|
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
-
Con Dao Trong Tâm
-
Báo Viên Âm
-
--o0o--
-
-
Ngày
xưa ở thành Xá Vệ nước Ấn Độ, đức Phật đến hóa độ cho một gia đình
kia, hai vợ chồng đều có tánh tham lam độc ác, không biết tôn
trọng đạo đức. Ngài liền hóa một vị đạo nhân, mang bình bát đến
khất thực. Lúc ấy người chồng đi vắng, người vợ ở nhà, thấy vị đạo
nhân vào liền mắng chửi ầm lên. Vị đạo nhân hiền từ nói: "Tôi là
người tu hành, chỉ xin ăn mà tự sống. Lòng chỉ mong gia chủ cho
bát cơm để đỡ lòng, cớ sao lại mắng chửi đôi đủ điều thậm tệ như
vậy". Ngưòi vợ tức giận hét ngược lên, thì vừa người chồng về,
trong tay sẵn cầm con dao bén, chẳng nói chẳng rằng, người chồng
lặng lẽ xông tới, định chém vị đạo sĩ. Bỗng một bức thành bằng pha
lê hiện lên, bao bọc người đạo sĩ, bức thành trong sáng, kiên cố,
không có cửa, người chồng đến xô đập, đâm chém đủ cách cũng không
sao chuyển được. Người chồng liền nói:
-
"Ông
hãy mở mau cho tôi vào với". Vị đạo sĩ trả lời : "Được, nhưng ông
hãy quăng con dao bén đi đã". Người chồng tự nghĩ : "Mình to lớn
như thế này, còn người đạo sĩ bé nhỏ thế kia, mình dùng hai tay
không cũng đủ giết chết vị ấy trong giây lát" nghĩ đoạn, liền
quăng con dao bén đi xa, nhưng sao bức thành pha lê vẫn nguyên như
cũ, người chồng tức giận hét lên : "Tôi đã quăng con dao bén đi
rồi sao ông không chịu mở cửa cho tôi vào’. Vị đạo sĩ đáp: ‘Không,
tôi không có nói ông quăng con dao bén trong tay ông, tôi muốn ông
quăng con dao bén trong tâm ông kia mà". Người chồng giựt mình
kinh sợ, nhận thấy vị đạo sĩ thấu hiểu tâm lý thầm kín của mình,
nên đã bớt độc ác, cúi đầu lạy tạ, ăn năn hối lỗi. Bức thành pha
lê kiên cố ấy bỗng biến mất, vị đạo sĩ hiện thành Đức Phật, phóng
muôn ánh hào quang chói sáng rực rỡ một phương trời, và ngay khi
đó Đức Phật thuyết pháp để hóa độ cho hai vợ chồng người ấy.
-
-
Con Khỉ Nhân Từ
-
-
Đời
xưa, có một con khỉ lớn, sức lực mạnh mẽ, trí não thông minh và
lòng nhân từ của nó chưa chắc người đã bì kịp (tiền thân của Đức
Phật Thích Ca), nó đi khắp cả rừng này, núi nọ để cứu giúp những
kẻ gặp cơn hoạn nạn. Một hôm, đang ngồi ăn trái ở trên cây, nó
nghe có tiếng than khóc ở trong cái hang đá đưa ra. Ngạc nhiên nó
nhảy đến nhìn xuống hang, thì ra một người bị rơi xuống đáy mà
chẳng có đường lên. Nó tìm lối xuống hang rồi nói rằng: lên. Nó
tìm lối xuống hang rồi nói rằng : "Anh kia, anh đừng sợ hãi. Tôi
xuống để cứu anh đây. Anh cứ leo lên lưng tôi để tôi cõng anh ra".
Người bị nạn trong lòng sợ hãi, nhưng cũng liều trèo lên lưng khỉ.
