|
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
AM
MÂY NGỦ
Tác giả: Nhất Hạnh
PL. 2537-1993
--o0o--
-
-
Tối
hôm đó, trong khi Huyền Trân buông màn cho Thế tử Dayada ngủ.
Thị Ngọc vào báo cho nàng biết đoàn sứ giả Chiêm Thành đã về. Cả
đêm Huyền Trân thao thức không ngủ. Nàng mong ước sứ giả có đem
về thơ của Thượng hoàng hay của vua Anh Tông cho nàng. Sáng hôm
sau, quan đại thần Bảo Lộc Kê vào chầu vua Chế Chí. Chiều hôm
đó, Thái hậu cho vời quan đại thần vào cung để hỏi han. Sau khi
uống hết chén trà Thái hậu ban, vị đại thần tường thuật về
chuyến đi. Ông nói là ông đã được vua Anh Tông tiếp kiến và lưu
lại kinh đô Thăng Long mười hôm. Sau đó vua cho phái đoàn về
nước và dặn rằng một sứ đoàn Đại Việt sẽ qua Chiêm trong tháng
tới để làm lễ hỏa đàn Hoàng hậu. Huyền Trân thất vọng khi nghe
vị đại thần nói là không có thư từ gì cho nàng.
-
Giữa tháng mười một, phái đoàn Đại Việt qua tới. Phái đoàn này
gồm có mười hai người do quan thượng thư Tả bộc xa là Trần Khác
Chung cầm đầu. Trong phái đoàn có bốn vị tăng sĩ Đại Việt. Bốn
vị này, theo sứ thần Đại Việt, là những vị sẽ tổ chức trai đàn
cầu nguyện cho vua Chế Mân theo nghi lễ Phật Giáo Đại Việt. Thái
hậu Paramesvari, tức là Huyền Trân, sẽ đứng ra làm chủ đàn. Sau
khi trai đàn hoàn tất, Thái hậu sẽ lên đàn hỏa. Cả hai trai đàn
và hỏa đàn đều được dựng trên bờ biển theo thủ tục Chiêm Thành.
-
Vua Chế Chí tiếp sứ thần Đại Việt và phê y cho việc lập trai đàn
bên cạnh hỏa đàn. Ngày khai đàn được chỉ định vào rằm tháng
Chạp. Quan thượng thư Trần Khắc Chung cũng đã được Thái hậu vời
vào cung uống trà. Trước mặt nhiều nữ quan và cung nhân Chiêm
Thành, Thái hậu không tiện hỏi nhiều về sự tình đất nước. Quan
thượng thư tâu rằng không có thư từ gì của Thượng hoàng cũng như
của vua Anh Tông, Đêm ấy Huyền Trân đã khóc một mình trong tẩm
điện. Nàng không ngờ Phụ hoàng và vua Anh Tông đã hờ hững với
nàng như thế. Hoặc giả Thị Khanh đã làm thất lạc những lá thơ
của nàng? Dù sao Huyền Trân cũng nhận thấy thái độ hơi khác
thường của quan thượng thư Trần Khắc Chung. Quan thượng thư
trong khi nói năng vẫn lễ phép nhưng phong cách của ông có vẻ
rất xa lạ.
-
Ngày khai đàn đã tới. Vua Chế Chí ngự trên kiệu cùng với Hoàng
hậu ra dự trai đàn. Huyền Trân mặc y phục đại lễ của Hoàng thái
hậu Chiêm Thành. Ngồi trong kiệu của Huyền Trân có Thị Ngọc và
một thị nữ Chiêm Thành khác, tên là Ratna. Thế tử Dayada được
các cung nữ ẵm theo trong một chiếc kiệu che bằng lụa hồng, đi
sau kiệu của Huyền Trân. Trai đàn đã được thiết lập trang nghiêm
có đủ cờ phướn và nhạc cụ. Hỏa đàn đã được dựng sẵn toàn bằng gỗ
trầm hương. Đám rước đông có tới gần một vạn người. Huyền Trân
được rước xuống thuyền cùng với bốn vị tăng sĩ Đại Việt. Hai thị
nữ cũng theo xuống với nàng. Thuyền của Huyền Trân sẽ ra khơi
làm lễ đón linh hồn của vị vua quá cố về dự trai đàn. Quan
thượng thư Trần Khắc Chung xin cho Thế Tử Dayada được xuống
thuyền với mẹ, nhưng vua Chế Chí không thuận. Ngài truyền khiêng
kiệu của Thế Tử tới bên kiệu của ngài.
