|
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
AM
MÂY NGỦ
Tác giả: Nhất Hạnh
PL. 2537-1993
--o0o--
-
-
Đêm
đã khuya, tiếng cười nói ở dưới nhà bếp đã im bặt. Các bà nữ cư
sĩ chắc đã đi ngủ rồi. Ni Sư Hương Nghiêm thầm nghĩ. Từ chiều
đến giờ họ lo chuyện bếp núc, nào ngâm đỗ, nào thái rau, nào sắp
lại chén bát. Ngày mai Phật Đản, cúng Phật chỉ cần một bát cơm
nhỏ, nhưng chuẩn bị cơm chay cho bách tính thì phải gánh này
gánh nọ. Hương Nghiêm mỉm cười. Cô đang ngồi trong liêu phòng
của cô, bên ngọn đèn dầu lạc để đóng những quyển vở làm quà cho
học trò của cô ngày Phật Đản. Cô nghĩ tới những con chim trong
lồng. Chúng phải đợi cho đến gần giớ Tỵ mới được tự do. Còn bọn
cá nữa. Cá phải chờ cho đến sẵm tối ngày mai. Hồi chiều, sợ cá
ngộp, cô đã đi lấy nước trong đổ vào năm thỏng cá. Cô nhớ có
một thỏng cá toàn là cá con. Cô không biết trong số những con cá
này, có con nào sẽ được bắt lại vào ngày Phật Đản sang năm
không. Trước khi được trả tự do, cả chim và cá đều được làm lễ
"quy y tam bảo". Chùa Nộn Sơn năm nay phóng sinh được mười hai
lồng chim và năm thỏng cá, kể ra chỉ được chừng hai trăm con
chim và ba ngàn con cá vừa lớn vừa nhỏ. Mua cá để phóng sinh,
thường thường người ta chỉ mua cá con. Để cứu cho được nhiều
sinh mạng. Hương Nghiêm nghỉ đến số lượng cá và chim được phóng
sinh trong khắp lãnh thổ nước Đại Việt. mấy triệu con, hoặc mấy
chục triệu con nhỉ? Khắp nước đâu đâu cũng có chùa. Có làng có
tới hai ngôi chùa. Làng nào cũng có chùa. Vậy thì ngày mai chim
về trời cá về nước nhiều lắm. Nghĩ cũng vui. Đức Phật đã nhập
diệt cách đây gần hai ngàn năm mà mỗi năm nhờ Ngài không biết
bao sinh mạng được thoát nạn. "Nam Mô Đại Bi cứu nạn Quan Thế Âm
Bồ Tát", Ni Sư Hương Nghiêm thầm niệm. Ngày mai không ai bị đói
cả. Đói thì lên chùa, thế nào cũng được ăn no. Chùa nào cũng
thế. Tập tục này đẹp làm sao. Ngày mai, không những vô số chim
cá được trả tự do mà các loài sinh vật khác cũng không bị tàn
hại. Ai cũng ăn chay và ai cũng cử sát sinh. Khuya nay sẽ không
ai mổ bò, sẽ không có ai cắt cổ gà, sẽ không có ai chọc huyết
lợn. Hương Nghiêm thầm cám ơn Đức Phật. Cô cảm động đến nỗi cô
muốn khóc. Mỗi năm chỉ có được một ngày như thế mà thôi. Một
ngày không giết chóc, một ngày không căm thù, một ngày không ai
phải mang bụng lép mà đi ngủ. Giá có ba trăm sáu mươi lăm ngày
Phật Đản trong một năm, hạnh phúc cho muôn loài là mấy.
-
Hồi chiều, Hương Nghiêm không dạy các em học mà chỉ hướng dẫn
cho các em treo đèn kết hoa trong khuôn viên chùa. Cô lại tập
cho các em diẽn lại cảnh đản sinh của Đức Phật. Con Tuất đóng
vai hoàng hậu Ma Gia, quàng trên vai và ngang lưng một tấm vải
vàng, tấm vải vàng may y còn dư của cô. Cái Thơm và cái Uyên
đóng vai hai người thị nữ. Thằng cu Lợi đóng vai ông tiên A Tư
Đà, nhưng vì u nó ốm cho nên thằng Thông phải thay. Thằng Thông
tước lá chuối làm bộ râu giả đeo vào cằm trông đến buồn cười. Nó
đóng vai ông tiên A Tư Đà không hay bằng thằng cu Lợi. Cu Lợi
bắt chước giọng khàn khàn của một ông già nghe thật ngộ nghĩnh.