Khi lần mò vịn từng cành cây khớp đá, cố đem hết sức lực mới ra
khỏi hang. Cả hai cùng mừng rỡ nhưng vì quá mệt mỏi, phải nằm lăn
trên thảm cỏ xanh, dưới một bóng cây to để nghỉ cho lại sức. Gió
hiu hiu đưa người và khỉ vào giấc ngủ say. Khi tỉnh dậy, người vừa
được cứu thoát nạn nghĩ thầm : "Ta lâu nay đói khát và đường về
nhà còn xa xôi, đồ ăn chẳng có, chi bằng trong lúc con khỉ đang
ngủ ta lén giết quách, lấy thịt ăn qua ngày". Người ấy liền lấy
một hòn đá to ném vào đầu khỉ. Khỉ bị thương máu ra lai láng, liền
nhảy lên cây, nhìn xuống, nó biết người kia cố tâm hại mình lòng
ngao ngán nhưng không giận hờn. Nó đau đớn nhìn con người ác độc
ấy và để rơi từng giọt nước mắt theo từng giọt máu đỏ xuống đám cỏ
xanh. Một hồi lâu, nó liền chuyền qua cây khác đi mất. /.
-
-
Gieo Gió Gặp Bão
-
-
Hồi
ấy, cách đây hơn 2500 năm, người ta tính trên đất Ấn Độ đã có đến
96 học thuyết và giáo phái. tôn giáo nào cũng tự hào lý thuyết
mình là đúng, là hay rồi tìm mọi phương cách để bành trướng. Trong
số có một phái tôn thờ qủy thần, thủ lãnh là một bà mập mạnh, có
giọng nói oanh oanh,lại thêm có tài hùng biện. Nhờ thế mà phái ấy
làm chủ được một vùng khá lớn
-
Hôm
nọ, một tin rung động từ xa đưa đến: Thái tử Tất Đạt Đa đã chứng
thành đạo quả ở gốc cây Bồ Đề, hiệu là Thích Ca Mâu Ni. Hiện ngài
đã bắt đầu đi truyền giáo. Người theo Ngài rất đông. Lý thuyết
ngài dạy là hễ gây nhân nào là hưởng quả ấy. Cuộc sống của mọi
người đều do bàn tay của họ sáng tạo. Con người không thể là trò
chơi của các đấng thần linh. Hay tin ấy, bà thủ lãnh rất đỗi lo
sợ. Bà lo vì ảnh hưởng của đức Phật càng lan rộng tất đạo của bà
sẽ hết người tôn thờ. Am đền của bà sè trở nên "hương tàn bàn
lạnh". Bà sẽ hết đất để sinh nhai. Nhưng lo cũng không khỏi, cái
gì tất sẽ đến, tín đồ của bà hướng về đức Phật mồi ngày mỗi đông.
Ăn ngủ không yên, bởi dòng suy tưởng chi phối. Bà mong có phương
pháp thần hiểu để hạ uy tín đức Phật.
-
Đêm
hôm ất, trằn trọc mãi không ngủ, bà đánh thức các môn đồ dậy lo
cho bà ăn thật sớm. Thấy nỗi thắc mắc và lo toan hiện rõ trên nét
mặt của bà, các môn đồ hỏi lý do. Bà cho hay là sáng ngày bà sẽ đi
sỉ nhục đức Phật. Bà khuyên môn đồ giữ vững đức tin. Bà hứa với họ
rằng, bà sẽ cầu xin đấng thần minh ban phước cho bà triệt hạ uy
tín đức Phật.
-
Cơm
nước xong, không gian đang mù tỏa ban đêm, bà hăm hở lên đường
trong niềm hy vọng. Vài giờ sau, mặt trời vừa xuất hiện, soi sáng
trần gian bà đã đến nơi đức Phật thiền định, bà la rầy khiêu khích
dùng lời thô tục mắng nhiếc đức Phật. Mặc cho bà quát tháo, đức
Phật vẫn ngồi yên lặng. Thật là hai thức cực! Thấy Phật không trả
lời, bà nghĩ là Ngài đã thua cuộc và chứng tỏ rằng Ngài quá ương
hèn trước áp lực của người khác. Như thế, Ngài là người không đáng
cho mọi người kính trọng và tôn thờ. Do đó bà càng làm già hơn
nữa. Nhưng lúc mặt trời vừa đứng bóng, bà mệt lả, vì bụng đói,
khát nước và rát cổ. Bà ngồi phịch xuống đất và suy gẫm. Sau cùng
thua buồn thua kiện, bà đến hỏi đức Phật.
-
-
Ông kia, sao tôi la rầy ông từ sáng đến giờ mà ông không nói gì
cả. Thường thường tôi mắng ai, tôi một thì họ mười. Trái lại tôi
chưa gặp ai như ông, mặc cho người khác nguyền rủa.
