Vậy từ nay đặt tên
cho Ông là Quan Thê Âm….
Bồ Tát Quan Thế Âm là hiện thân của Từ Bi, Ngài phát đại nguyện
thực hiện từ bi cùng tận trong đời vị lai, nếu chúng sinh còn đau khổ.
Vì chỉ có từ bi mới giải trừ đau khổ, cũng như chỉ có trí tuệ mới diệt được
ngu si. Do đó, Bồ Tát Quan Thế Âm thiết lập tâm đại từ, đại bi mà thực hiện
đại thệ nguyện độ sanh của Ngài.
TỪ là đem niềm vui đến cho kẻ khác. Chữ Từ như người ta thường
nói: Từ thiện, từ ái, từ mẫu, từ tâm. Từ tâm đối với ác tâm, sân tâm, ích
kỷ tâm….BI là phương châm, là cách thức hành động để cứu khổ. Từ là lòng
yêu thương, Bi là ra tay giải quyết và dấn thân nỗ lực làm việc để cứu giúp
thực tế. Tóm lại Tu Bi: Thương yêu chúng sinh, mang lại cho họ niềm an lạc
vui sướng gọi là Từ (maritrya, maitri). Đồng cảm nỗi khổ và thương xót chúng
sinh, trừ bỏ nỗi khổ cho họ gọi là Bi.
Quán Thế Âm xưa kia Ngài đã thành Phật hiệu là "Chánh Pháp Minh
Như Lai". Ngài thị hiện làm Bồ Tát vì muốn đảm đương công tác cứu khổ ban
vui cho chúng sanh. Đức Bồ Tát quán thấy Phật và chúng sanh đồng chung một
bản thể, đồng chung một giác tánh duy nhất, nhưng Phật đã giác ngộ mà chúng
sanh thì còn mê.
Do đó, Đức Quan Thế Âm tức là một vị Phật tương lai sẽ bổ vào
ngôi của Đức Phật A Di Đà, thì ngài cùng với ngài Đại Thế Chí (kiếp xưa là
em ngài, con thứ vua Chuyển Luân cũng cùng Ngài đồng thời được Đức Bảo
Tạng thụ ký) giúp việc giáo hoá độ sanh cho Đức Phật A Di Đà và 2 Ngài cũng
ứng thân xuống sa bà trợ giáo cho Đức Thích Ca Mâu Ni.
Theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm có chép lời Ngài bạch với Đức Thếâ
Tôn rằng:
- "Con nhớ cách đây vô số hằng hà sa kiếp về trước có Đức Phật
ra đời hiệu là Quan Thế Âm, từ Đức Phật kia dạy con, do nghe, nghĩ và tu
mà vào Tam Ma Đề" Do đó nên biết: Ngài đã phát tâm Bồ Đề từ đời Đức Phật
Quan Thế Âm trong vô số hằng hà sa kiếp về trước do nghe Phật truyền pháp,
Ngài đã nhận định pháp tu viên thông về nhĩ căn là hơn tất cả, do ngài khó
chứng viên thông ở nhĩ căn nên được Đức Phật thụ ký cho ngài danh hiệu Quán
Thế Âm, một danh hiệu mà chúng sanh ở mười phương cung kính chấp trì, nhất
là trong những lúc nguy hiểm, đau khổ.
Ngoài ra, Kinh Quán Âm Tam Muội nói: "Xưa kia Ngài Quán Thế Âm
đã thành Phật hiệu là "Chính Pháp Minh Như Lai". Tiền thân Đức Thích Ca hồi
ấy đã từng ở dưới pháp toà, sung vào trong số đệ tử khổ hạnh để gần gũi".
Ngày nay Đức Thích Ca thành Phật, thời Ngài trở lại làm đệ tử để gần gũi
lại:" Một Đức Phật ra đời thì hàng ngàn Đức Phật phù trì".