-
Thuyền của Huyền Trân vừa rời bến thì các vị tăng sĩ bắt đầu đốt
nhang và tụng niệm. Giọng đọc kinh tiếng Việt làm Huyền Trân nhớ
nhà, rơi nước mắt. Thị Ngọc cũng bưng mặt khóc. Thuyền càng lúc
càng ra xa. Bây giờ là vào khoảng giờ Ngọ, mặt trời chói lọi
trên đỉnh đầu. Thuyền của Huyền Trân đã ra tới ngoài khơi; bốn
người thủy thủ Chiêm Thành kèm cho thuyền đứng yên trong khi các
vị tăng sĩ làm lễ chiêu hồn. Bỗng nhiên, không biết từ đâu, bốn
chiếc thuyền nhẹ lướt tới, trên chiếc nào cũng có bốn năm người
thủy thủ. Huyền Trân nhận ra đây là những thủy thủ người Đại
Việt. Trong phút chốc bốn chiếc thuyền nhẹ đã xáp lại vây quanh
thuyền của Huyền Trân. Các thủy thủ Đại Việt đã nhảy lên: Bốn
người Chiêm lập tức bị kềm chế. Huyền Trân, Thị Ngọc, người thị
nữ Chàm và bốn vị tăng sĩ được chuyền rất mau xuống các thuyền
nhẹ. Người ta trói tay bốn người thủy thủ Chàm và đặt họ nằm
trong lòng thuyền. Lúc bấy giờ từ trong đất liền, một chiếc
thuyền khác cũng vừa ra tới. Huyền Trân nhìn kỹ thì thấy trên
thuyền có quan thượng thư Đại Việt và mấy vị tùy tùng. Phút
chốc, quan thượng thư và các vị tùy tùng cũng được đưa lên
thuyền nhẹ. Bốn chiếc thuyền lướt sóng như bay dưới những cánh
tay lanh lẹ của các thủy thủ. Huyền Trân biết rằng đây là một
cuộc cướp người do sứ đoàn Đại Việt tổ chức, thì ra vua Anh Tông
đã sai quan thượng thư Trần Khắc Chung vào cứu nàng. Quan thượng
thư đã hành động một cách vô cùng cẩn mật. Chính bốn vị tăng sĩ
Đại Việt cũng không được biết một chút gì về mưu lược này. Huyền
Trân ngồi trên một chiếc thuyền với hai người thị nữ, không ai
nói với ai câu nào. Thị Ngọc hình như đã hiểu được cớ sự, nhưng
Ratna người thị nữ Chàm vẫn còn dương cặp mắt kinh ngạc lên
nhìn. Huyền Trân cầm ấy tay cô và bóp chặt cố ý cho cô biết rằng
cô không nên sợ hãi. Các thủy thủ vẫn ra sức chèo; bốn chiếc
thuyền cùng lướt sóng nhanh như những mũi tên bay về một hướng.
Bỗng Huyền Trân nhận thấy một chiếc thuyền lớn phía trước mắt.
Đây chắc là chiếc thuyền sẽ đưa nàng về Đại Việt. Các thủy thủ
thấy dáng thuyền đều hò reo và càng ra sức chèo. Trong giây lát
cả bốn chiếc thuyền nhẹ đều đã cặp vào hai bên hông chiếc thuyền
lớn. Từ trong thuyền lớn, các thủy thủ đã liệng thang dây xuống.
Cuộc chuyển người lên thuyền bắt đầu. Hai thủy thủ phía trên
giúp Huyền Trân leo lên, trong khi hai thủy thủ phía dưới sẵn
sàng đỡ nàng. Huyền Trân leo lên được trên thuyền thì hai thủy
thủ đưa nàng ngay vào trong khoang. Quan thượng thư Trần Khắc
Chung đã lên tới trước nàng. Đứng bên ông là một vị quan chức
khác của triều đình Đại Việt. Ông này cúi chào nàng và tự giới
thiệu là An Phủ Sứ Đặng Vân.
-
Ratna và Thị Ngọc đều đã lên tới; bốn vị tăng sĩ cũng vậy.