-
Lớp học ở chùa do Hương Nghiêm trông coi. Hầu hết là trẻ con nhà
nghèo, buổi sáng làm việc đỡ đần cho bố mẹ, xế trưa lên chùa
học, chiều lại trở về giúp việc trong nhà. Tất cả đều ngoan
ngoãn, dễ dạy. Bé Tuất ước muốn lớn lên được đi tu như các Ni
Sư. Nó được phép lên chùa tập sư, nhưng sư tỷ của cô là Hương
Tràng có nói là tới mười sáu hay mười bảy tuổi nó mới nên quyết
định là nên đi tu hay không. Con bé học hành rất mau. Nó là đứa
khá nhất trong những đứa con gái trong lớp. Nhờ tập sự trên
chùa. Nó được học cả kinh kệ nữa, và đã có thể theo được buổi
công phu chiều. Ban đầu chính Hương Tràng đứng ra dạy trẻ. Sau
đó cô nhường trách vụ cho cô Hương Nghiêm.
-
Hương Nghiêm là con gái út của ông đồ Tân ở xã Xích Đằng thuộc
Lộ Long Hưng. Mẹ cô mất hồi cô lên mười. Cô có người anh tên
Trần Công Tịnh đã xuất gia từ lâu và hiện tu ở chùa Thụy Ứng tại
huyện Tiên Lữ. Cô cũng ưng được đi tu như anh, nhưng mãi đến năm
mười sáu tuổi mới được ông đồ cho phép. Cô được thế phát tại
chùa Vũ Ninh, làm đệ tử của thiền sư Bảo Phác. Cô là sư muội của
Ni Sư Hương Tràng. Trong thời gian học tập tại chùa Vũ Ninh, cô
đã để ý đến phong thái của người chị đồng sư đó và đem lòng kính
mến. Khi Ni Sư Hương Tràng được chỉ định về trú trì chùa Nộn
Sơn, cô đã ngỏ ý xin thầy bổn sư đi theo để nhập chúng chùa này
và cô đã được toại nguyện.
-
Hương Nhiêm biết chị Hương Tràng chưa đầy bốn tuổi tu, nhưng cô
vẫn kính trọng chị như một bậc thầy. Cô cũng biết Hương Tràng
vốn là một bà chúa, nhưng trong giao tiếp hằng ngày, cô không
thấy có gì ngăn cách giữa cô và vị sư tỷ ấy cả. Chị Hương Tràng
trong chiếc áo tu còn bình dị hơn cả nhiều vị Ni Sư mà cô đã
gặp. Cô gọi Hương Tràng là chị bởi Hương Tràng ưa được gọi như
vậy hơn là là được gọi bằng hai tiếng Ni Sư. Trong thời gian thụ
huấn tại viện Vũ Ninh, Hương Nghiêm đã có dịp gặp nhiều vị Ni
Sư, có người đã có trên hai mươi tuổi hạ, nhưng cô chưa gặp một
vị Ni Sư nào bình dị và tươi mát như Hương Tràng. Có người đi tu
vì đau buồn việc đời, có người đi tu vì tuổi lớn muốn được an
thân nơi cửa Phật, nhưng Hương Tràng đi tu rõ rệt là để được
sống một cuộc đời thanh đạm nhưng vui tươi và an lạc. Hương
Nghiêm cảm thấy may mắn được tu học gần Hương Tràng. Trong mấy
năm gần gũi, cô đã họ đọc rất nhiều ở Hương Tràng. Cô biết để có
thêm kiến thức về Phật pháp cô có thể theo học bất cứ ở ni viện
nào, nhưng học được nếp sống và cách tu của Hương Tràng thì chỉ
sống gần Hương Tràng cô mới học được. Cô biết, nhiều vị Ni Sư
học rộng về giáo điều nhưng nếp sống của họ không toả chiếu được
tinh thần cởi mở và bao dung của đạo Phật. Họ quá khắt khe về
mặt hình thức và sự khắt khe đó có thể làm khô héo sơ tâm. Hương
Tràng đã dạy cho cô biết rằng giải thoát là chuyện sinh hoạt
hằng ngày chứ không phải là một điều mong cầu cho tương lai. Nếu
ta không sống được đạo giải thoát ngay bây giờ thì không bao giờ
ta có giải thoát cả. Theo nhận xét của cô, nếp sống của Hương
Tràng là một nếp sống có giải thoát, và sự giải thoát này Hương
Tràng đã đạt được nhờ tháo gỡ được những sợi dây phiền não đã
từng ràng buộc tâm hồn. Cô thấy những lời giải thích của người
chị đồng sư rất đơn giản và dễ hiểu chứ không phiền mật như
trong các bộ kinh luận mà cô đã học. Hương Tràng có nói cô nghe
về cái cảm giác an lạc mà Hương Tràng được nếm lần đầu khi nghe
chú Pháp Đăng tụng công phu sáng ở chùa Long Động. Cô hiểu được
rằng Hương Tràng đã trải qua cái cảnh "chết đi sống lại" mới nếm
được thiền vị đó. "Chết đi sống lại" là một từ ngữ thiền. Hương
Tràng đã từng chấp nhận lên nằm trên hỏa đàn để xác thân cháy
thành tro bụi và sau đó được trao cho một sinh mạng mới. Lần đầu
tiên trong hai mưới năm đầy của cuộc sống, Hương Tràng biết thế
nào là sự an lạc, dù chỉ mới là sự an lạc của cảnh giới sơ
thiền, của sự buông thả, của quyết định chấm dứt sự tìm cầu, và
từ giây phút đó, Hương Tràng đã quyết định không đánh mất một
giây phút nào của cuộc sống; chị ấy đã tìm thấy an lạc ngay
trong công việc chấp tác hằng ngày như xay lúa, giã gạo, bón
phân, tưới nước. Hương Nghiêm đang quyết tâm học cho được nếp
sống đó. Cô biết mình còn non yếu hơn sư tỷ của cô về mặt kinh
nghiệm tâm linh, nhưng cô tin chắc là cô cũng có thể làm được
như Hương Tràng.