Trong Kinh Đại Bi Tâm Đà Na Ni thì chép lời Ngài bạch Phật rằng:
"Bạch Đức Thế Tôn ! con nhớ vô lượng ức kiêp trước có Đức Phật ra đời hiệu
là Thiên Quan Vương tĩnh trụ Như Lai" Đức Phật ấy vì thương đến con và
tất cả chúng sanh nên nói ra môn Đại Bi Tâm Đà La Ni. Ngài lại dùng cánh
tay sắc vàng xoa đầu con mà bảo:"Thiện Nam Tử ! Ông nên trụ trì tâm chú này
và vì khắp tất cả chúng sanh trong cõi trược ở đời vị lai mà làm cho họ được
sự lợi ích yên vui lớn." Lúc đó con mới ở ngôi Sơ Địa, vừa nghe xong thần
chú này liền vượt lên chứng đại Bát Địa".
Mật tông thì theo trong Kinh Đại Bản Như Ý nói có 8 vị đại Quan
Âm là:
1- Viên Mãn Ý, Nguyệt Minh Vương Bồ Tát.
2- Bạch Y Tự Tại.
3- Cát La Sát Nữ.
4- Tứ Diện Quán Âm.
5- Mã Đầu La Sát.
6- Tỳ Cầu Chi.
7- Đại Thế Chí.
8- Đà La Quan Âm (Quán Âm Chuẩn Đề).
Ngài có đức uy thần công đức và lòng từ bi rất lớn. Ngài vốn
không phải là nữ tướng, nhưng vì ngài thường cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh
(mà phụ nữ thường nhiều khổ nạn hơn so với nam giới) cho nên giới phụ nữ
đặc biệt tín ngưỡng về Ngài. Nên chúng sanh mới tưởng tượng ra Ngài là nữ
tướng để tiện hoá độ cho phụ nữ. Theo Kinh A-Di-Đà nói: Người sanh về cõi
cực lạc tuy chưa chứng quả Thánh, vẫn không có tướng nam, tướng nữ. Kinh
A Hàm nói người nữ có 5 chướng không thể thành Phật…..Thế mà Bồ Tát Quan
Thế Âm lại hiện thân người Nư ư?
Bồ Tát Quan Thế Âm hiện thân của Đức Từ Bi, muốn nói lên tình
Mẹ thương con, Mẹ đối với con là tình thương chân thành, tha thiết nhất không
có tình thương nào sánh bằng. Cho nên, Đức Quan Thế Âm hiện thân là một
người mẹ hiền của nhân loại, hay của tất cả chúng sinh.
Căn cứ theo hình tướng đã thể hiện và đức tính Quan Thế Âm đã
cứu khổ cứu nạn cho chúng sinh, nhân loại được thoát khổ đau ở sa bà này
to lớn biết chừng nào !
- Chân như đạo Phật rất mầu
Tâm trung chữ hiếu niệm đầu chữ nhân
Hiếu là độ được song thân
Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài
Tinh thông nghìn mắt nghìn tay
Cũng trong một điểm linh đài hóa ra
Xem trong biển nước nam ta
Phổ môn có Đức Phật Bà Quan Âm.
Cho nên, Phật Tử chúng ta dù tu theo pháp môn nào: Mật Tông,
Tịnh Độ hay Thiền Tông cũng phải thường xuyên niệm hồng danh của Ngài. Ngài
gia hộ, độ trì cho mới thoát khỏi tai nạn, khổ ách mỗi khi đến với mọi người
chúng ta đều phải niệm "Nam Mô Đại Từ Đại Bi Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm
Bồ Tát" thì được giải thoát, tai qua nạn khỏi và sự nghiệp tu hành mới mau
chóng thành tựu theo sở cầu như nguyện./.
Cư Sĩ Nguyễn Đức Can
Pd: Tuệ Minh Đạo
Tel &Fax: (714) 896-0786
E-mail: ndcan2000@yahoo.com
--o0o--