-
Cơ
duyên đã đến, đức Phật xuất định, dịu dàng cất tiếng:
-
- Ta
xin hỏi ngươi một điều này : một hôm nọ, nhà ngươi có giỗ ngươi
mang bánh cho hàng xóm, nhưng họ không nhận, thế thì bánh ấy về ai
?
-
- !
Nghe thiên hạ đồn, ông là bậc giác ngộ, trí tuệ tuyệt vời, song
giờ đây nghe ông hỏi, tôi nghĩ buồn cười quá, tôi mang cho hàng
xóm, nhưng họ không nhận vậy thì tôi mang về. Tôi giữ lại cho gia
đình tôi ăn chứ nó về ai nữa mà hỏi. Ông thật là điên rồ.
-
Vẫn
bình tĩnh, dịu dàng, đức Phật lại nói:
-
-
Ngươi mang bánh cho hàng xóm nhưng họ không lấy thì ngươi mang về,
cũng như thế, từ sáng đến giờ ngươi biếu ta không sót một tiếng gì
nhưng ta không lãnh, vậy những cái ấy tự trở về với ngươi tất cả.
Điều ấy có khác gì kẽ cầm được đi ngược gió, tất sẽ cháy tay, kẽ
đứng ngược gió bãi bụi tất sẽ lấm mình, hoặc kẽ ngửa mặt lên không
trung mà nhổ nước miếng tất nước miếng đó sẽ rơi vào mặt.
-
Suy
gẫm một hồi, bà ta xác nhận rằng, mình hại người, tội lỗi về sau
phải chịu đó là thứ vô hình mình không thể thấy, song hiện tại
mình mình quá ư lỗ lã. Xưa nay mình không ăn sán, nay phải mất một
bữa cơm, đó là điều lồ thứ nhất. Sáng nay bỏ mất một buổi làm ăn,
đó là điều lồ thứ hai. Khát nước, bụng đói, rát cổ nhưng trưa nay
về không thể nuốt được cơm nước, đó là điều lồ thứ ba. Với sự mệt
mỏi, dầm sương phơi nắng từ khuya đến giờ, thế nào cũng mang bệnh.
Nếu bệnh tất phải bỏ làm ăn tốn thuốn men, phiền lụy đến thân
thuộc, đó là điều lồ thứ tư. Sau phút suy gẫm bà cảm thấy đức Phật
là một bậc có sức mạnh vô song khôn hơn mọi người, bà hết sức khâm
phục và trở nên hòa dịu. Bà đến qùy trước đức Phật cầu xin sám hối
lỗi lầm, xin quy y làm môn đệ và nguyện sau khi trở về sẽ dẹp thần
tượng, hướng dẫn môn đồ trở về con đường chân chánh.
-
Trên
đường về, người đệ tử của đức Phật - bà thủ lãnh của đạo qủy thần
miên man nghiêm lời Phật dạy. Để dằn sự hung bạo quen thói của
mình, đồng thời để nói lên ý nghĩa của lời Phật dạy, bà ta lặp đi
lặp lại: "gieo gió gặt bảo"./.
-
-
Hoa Vương
-
-
Ngày
xửa, ngày xưa có một Minh Quân cai trị một quốc gia thanh bình trù
phú. Mọi việc đều xuôi chèo mát mái, ngoại trừ một điều là dù tuổi
đã khá cao, nhà Vua hiền đức của chúng ta vẫn chưa có được Hoàng
nam nối dõi. Một bữa tốt trời đức Vua cho yết bảng, truyền lệnh
cho vời các đồng tử lên 7 đến 12 vào sân rồng cho Ngài tuyển chọn
người kế nghiệp. Các thần dân của đức Vua trong số tuổi ấn định lũ
lượt kéo nhau về kinh đăng ký. Bất kể gia tộc sang hèn, nghèo giàu
mỗi cậu bé đều được nhận một hạt giống tí tẹo. Các thí sinh phải
đem hạt giống về tự tay gieo trồng và chăm bón. Đến bao giờ hạt
giống nẩy mầm, nứt lộc, đâm chồi, ra nụ kết hoa thì sẽ mang đến
Hoàng cung dự thí. Ngày khảo thí được ấn định vào đêm rằm tháng
tám, chậu hoa nào được đức Vua chấm giải nhất thì người gieo trồng
đó sẽ được vào cung làm Hoàng tử. Người sẽ kế vị đức Vua sau này.