-
Tuy là con một ông đồ, nhưng từ hồi ở nhà cô đã biết làm việc
chân tay. Về Nộn Sơn, cô thường tìm dịp chấp tác chung với Hương
Tràng. Chùa có kho chứa thóc, cứ mỗi tháng thì xay thóc và giã
gạo một lần. Vào những ngày rằm và vía lớn, chùa làm đậu phụ và
chao, còn tương thì mỗi năm chỉ làm có một lần. Những công việc
ấy đều do các Ni Sư tự làm lấy, từ Ni Sư tự trường lớn nhất cho
đến cô là người trẻ nhất. Hương Tràng là người từ nhỏ đến lớn
được sống trong cung điện, vậy mà chỉ tập tành trong mấy tháng,
chị ấy cũng làm được như mọi người. Chính Hương Tràng đã dạy cho
cô cách thức vừa xay lúa vừa tập phép quán sổ tức. Bây giờ đây
mỗi khi xay thóc, nhìn cái tai cối xay quay, cô không còn để tạp
niệm lôi cuốn nữa. Cô an trú được trong chính niệm. Cô lại nghe
lời Hương Tràng áp dụng phép quán trong khi chấp tác các công
việc khác như lau rửa thượng điện, cắm hoa bàn Phật, rửa chén
bát sau buổi ngọ trai. Hương Tràng giảng cho cô nghe rằng điểm
khác biệt căn bản giữa đời sống thế gian và đời sống giải thoát
là sự thực hành thiền quán ngay trong khi chấp tác. "Nếu không
tu trong khi chấp tác thì ta có khác gì người thế gian đâu?".
Hương Tràng dã nói như vậy. Cô thấy điều ấy quan trọng quá cho
nên cô quyết tâp áp dụng nó trong từng giây phút của cuộc sống
hằng ngày.
-
Hương Nghiêm là một cô gái có ngăn nắp. Cô không ưa kéo dài công
việc, vì vậy mỗi khi làm một công việc gì, cô chỉ muốn làm cho
chóng xong. Công việc xong rồi, cô mới thấy an tâm và khỏe khoắn
được. Sư tỷ của cô bảo trong khi làm việc gì thì không nên mong
cho việc chóng xong. Phải tìm nguồn vui và sự thoải mái ngay
trong công việc mình đang làm. Có một hôm trong khi giảng sách
Thượng Sĩ Ngữ Lục cho cô và Ni Sư Đàm Thái, sư tỷ đã kể chuyện
một vị thiền sư chứng ngộ trong khi khâu lại một chiếc áo rách.
Vị thiền sư này thường hoan hỷ khâu áo rách cho bạn đồng tu. Vừa
khâu, ông vừa thực tạp thiền quán. Ông tu ngay trong khi làm
việc. Một hôm trong khi khâu áo, ông thấu suốt được lẽ bất sinh
bất diệt của vạn pháp. Trong sáu mũi kim liên tiếp ông chứng
được lục thông. Kể câu chuyện ấy xong, Ni Sư Hương Tràng nói:
Nếu vị thiền sư kia trong khi khâu áo mà cứ mong khâu cho chóng
xong để ngồi thiền, thì ngài đã không đạt được chứng ngộ trong
khi ngồi khâu áo.
-
Hương Nghiêm nhớ mãi câu chuyện ấy. Từ nhỏ, cô chuyên cần tập
luyện, và mỗi khi cái ý tưởng muốn làm cho công việc chóng xong
tới với cô, cô lại nắm ấy hơi thở của mình, thở những hơi nhẹ và
dài, mỉm một nụ cười từ bi đối với chính cô và tự nhắc rằng phải
tu ngay trong khi làm công việc. "Mình dại dột thật, cô nghĩ.
Công việc thì nhiều, hết công việc này thì tới công việc khác,
nếu muốn làm cho xong thì bao giờ mà xong được". Cô chợt nhớ tới
bài kệ của một vị thiền sư:
-
Mầu nhiệm biết bao
-
Tôi gánh nước, chở củi
-
Mầu nhiệm biết bao
-
Tôi gieo bắp, trồng khoai.
