|
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
AM
MÂY NGỦ
Tác giả: Nhất Hạnh
PL. 2537-1993
--o0o--
-
-
Am
Mây Ngủ tuy là một truyện ngoại sử nhưng nó không có tính cách
truyện giả sử mà trái lại rất gần với chính sử. Năm tháng và
những dữ kiện lịch sử trong truyện đều phù hợp với chính sử.
Sách Tam Tổ Thực Lục mà tác giả sử dụng đã bổ khuyết được nhiều
cho các bộ quốc sử và đính chính lại những điểm ghi chép sai lầm
trong các bộ này.
-
Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nói rằng: "vua Chế Mân băng vào
tháng năm năm Đinh Mùi, và mãi đến tháng mười năm ấy quan Thượng
Thư Tả Bộc Xa là Trần Khắc Chung và quan An Phủ Sứ Đặng Vân mới
khởi hành qua Chiêm để đón công chúa và thế tử Đa Gia về, bởi vì
theo tục nước Chiêm Thành, hễ vua chết thì hoàng hậu phải lên
hỏa đàn chết theo". Thực ra, hỏa đàn của vua theo đúng tục lệ
Chiêm Thành, được tổ chức bảy ngày sau khi vua băng. Khởi hành
từ Thăng Long vào tháng mười một, như vậy là đã hơn sáu tháng
trôi qua ngày vua lên đàn hỏa. Người Chiêm đã để cho Huyền Trân
sống cho tới ngày sứ giả Đại Việt qua tới, điều đó chỉ có thể
giải thích bằng thái độ e dè của người Chiêm không muốn gây nỗi
bất bình với vua Đại Việt. Khi người Đại Việt cướp công chúa về,
không phải là người Chiêm không đuổi theo bắt lại được. Họ là
những thủy thủ rất thiện nghệ. Nhưng họ đã để cho công chúa đi
thoát. Những dữ kiện trên đáng làm cho ta suy nghĩ.
-
Thái tử Chế Đa Gia nhất định là con của công chúa Huyền Trân,
nếu không thì tại sao vua Đại Việt ra lệnh cho Trần Khắc Chung
và Đạng Vân đón thái tử về cùng với công chúa? Nhưng người Chiêm
đã cố tình giữ thái tử Chế Đa Gia lại, vì thái tử là thuộc về
dòng họ của vương quốc Chiêm Thành. Vì lẽ đó mà các quan đã
không bắt theo được thái tử Chế Đa Gia.
-
Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có thể nói đến vụ Trần Khắc Chung
"tư thông vói công chúa rồi loay hoay ở đường biển lâu ngày mới
về đến kinh sư". Vụ này có thể là do miệng lưỡi xấu xa thêu dệt.
Trần Khắc Chung đâu phải đi Chiêm một mình. Bên cạnh ông còn có
quan An Phủ Sứ Đặng Vân và cả một thủy thủ đoàn mà ta biết chắc
là đông đảo.
-
Sách Đại Việt Sử Ký lại còn nói rằng sau khi Trúc Lâm đại sĩ
mất, trong triều đình có người xin vua làm tội thiền sư Pháp
Loa, vì thiền sư đã dám làm lễ hỏa thiêu Thượng hoàng mà không
cho vua và triều thần hay biết. Thực ra, người đứng ra dựng hỏa
đàn là thiền sư Bảo Sát. Lễ khai hỏa đàn cử hành đêm mồng hai
tháng mười một mà tới ngày mồng bốn thiền sư Pháp Loa mới lên
tới núi Yên Tử. Nếu bắt tội thì bắt tội Bảo Sát chứ sao lại bắt
tội Pháp Loa. Sách Tam Tổ Thực Lục cho ta biết chính Trúc Lâm di
chúc cho Bảo Sát làm lễ hỏa táng ngài ngay tại am Ngọa Vân trước
khi báo tin về triều đình biết.
-
Sách Tam Tổ Thực Lục nói rằng khi vua Nhân Tông mới sinh, sắc
mặt vàng như hoàng kim, nên vua Thánh Tông yêu quý gọi thái tử
là "Kim Phật". Tác giả sách Đại Việt Sử Ký, một nhà Nho không ưa
Phật, nói rằng "Ở trong hai cung, mọi người gọi thái tử là "kim
tiền đồng tử". Những chi tiết như vậy, tuy nhỏ nhặt, cũng làm
giảm đi ít nhiều giá trị của bộ sử.
-
Tác giả Truyện Am Mây Ngủ chưa được viếng núi Hổ Sơn, chỉ nhờ
đọc sách Đại nam Nhất Thống Chí cho nên biết được rằng công chúa
Huyền Trân sau khi về nước đã lên tu ở đây, và nhờ đọc bài
L'Inscription Chame de Po Sah của E. Aymoneir (Bull Comm.
Archeol, Indochine 1911) cho nên biết được rằng hồi mới về
Chiêm, công chúa được vua Chế Mân ban hiệu là Paramesevari và
việc này đã được khắc vào bia Po Sah.
-
Trúc Lâm đại sĩ và công chúa Huyền Trân đã "lỡ" thương người
Chàm cho nên mới muốn sống hòa bình với dân tộc Chàm. Vì thương,
họ đã mở rộng trái tim để đón nhận một dân tộc anh em. Cái ta
nhỏ hẹp trở thành cái ta rộng lớn.
-
Ai mà không muốn cho các dân tộc Đông Dương sống với nhau như
anh em một nhà. Nhưng vũ lực không chinh phục được tình huynh
đệ. Chỉ có lòng thương mới chinh phục được tình huynh đệ.
--o0o--
|
|