Cái ngày chờ đợi đó đã đến, vườn ngự uyển chất đày các lẳng hoa do
thí sinh đem nộp, không chê vào đâu được, vì loài hoa nào cũng rực
rỡ ngát hương. Nhưng đức Vua và Hoàng hậu xem chừng vẫn chưa chọn
được thứ nào vừa mắt. Cuối cùng một chú bé khoảng 8 tuổi, áo quần
rách rưới nhưng mặt mũi dễ thương, xin được vào chầu đức Vua của
chú. Mọi người cười ồ khi thấy chú khư khư ôm một cái chậu bằng
đất nung chứa đày phân và rác bẩn. Vị thần dân tí hon này quỳ
trước bệ rồng, nước mắt chảy quanh, sụt sịt nói : - Muôn tâu, con
đã làm hết sức mình, con đã chọn chiếc chậu lành lặn nhất, để vào
đó thứ đất mịn nhất, trộn vào đất thứ phân đã hoai và tốt nhất...
rồi mới đặt hạt giống của đức Vua ban cho con ào đó.... Con đã
phơi sương ủ nắng và tưới nước cho nó.... Vậy mà nó không chịu nứt
cái mầm nào cả. Đức Vua nghe xong không dấu được sự xúc động, ôm
chầm lấy cậu bé reo : - Ôi ! Con chính là vị Hoàng tử mà ta chờ
đợi. Mọi người kinh ngạc lẫn bất bình. Đức Vua vuốt râu mỉm cười
giải thích : - Tất cả các hạt giống trao cho thí sinh đều đã được
hấp chín.... Nó chỉ có thể nở hoa trung thực mà thôi.... Đưa tay
chỉ chiếc chậu đầy đất bẩn của chú bé dân giả, đứcVua tiếp : - Đóa
hoa trung thực ấy chỉ đâm chồi nẩy lộc trong mỗi một chiếc chậu
này. Con người đã gieo trồng được loại hoa ấy, nhất định sẽ là vị
anh quân mà đất nước ta chờ đợi. Đức Vua đã không lầm trong sự lựa
chọn ấy./.
-
Đường Lầy
-
Thiền Sư Nhật Muju
-
Có
hai nhà sư cùng thong dong bước xuống một con đường lầy. Cơn mưa
nặng hạt vẫn còn rơi. Đến khúc đường quẹo, hai người gặp một cô
gái xinh xắn trong chiếc áo Kimono và chiếc khăn quàng cổ bằng
lụa, đang đứng bên lề đường vì không thể băng qua ngã tư đường lầy
được. Lập tức một nhà sư bảo: "Đi nào, cô bé" tức khắc đưa tay
nhấc bổng cô gái lên và đưa qua quãng đường lầy.
-
Nhà
sư bạn của anh ta, từ đó không buồn nói một tiếng nào, cho đến khi
cả hai dừng lại trong một ngôi chùa. Rồi không còn chịu đựng được
nữa, nhà sư bạn lên tiếng nói với anh ta:
-
-Chúng ta là những nhà sư, không được phép gần đàn bà, nhất là với
những người đàn bà trẻ đẹp. Nguy hiểm lắm! Sao anh lại làm như
vậy?
-
Nhà
sư mỉm cười:
-
-Tôi
đã bỏ nàng từ chỗ đó rồi! Anh còn mang nàng theo đấy sao?
-
(Truyện cổ Phật Giáo Nhật Bản)
-
-
Tâm Nhìn
-
-
Xưa
có một vị Tỳ kheo, cất một cái am trên một sườn núi vắng vẻ để tu
tập thiền định. Dưới chân núi là một con sông, có một con đò qua
lại. Vị Tỳ kheo muốn hạ sơn hóa đạo phải đi qua chuyến đò ấy. Kẻ
đưa đò là một bà lão trên 50 tuổi, còn khỏe mạnh.