-
Tại chùa Vũ Ninh, ngoài các bộ luật nghi, cô đã được học các
kinh Lăng Nghiêm và Lăng Già, Luật Đại Thừa Khởi Tín, Lục Bích
Nham và Lục Đại Tuệ. Giáo nghĩa của những kinh luận này rất uẩn
áo, cô có cảm tưởng cô chưa nắm vững được hết. Về Nộn Sơn, cô
được sư tỷ cô dạy Kinh Niệm Xứ. Đây là một cuốn kinh gối đầu
giường cho người tu thiền. Ni Sư Hương Tràng nói Kinh Niệm Xứ là
một trong những kinh cổ nhất; ngày xưa, hồi Phật còn tại thế,
môn đệ của ngài đã tu tập theo kinh này rồi. Lời kinh đơn giản
và tính cách thực dụng. Kinh dạy về cách thở và cách quán niệm.
Sư tỷ của cô có nói là hồi ở Chiêm Thành bà đã có dịp nghe các
tăng sĩ tụng kinh này bằng tiếng Phạn.
-
Hương Nghiêm cảm thấy hơi tự hào vì cô có được một người chị
đồng sư khác thường. Sư tỷ của cô biết đọc cả Phạn ngữ. Đó là
một điều rất hiếm có. Tăng ni trong nước rất đông nhưng không
mấy người biết tiếng Phạn. Có lần Hương Tràng đọc bài tam quy
bằng tiếng Phạn cho cô nghe. Thật lạ tai, mà cũng thật sảng
khoái.
-
Gần đây, Hương Nghiêm đã đạt được nhiều tiến bộ trong sự tu học.
Cô có dịp đọc lại kinh Lăng Già và thấy mình hiểu được những
đoạn kinh mà năm xưa cô không hiểu dù cô có cố gắng cách mấy
nữa. Cô trở nên thanh thản hơn và biết chú ý đến những chi tiết
nhỏ nhặt của đời sống quanh mình, những chi tiết nhắc nhở cho cô
về tính cách mầu nhiệm của sự sống. Lòng từ bi của cô hình như
đã được nuôi dưỡng nhờ công phu thiền quán. Cô ít còn trách cứ
kẻ khác. Trái lại, cô đã trở nên bao dung và biết nhìn bằng con
mắt thương xót. Cô hiểu tại sao chị Hương Tràng đã có thể săn
sóc bọn con nít trong làng một cách tận tình làm như đứa nào
cũng là con của chị. Hương Nghiêm mơ ước một ngày kia về thăm
ông đồ và nói cho cha của cô biết về những diễn biến trong cuộc
đời hành đạo của cô. Cô mong rằng ông đồ cũng sẽ tu tập được như
cô để có được sự an lạc trong lúc tuổi đã về già.
-
Ở Nộn Sơn, cô là người gần gũi Hương Tràng nhất, vì cô vừa là em
đồng sư của bà mà cũng vừa là người biết lắng nghe bà nhiều
nhất. Về vụ ruộng đất, cô là người đầu tiên đồng ý với Hương
Tràng là không nên nhận thêm ruộng, dù đó là truộng của Bảo Từ
hoàng hậu cúng dường. Cô biết hễ có nhiều ruộng là có nhiều
chuyện phức tạp đi theo, và điều đó làm phiền nhiễu đến nếp sống
tu học của đại chúng không ít. Hoàng hậu cúng ruộng chắc là có
chủ ý để cho các Ni Sư ở chùa được bớt cực nhọc tay chân, nhưng
hoàng hậu có biết đâu việc quản lý ruộng đất, canh phu và mùa
màng còn làm cho đại chúng mất thêm thì giờ tu học hơn nữa.
Những kẻ khác cúng ruộng cho chùa có thể là nể lòng hoàng gia,
Hương Tràng từ chối là phải. Quan sở tại muốn có công đức với
Phật pháp thì cứ cầm cân nảy mực cho hay, bênh vực kẻ yếu thế,
trừng trị giới cường hào ác bá, đi, cần gì phải cúng ruộng cho
chùa? Ni Sư Tĩnh Quang ban đầu tỏ vẻ không vui vì Hương Tràng
không chịu nhận ruộng cúng dường, nhưng sau đó bà cũng chìu theo
ý kiến của số đông. Ni Sư Đàm Thái thì luôn luôn hoan hỷ và dễ
dãi, cho nên không có chuyện khó khăn gì. Vậy là việc ruộng
nương được thông qua, êm đẹp.
-
Hương Tràng cũng đã từng tâm sự với cô Hương Nghiêm về Thế tử
Chế Đa Gia. "Bây giờ nó đã hơn bốn tuổi rồi. Nó biết mẹ nó là bà
hoàng Paramesvari, chứ không biết hình dáng mẹ ra sao. Chắc chắn
là bây giờ nó nói toàn tiếng Chiêm và không hiểu được một tiếng
Việt nào", Hương Tràng đã từng nói với cô với đôi mắt long lanh.