Thuyền khá rộng, Huyền Trân và cả hai thị nữ được mời vào một
khoang riêng. Nhìn ra, Huyền Trân thấy thuyền đã bắt đầu cưỡi
sóng lướt đi. Thị Ngọc cho nàng biết các lá buồm trên thuyền đều
đã được dựng lên; căng phồng dưới sức gió. Các thủy thủ được
lệnh cho thuyền đi với tốc độ cao nhất để vượt thoát sự truy tầm
của người Chiêm.
-
Nói chuyện với quan thượng thư chiều hôm ấy, Huyền Trân biết
rằng vua Anh Tông đã phái ông và An Phủ Sứ Đặng Vân vào để tìm
cách cứu nàng và đưa nàng cùng thế từ Dayada về Đại Việt. Hai
người đã vặch sẵn kế hoạch trước khi lên đường. Họ khởi hành từ
giữa tháng mười, đi đường bộ, và tới Thuận Châu thì dừng lại để
hội ý với quan kinh lược Đại Việt lưu nhậm. Chính tại đây mà
phái đoàn sắm được thuyền lớn, bốn chiếc thuyền nhẹ và tuyển
được một đoàn thủy thủ thiện nghệ. Quan An Phủ Sứ chịu trách
nhiệm đưa đoàn thuyền từ cửa Thuận An vào chực sẵn ngoài khơi
cửa Thị lị bì nại, trá hình làm thuyền ngư dân, và phái một thủy
thủ người Chiêm vào để liên lạc với quan thượng thư mà điều hợp
thì giờ hành động. Kế hoạch đã không thành công hoàn toàn như họ
mong ước, vì họ không đưa được Thế tử Chế Đa Gia cùng về.
-
Huyền Trân có cảm tưởng là mình không có quyền quyết định được
gì trong kế hoạch này. Đây là một kế hoạch của triều đình Đại
Việt, nàng bắt buộc phải tuân phục. Trong thâm tâm, nàng cảm
thấy có một cái gì đổ vỡ. Kế hoạch cướp người này chắc chắn sẽ
gây nên ấn tượng xấu về Đại Việt trong người dân Chàm. Niềm tin
cậy của người Chiêm sẽ chết theo sự ra đi này. Phụ hoàng của
nàng chắc chắn không được thông báo về kế hoạch này. Nàng biết
nếu nàng có thể chấp nhận hỏa đàn để giữ nguyên vẹn tình giao
hảo Chiêm Việt thì Phụ hoàng nàng cũng có thể chấp nhận sự đau
xót kia để chu toàn ước nguyện hòa bình. Anh Thuyên của nàng
chắc đã nghe lời những vị triều thần như Đoàn Nhữ Hài và Trần
Khắc Chung. Những người này làm gì có được trái tim của Phụ
hoàng. Họ khinh miệt dân Chàm, họ dòm ngó lãnh thổ Chàm. Họ
không làm sao thấy được cái đẹp của tình huynh đệ.
-
Hồi tưởng lại giây phút lên thuyền để ra khơi làm lễ chiêu hồn.
Huyền Trân bỗng giật mình. Nàng nghĩ rằng vua Chế Chí có thể đã
biết được kế hoạch của quan thượng thư Trần Khắc Chung, nhưng
vua vẫn làm lơ để cho nàng vượt thoát. Nội một việc vua truyền
đưa Thế tử của Chế Đa Gia đến gần vua cũng đủ chứng tỏ được điều
ấy. Công chúa Đại Việt có thể trả về cho Đại Việt, nhưng Thế tử
Chiêm Thành phải ở lại Chiêm Thành. Vua không nói, nhưng vua đã
làm theo điều đó. Quan thượng thư Trần Khắc Chung tưởng là đã
đánh lừa được vua, kỳ thực ông đã được vua cho phép hành động
theo kế hoạch. Huyền Trân nhìn ra trời biển phiá sau thuyền.
Nàng biết rằng sẽ không có thuyền Chiêm Thành đuổi theo. Nàng
nghĩ đến bốn người thủy thủ Chàm bị trói nằm trong lòng thuyền,
và nàng mong ước rằng giờ này họ đã tự tháo gỡ được dây trói để
cho thuyền trở vào bờ. Nàng nghĩ đến đám quần chúng đông đến gần
một vạn người ngồi bên hỏa đàn và cảm thấy ruột nàng đau thắt
lại. Nàng nghĩ đến Thế tử Dayada, đến trái tim của nàng, để lại
trong lòng đất nước Chàm.