Hương Tràng chấp nhận hoàn toàn cái ý kiến cho rằng Thế tử Chế
Đa Gia là thuộc về sở hữu của hoàng gia Chiêm và tin tưởng rằng
Chế Đa Gia sẽ lớn lên trong sự nuông chiều của mọi người bên đó,
nhưng tin tức về cuộc chiến tranh Chiêm Việt cuối năm ngoái đã
làm cho Hương Tràng buồn đau. Không phải là Hương Tràng chỉ lo
cho sự an nguy của đứa con trai ở thành Phật Thệ. Chị ấy đau
buồn vì sự đỗ vỡ của tình hòa hiếu hai nước.
-
Mới hồi hôm, chị Ngọc tiết lộ cho Hương Nghiêm nghe những chi
tiết thật buồn về cuộc chiến. Lúc đó trời đã sẫm tối, Hương
Tràng còn đi thăm mẹ thằng cu Lợi chưa về. Trong tư dinh của
quan tư đồ Trần Quan Triều, chi Ngọc đã nghe được nhiều chuyện
của triều đinh mà ít người được nghe. Thượng hoàng băng vừa đúng
ba năm thì có cuộc chiến tranh này. Người ta đã đợi để cho hết
tang ngài, nhưng người ta đã chuẩn bị cuộc chiến từ lâu. Theo
như chị Ngọc nói thì chính quan hành khiển Đoàn Nhữ Hài là người
đầu tiên đưa ra ý kiến đánh Chiêm và cũng là người đề nghị kế
hoạch tạo ra nội ứng. Năm ngoái sứ thần Chiêm Thành được lệnh
vua Chế Chí đem vàng bạc và các vật qúy khác ra cống hiến Đại
Việt theo thông lệ. Sứ thần này vốn là trại chủ trại Câu Chiêm,
làm quan trấn thủ ải địa đầu của Chiêm Thành, ngay sát đèo Mây.
Được sự đồng ý của vua Anh Tông, quan hành khiển đã mật ước với
sứ thần, báo rằng nếu cuộc hành quân thành công thì sứ thần sẽ
được cất nhắc lên địa vị lớn. Trong trận này, vua Anh Tông thân
chinh đem quân đi đường bộ, Huệ Võ Đại Vương Trần Quốc Chẩn đem
quân leo đường núi, còn Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư đem quân đi
đưòng biển. Tháng năm, quân Đại Việt bắt được vua Chế Chí đem về
và đưa em của vua là Chế Năng lên ngôi. Hiện vua Chế Chí được
giam lỏng tại hành cung Gia Lâm. Tuy được phong là Hiệu Thuân
Vương, kỳ thực vua là một người tù nhân của Đại Việt.
-
Hương Nghiêm thấu hiểu được tâm trạng cô đơn của người chị đồng
sư. Cô biết nếu nghe được tin này, sư tỷ Hương Tràng của cô sẽ
buồn lắm. Mấy ai hiểu được lòng của Trúc Lâm đại sĩ. Ai cũng
xưng là Phật tử nhưng mấy ai có được một trái tim và hai con mắt
từ bi như ngài. Lắm khi đạo đức chỉ là cái vỏ giả trá bên ngoài.
Bên trong chỉ có tham vọng và dối trá. Danh dự và tình nghĩa đối
với họ có thiết yếu gì. Nói rằng cua Chế Chí phản trắc phải đem
binh qua chinh phục, nhưng vua Chế Chí phản trắc ở chỗ nào? Biên
giới tự ấy đến nay đâu có bị người Chiêm qua quấy nhiễu? Triều
cống thì nước Chiêm vẫn triều cống như thường lệ. Người Đại Việt
đã từng nguyền rủa nước Tống và người Nguyên vì sự hung dữ và óc
xâm lược của những nước này. Vậy thì tại sao người Việt lại vẫn
không thôi dòm ngó nước Chiêm và dở cái trò ỷ mạnh hiếp yếu?