-
Thuyền đi êm đềm suốt đêm hôm ấy, và cả ngày hôm sau nữa. Nhưng
giữa đêm sau, một trận bão dữ dội nổi lên làm thuyền suýt lật
nhào. Các cột buồm đều bị gãy. Cả đêm, hai mươi thủy thủ trên
thuyền chống cự mãnh liệt với cơn bão. Ratna bình tĩnh, nhưng
Thị Ngọc có khi hoảng hốt ôm chặt lấy Huyền Trân. Cơn bão tiếp
tục. Sáng hôm sau, các thủy thủy cho thuyền ghé sát một con vịnh
để tránh gió. Cơn bão kéo dài đến bảy ngày bảy đêm. Thuyền bị
thiệt hại nặng, không thể tiếp tục cuộc hành trình. Quan An Phủ
Sứ phái hai thủy thủ dùng xuồng nhẹ vào bờ để để mua vật liệu
sữa chữa thuyền, và đồng thời lấy thêm nước ngọt và mua thêm
thức ăn. Các thủy thủ này đều nói được tiếng Chàm. May cho mọi
người là thuyền lớn của họ có dáng dấp một ngư thuyền Chiêm
Thành nên đã không tạo nên nghi ngờ gì trong óc những người
người dân gần đó.
-
Thuyền phải đậu lại gần một tháng mới sữa chữa xong. Quan An Phủ
Sứ ra lệnh nhổ neo. Thuyền đi sáu hôm nữa thì tới được cửa
Thuận. Thuyền vào cửa được hai ngày thì mọi người lên bờ. Dù đây
là lãnh thổ mới của Đại Việt, đa số dân cư vẫn còn là người Chàm
cho nên Huyền Trân và các thị nữ đều phải cải dạng thường dân.
Họ tìm tới tạm trú tại dinh quan kinh lược sứ. Quan thượng thư
Trần Khắc Chung bàn tính kế hoạch gửi người về thành Phật Thệ để
tìm cách bắt thái tử Chế Đa Gia đem về. Ông nói ông chưa thể lên
đường về kinh sư được khi mà ông chưa hoàn tất nhiệm vụ vua Anh
Tông giao phó. Mệnh lệnh ấy là đưa công chúa và thái tử Chế Đa
Gia về Đại Việt. Nay công chúa đã qua được phía bên này biên
giới, ông phải tìm cách đưa nốt Thế tử qua.Ông bàn với quan An
Phủ Sứ và kinh lược sứ về kế hoạch gửi người về Chiêm, những
người được gửi đi đều phải là người Chiêm, trung thành với Đại
Việt, để cho kế hoạch khỏi bị nghi ngờ. Huyền Trân không biết ăn
nói làm sao để quan thượng thư bỏ ý định trở về Vijaya bắt cóc
thái tử. Nàng thương con, nàng ao ước có Dayada trong tay nàng
để cưng chiều, để sung sướng, nhưng nàng thấy hành động bắt cóc
thế tử bất nhẫn quá và có tính cách khiêu khích quá. Thế tử Chế
Đa Gia thuộc về honàg gia Chiêm Thành, từ trước đến nay bao giờ
Huyền Trân cũng nghĩ như thế. Nay nếu triều đình Đại Việt cho
cướp thái tử về thì dân Chiêm sẽ thấy là dân Việt tráo trở, thủ
đoạn, không tôn trọng lời cam kết. Huyền Trân không chịu đựng
được ý tưởng đó, nhưng nàng biết nàng không là gì cả trong một
xã hội mà người đàn bà không có quyền gì về mặt chính sự. Ai
hiểu cho nàng ngoài Phụ vương của nàng. Cuối tháng hai năm đó,
một chiếc thương thuyền khởi hành từ cửa Thuận, trên thuyền có
tám người Chiêm đã được huấn luyện để về Vijaya bắt cóc con
nàng. Lạ quá, tuy Huyền Trân phản đối việc trở về bắc cóc Thế tử
Chế Đa Gia, trong lòng nàng lại phát sinh ra niềm hy vọng là
cuộc bắt cóc sẽ thành công để nàng có thể đoạt lại được cái hạnh
phúc làm mẹ. Huyền Trân cảm thấy giận mình vì cái niềm hy vọng
đó. Nàng thấy nàng đang đồng lõa với tính cách thủ đoạn và tráo
trở của hành động bắt cóc. Nàng chiến đấu với tự tâm, muốn loại
bỏ ra khỏi lòng nàng cái niềm hy vọng này, nhưng lạ thay, càng
muốn đàn áp nó, nàng càng thấy nó lớn lên. Nó mạnh hơn nàng.