Những người chết ở đất Chiêm như bố thằng cu Lợi là để làm gì và
phục vụ cho ai? Trong khi đó, người ta vẫn cho mình là người có
đạo đức. Chính quan hành khiển Đoàn Nhữ Hài cũng cúng tiền để
đúc chuông và tạo tượng! Thầy bổn sư của cô có kể chuyện cả
triều đình quy y thọ giới năm Giáp Thân, hồi lúc Trúc Lâm đại sĩ
còn sống. Năm ấy vua Anh Tông thỉnh ngài vào Đại Nội để xin thọ
Bồ Tát Tâm Giới tại gia. Thấy vua làm như vậy, bách quan trong
triều đinh cũng đều xin thọ tam quy và ngũ giới. Theo quốc sư
Bảo Phác thì nhiều người thọ giới là để làm cho vua vui lòng chứ
có thật tâm tu hành gì đâu. Đó là những người gió chiều nào theo
chiều ấy. Đã đành rằng có những người thực tâm tu học, nhưng số
người giả danh thời nào mà chẳng có. Điều quan yếu không phải là
cái lễ quy y thọ giới; điều quan yếu là sống cho đúng với tinh
thần của quy giới. Sống có quy giới thì không thể không tôn
trọng tình nghĩa và danh dự, không thể không tôn trọng sự sống
của mọi hàm linh. Hương Nghiêm biết rằng sau khi đại sĩ Trúc Lâm
thị tịch, người ta đã xây chùa Vân Yên rất lớn trên núi Yên Tử,
có cả lầu chuông, lầu trống uy nghiêm. Am Lân ở lưng chừng núi
cũng được xây cất thành chùa Long Động với mái ngói lầu son rực
rỡ. Các chùa Báo Ân, Vĩnh Nghiêm và Sùng Nghiêm được trùng tu
rất đồ sộ. Ruộng cúng vào các chùa ấy có đến mấy ngàn mẫu. Cô
nghe nói rằng chùa Quỳnh Lân có trên một ngàn mẫu ruộng tốt và
chùa nuôi tới trên một ngàn canh phu. Người đi xuất gia rất
đông. Hàng năm tại chùa Vĩnh Nghiêm giáo hội làm lễ xuất gia cho
cả hai ba ngàn người. Chùa Báo Ân có tới ba mươi ba tòa nhà, kể
cả Phật điện, tàng kinh lâu và tăng đường. Người xuất gia đông
quá, giáo hội phải xây dựng đến hai trăm tăng đường mới có đủ
chỗ cư trú tu học cho các vị tân tăng. Thủ lãnh giáo hội là
thiền sư Pháp Loa đã cho đúc tới một ngàn ba trăm tượng Phật
bằng đồng. Văn phòng Giáo Hội Trung Ương được đặt ra tại chùa
Vĩnh Nghiêm ở Lương Giang, tăng sĩ trong nước đều có tăng tịch
cất chứa tại dây. Những lớp giảng kinh ở chùa Báo Ân có đến hàng
ngàn người ghi tên theo học. Thật là một sự hưng thịnh chưa bao
giờ từng có. Ni Sư Tĩnh Quang tự trưởng chùa Nộn Sơn mỗi khi
nhắc đến sự hưng thịnh đó thì hai mắt sáng trưng. Ni Sư Đàm Thái
cũng rất hoan hỷ khi nghe nói về những phát triển lớn lao của
Giáo Hội. Chỉ có sư tỷ của Hương Nghiêm là không lộ vẻ vui mừng.
Ban đầu Hương Nghiêm không hiểu vì sao, nhưng sau khi nghe sư tỷ
giải thích cô mới thấy được chân tướng của sự việc. Chùa to Phật
lón không phải là dấu hiệu của sự thinh đạt. Hồi Trúc Lâm đại
sĩ tu ở Yên Tử, trên núi chỉ có mươi cái am lá, vậy mà đạo đức
thơm lừng cả bốn cõi. Khắp nước, người dân vọng về núi Yên Tử
như vọng về một quê hương tinh thần. Thỉnh thoảng đại sĩ xuống
núi, mặc chiếc áo bạc màu, ngài đi giảng thuyết trong dân gian.
Ngài chống gậy, đi dép cỏ, tay cầm bát gỗ. Đến đâu, dân chúng
cũng tụ họp quanh ngài để nghe ngài nói. Đại xĩ khuyên dân bỏ
các tục lệ xấu và tu thân theo giáo lý thập thiện. Một ông vua
bỏ ngai vàng điện ngọc, khoác áo vá, đi dép cỏ, nằm chỏng che,
ăn cơm hẩm làm một ông thầy tu khổ hạnh. Nhìn ngài, ai mà không
cảm động. Ngài nói, ai mà không tin. Phía Bắc, nước Nguyên không
còn dòm ngó. Phía Nam, giao hảo tốt đẹp, công chúa Huyền Trân
ngồi ngôi hoàng hậu thành Phật Thệ. Trăm họ âu ca. Sự thịnh đạt
là ở chỗ đó, chứ đâu cần phải chùa to Phật lớn. Bây giờ đây, cả
triều đình cúng chùa, tạo tượng và đúc chuông, nhưng thịnh đạt
chỉ còn là hình thức.
-
Mỗi năm, giáo hội tổ chức an cư kiết hạ tại các chùa Báo Ân,
Sùng Nghiêm, Vĩnh Nghiêm, Quỳnh Lâm và cả ở các chùa trên núi
Yên Tử nữa. Tăng sĩ về an cư đông lắm, mỗi chùa có từ ba tới năm
trăm vị. Vị nào mà được nhập chúng an cư một lần trên các chùa
Vân Yên và Long Động đều cũng tự cho là mình có phước duyên lớn.
"Dù ai dốc chí tu hành, có về Yên Tử mới đành lòng tu", dân
chúng trong khi hát câu ca dao đó đã nhớ tới vị thiền sư khổ
hạnh năm xưa của họ. Hương Nghiêm cũng đã từng ao ước lên viếng
chùa Vân Yên nơi có bảo tháp Huệ Quang cất dấu xá lợi của đức
đại sĩ Trúc Lâm nhưng cô thấy thiên hạ xu hướng về đó đông đảo
quá nên lại thôi. Cô đã từng ngỏ ý với sư tỷ Hương Tràng của cô,
mong ước một ngày nào hai chị em cùng được lên núi Yên Tử thăm
bảo tháp Huệ Quang, nhưng Hương Tràng hình như không muốn lên
núi Yên Tử nữa. Sư tỷ của cô nói với cô là bà đã lên núi Yên Tử
một lần. Có lẽ trong chuyến lên núi năm Mậu Thân ấy, chị Hương
Tràng đã ghi nhận được hình ảnh đẹp nhất của ngọn núi rồi, và
muốn giữ mãi trong tâm hình ảnh tuyệt vời ấy. Đó là hình ảnh một
ngọn núi tâm linh cao chót vót trên đó có dáng ngồi của một đạo
sĩ trầm lặng và thanh bạch. Hương Nghiêm hiểu được tâm trạng của
người chị đồng sư. Cô buồn rầu nghĩ rằng có lẽ một hôm nào đó cô
phải xin phép đi lên núi Yên Tử một mình để chiêm bái xá lợi của
đại sĩ. Cô sẽ cố gắng không chú ý tới lầu vàng điện ngọc của
những ngôi phạm vũ mới. Cô sẽ chỉ nhìn mây, nhìn núi, nhìn những
gốc thông, những lối đi, len lỏi trong rừng để hình dung lại
dáng vị thiền sư năm trước. Nếu có người chị đồng sư của cô cùng
đi thì cô sẽ sung sướng hơn biết bao nhiêu. Tuy cô không có cơ
duyên được diện kiến Trúc Lâm đại sĩ, cô cũng có cảm tưởng được
thấy dáng dấp của người. Trong Đại Hương Hải Ấn Thi Tập
có một bài thơ của đại sĩ mà cô rất ưa. Đó là bài Lên núi Bảo
Đài:
-
"Cảnh vắng đài thêm cổ
-
Xuân sang mầu chửa hồng
-
Xa gần mây núi hợp
-
Rợp bóng nẻo hoa trồng
-
Vạn sự nước xuôi nước
-
Trăm năm lòng ngỏ
-
Tựa lan, nâng sáo thổi
-
Trăng sáng đầy cõi Tâm".
-
Cô nhớ lại hồi mới về nhập chúng chùa Nộn
Sơn. Chùa này khi mới lập thì mang danh là Hổ Sơn. Khi sư tỷ của
cô về, bà đã đổi tên là Nộn Sơn. Đây cũng là một hòn núi, nhưng
hòn núi này làm sao sánh được với ngọn Yên Tử. Chữ Nộn có nghĩa
là mới được gầy dựng, còn non, còn chưa chín. Nó nói lên được
tâm tình khiêm nhượng của sư tỷ cô. Cũng đồng thời là sơn
nhưng ngọn núi nào so cho tày với ngọn Yên Tử?
-
Nghe nói thiền sư Huyền Quang
hiện đang trú trì trên núi Yên Tử. Thiền sư Huyền Quang lúc mới
xuất gia đã theo học với thầy của cô, cho nên ông cũng là sư
huynh của cô. Cô nghe nói thầy Huyền Quang đã từng đậu trạng
nguyên và đã làm quan tới hai mươi năm trong triều. Ông nổi
tiếng là làm thơ hay, thơ chữ cũng như thơ Nôm. Trong giới thiền
gia hiện có lưu hành bài phú Nôm "Vịnh Chùa Vân Yên" của ông.
Hiện giờ có một bản chép tay, nhưng chữ Nôm của cô còn yếu nên
cô chưa đọc được trọn bài. Cô yếu chữ Nôm cũng vì thân phụ cô.
Ông ghét chữ Nôm và cứ bảo cô "nôm na là cha mách qué". Ấy vậy
mà bây giờ chữ Nôm được thiên hạ xử dụng cũng nhiều. Sư tỷ cô có
hai bài phú của đại sĩ Trúc Lâm viết bằng chữ Nôm, một bài nhan
đề là "Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca" và một bài nhan đề là "Cư
Trần Lạc Đạo Phú". Sư tỷ của cô đã từng đem hai bài này giảng
cho trong chúng nghe. Ni Sư Tĩnh Quang tuy lớn tuổi và làm tự
trưởng nhưng không có buổi giảng kinh nào của sư tỷ cô mà bà
không tham dự. Ai cũng công nhận là sư tỷ cô có học thức uyên
bác và cũng muốn học với sư tỷ cô. Cô quyết tâm học cho giỏi chữ
Nôm. Hôm nào cô sẽ viết thư về cho thân phụ cô bằng chữ Nôm. Thế
nào "ông già" cũng phải đọc. Chữ Nôm há không phải là chữ riêng
của người Đại Việt sao?