Nàng đau khổ vì chin1h nàng. Cuối cùng nàng tự cho rằng lý do
của sự yếu đuối đó nằm ở sự kiện nàng chỉ là một người đàn bà.
Mơ hồ trong tiềm thức, nàng biết rằng đó chỉ là một sự tự bào
chữa. Nàng là một người đàn bà thật đấy nhưng không phải là một
người đàn bà yếu đuối.
-
Thương thuyền khởi hành từ cuối tháng hai mà tói giữa tháng năm
vẫn không có tin tức trở về. Nóng ruột quá, quan thượng thư và
quan An Phủ Sứ gửi tiếp một đoàn lái buôn khác, lần này theo lộ
trình đường bộ, nhưng đến đầu tháng bảy vẫn không có tin tức của
đoàn nào nhắn về. Hiển nhiên là sứ mạng của cả hai đều đã thất
bại, chưa chừng mọi người đã bị bắt bớ và tù đày. Rằm tháng bảy
năm ấy, quan thượng thư và quan An Phủ Sứ quyết định bãi bỏ kế
hoạch bắt cóc Thế tử Chế Đa Gia. Ba chiếc thuyền được lập tức
trang bị cho Huyền Trân và hai vị đại thần trở về kinh sư. Đoàn
tùy tùng gồm có hai mươi bốn người, trong đó có cả Ratna và Thị
Ngọc. Bốn vị tăng sĩ đã lên đường về kinh sư từ trước ngày Phật
Đản.
-
Kiệu đi ròng rã suốt hai mươi ngày mới về tới kinh đô Thăng
Long. Huyền Trân đã nhìn lại quê hương với những con mắt mới.
Nàng luôn luôn nhìn ra cảnh vật bên đường. Mỗi khi vượt đèo, qua
sông, thấy nước non cẩm tú, nàng không thể không nghĩ đến đất
nước và dân tộc Chiêm Thành. Đất nước kia và dân tộc kia cũng đã
trở thành đất nước của nàng và dân tộc của nàng. Người dân Chàm
cũng như người dân Việt, ở đâu cũng lam lũ, cần cù, đầy đủ sức
chịu đựng và khao khát hòa bình. Nhìn những mái tranh thấp
thoáng sau lũy tre, nhìn những đoàn thợ cấy lom khom trên ruộng
lúa, nhìn những chú bé ngồi trên mình trâu, nàng ao ước được rỗ
bỏ cái cốt cách vương giả của nàng để có thể trở về sống đời
sống dân dã của xóm làng. Nàng muốn tái sinh trong một kiếp
khác, thành một người dân quê. Có thể Phụ hoàng sẽ giúp cho nàng
toại nguyện.
-
Ngày mồng mười tháng tám, kiệu nàng về đến kinh sư. Về tới kinh
sư, vua Anh Tông và huệ Võ Đại Vương Quốc Chản, Huyền Trân được
biết là Tuyên Từ thái hậu, dì nàng, đã xuất gia vào ngày mồng
tám tháng tư năm ấy, Bà đã thọ Bồ Tát giới xuất gia tại chùa.
-
Báo Ân ở Siêu Loại và hiện bà đang tu ở am Bình Dương gần chùa
Sùng Nghiêm ở tỉnh Hải Dương. Nàng cũng biết là kế hoạch dùng
thuyền để cướp nàng đem về Đại Việt là do quyết định của vua Anh
Tông và của triều thần. Thượng hoàng đã không được thông báo gì
về việc này. Sau một ngày nghỉ ngơi để lấy lại sức khỏe. Huyền
Trân quyết định đi thăm Thượng hoàng trên núi Yên Tử. Nàng định
sau đó nàng mới về am Bình Dương, ở Hạ Lôi thăm thái hậu.
--o0o--
|
|