-
Sư tỷ của cô hồi chiều đã về chùa rất muộn. Hai đứa bé ở xóm
dưới đã đốt đuốc đưa Hương Tràng về. Tình trạng u thằng cu Lợi
đã hơi thấy thay đổi. Bà hết còn ôm bụng kêu đau. Sư tỷ Hương
Tràng đã mời được ông lang ở huyện Ý Yên sang. Có cả bà mụ túc
trực nữa. Có hai người này sư tỷ của cô mới an tâm về chùa,
nhưng trước khi đi, bà dặn thằng cu Lợi có biến cố gì thì chạy
lên chùa báo cho bà biết. Khi Hương Tràng về tới chùa thì đã gần
tới giờ chỉ tịnh. Bà kể sơ lược cho cô về tình trạng rồi đi vào
liêu phòng. Có lẽ giờ này bà đã an nghỉ.
-
Hương Nghiêm vừa đóng xong cuốn tập cuối cùng cho bọn học trò
nhỏ của cô. Bên ngoài, trời yên tĩnh quá. Bây giờ chắc đã quá
nửa đêm. Mọi người hẳn đang ngủ ngon, nhưng ngài Đản Sinh đã về
rồi. Khoảng đầu giờ Tỵ khi mặt trời vừa lên ấm thì đức Thế Tôn
giáng thế. Ngày mai là một ngày lễ bận rộn, cô phải đi nghỉ để
có sức khỏe cần thiết. Giữa giờ Dần cô đã phải trở dậy rồi để
cùng đại chúng làm lễ chúc tán. Khuya nay chuông trống Bát Nhã
sẽ làm cho các bà các cô ngủ lại chùa dậy sớm. Lễ chúc tán được
cử hành ngay trong buổi công phu khuya. Đầu giờ Tỵ thiện nam tín
nữ mới vân tập lại chùa để làm lễ vía Đản Sinh, lễ cầu an và lễ
quy y cho chim và cá. Đầu giờ Ngọ mới có lễ tắm Phật cử hành
trong vườn cảnh của chùa. Lúc ấy thiện nam tín nữ sẽ đến chùa
đông lắm và sẽ đứng chật sân chùa. Bọn trẻ đã được cô tập tành
kỹ lưỡng để diễn lại sự tích Đản Sinh. Thế nào chúng cũng mặc
chiếc áo lành lặn nhất của chúng. Dưới một cái vòm bằng tre kết
đầy hoa lá theo hình vòng cung, cô đã an trí một tượng Phật sơ
sinh bằng đất nung màu đỏ hồng. Đức Phật sơ sinh đứng trên một
đóa sen, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ dưới đất. Một tay chỉ
xuống nước thì đúng hơn, bởi vì cô đã an vị ngài trên chiếc hồ
trước hòn non bộ. Một chum nước lá thơm sẽ được kê ra gần hòn
non bộ ấy, và mỗi người sẽ đến chắp tay trước Phật sơ sinh rồi
múc nước thơm bằng chiếc gáo dừa con để dội lên trên mình ngài
một cách cung kính.
-
Hương Nghiêm xếp các cuốn tập ngay ngắn trên án thư. Vừa thay áo
nhật bình cô vừa quán niệm theo phép dạy của thiền sư Độc Thể.
Cô theo dõi hơi thở trong khi ngả mình nằm trên đơn. Giấc ngủ
đến rất mau. Trong mơ cô thấy bọn trẻ đang diễn sự tích Đản
sinh. Thằng cu Lợi với bộ râu lá chuối của nó đang đóng vai ông
tiên A Tư Đà. Nó chống gậy đi lom khom, ngang lưng quấn một mảnh
áo đạo sĩ. Nó đi từng bước tới trước mặt vua Tịnh Phạn và hoàng
hậu Ma Gia để nhìn mặt coi tướng cho thái tử vừa ra đời. Nó nói
bằng cái giọng khàn khàn của một ông đại sĩ già: "Tâu bệ hạ,
thái tử đây sẽ trở thành một Đức Phật Như Lai ... bần đạo khóc
là vì sẽ không sống được tới ngày thái tử thành Phật". Ông tiên
A Tư Đà còn nói gì nhiều nữa, nhưng Hương Nghiêm không theo dõi
được. Cô chỉ để ý đến chiếc hoa chuối mà con bé Tuất đang ôm
trong hai tay. Bé Tuất đóng vai hoàng hậu Ma Gia. Nó ôm bắp hoa
chuối quấn trong một miếng lụa vàng. Thế nhưng bắp hoa chuối
động đậy trong tay bé Tuất, rồi hào quang từ đó tung tóe rực rỡ.
Nhìn kỹ, Hương Nghiêm thấy bắp hoa chuối đã trở thành Đức Phật
sơ sinh thật sự đang mỉm cười trong tay bé Tuất. Mừng rỡ quá, cô
quỳ xuống trước mặt bé Tuất để chắp tay làm lễ.
--o0o--
|
|