-
Một
hôm, khách qua sông ngạc nhiên thấy kẻ đưa đò không phải là bà lão
nữa, mà là một thiếu nữ rất duyên dáng đẹp đẽ, dung nghi trang
trọng, cử chỉ thanh cao. Hỏi ra mới hay rằng, người con gái ấy
không biết người ở xứ nào, một ngày nọ, tới xin bà lão ở trọ và
giúp bà một tay đưa khách qua sông. Thấy nàng xinh đẹp, lại đoan
trang, lão bà vô cùng thương mến.
-
Từ
đó, khách sang sông thăm thầy Tỳ kheo ngoạn cảnh mỗi ngày một
đông. Có lẽ ai cũng thích qua đò để được ngắm dung nhan giai nhân
và cái vẻ thướt tha mềm mại của tay ngà đưa mái chèo nhẹ trên mặt
nước. Thầy Tỳ kheo thỉnh thoảng có việc phải hạ sơn, cũng qua đò.
Nhưng có điều lạ, khi qua bên kia sông rồi, khách chỉ trả có một
tiền, cô gái đòi thầy phải trả hai tiền. Vị Tỳ kheo ngạc nhiên hỏi
tại sao lấy tiền đắt hơn. Cô gái cười nói: Mọi người qua đò chỉ có
qua đò thôi. Còn thầy, ngoài việc qua đò, thầy còn ngắm tôi nữa
nên phải trả gấp đôi. Không lý cãi cọ lôi thôi với cô gái, vị Tỳ
kheo đành phải chịu trả cho cô hai tiền.
-
Lần
sau, có việc phải xuống núi. Vị Tỳ kheo bước xuống đò không dám
nhìn cô gái mà úp mặt xuống lòng đò. Đến bến, mọi người lên trả
tiền đò, đến lượt thầy, cô gái bắt trả gấp bốn lần. Thầy Tỳ kheo
hỏi: Lần trước, cô bảo tôi qua đò nhìn cô nên phải trả gấp hai,
nay tôi không hề nhìn cô mà chỉ úp mặt xuống đò, tại sao cô đòi
gấp bốn lần? Cô gái nói rất trang nghiêm: "Mấy lần trước, thầy chỉ
dùng mắt nhìn nơi mặt và bên ngoài của tôi. Hôm nay thầy dùng tâm
và nhìn hết toàn thân bên trong của tôi nên phải trả gấp bốn lần.
Nghe xong, thầy Tỳ kheo phát lên cười và hình như có sở ngộ.
Ngoảnh lại cô gái đò đã biến đi đâu mất. Từ đó, chỉ còn bà lão đưa
khách sang sông.
-
Trích trong "Truyện Cổ Phật Giáo",
Minh Chiếu Sưu tập, Tập 3, Thành Hội Phật Giáo TP. HCM ấn hành
1994, trang 87-88.
-
-
Đức Phật Với Con Voi Dữ
-
-
Thời
kỳ Phật hành đạo tại thành Vương Xá, kinh đô của vua A Xà Thế, vua
A Xà Thế rất tham lam hung bạo, đã sát vua cha để dành ngôi báu. A
Xà Thế lại hay thù ghét và manh tâm làm hại những kẻ trung lương
nên thường lập vây cánh bè đảng làm hậu thuẫn.
-
Trong số bè cánh nhà vua lại có Đề Bà Đạt Đa em họ Đức Phật. Vị
này cũng sẵn lòng ganh tới
kẻ khác, thấy Đức Phật được nhiều người cung kính, Đề Bà Đạt Đa
cũng giả cách tu hành như Phật, nhưng không hề được ai cung kính,
nên tức giận muốn tìm cách hại Phật. Nhưng những điều không may có
bao giờ đến với những người có lòng từ bi cao cả, đấng Giác-ngộ đã
tu hành trong nhiều kiếp. Nhưng chứng nào tật ấy, ông liền liên
kết với vua A Xà Thế cầu xin nhà vua cộng tác trong việc sát hại
Phật. Nhờ sự bằng lòng của nhà vua, nên Đề Bà Đạt Đa đến tại sở
nuôi voi năn nỉ với bọn nài: "Ta đây là bạn thân của nhà vua,
các ngươi giúp ta việc nầy, ta sẽ xin nhà vua cho lương cao chức
lớn. Sáng mai thầy Gotama (Đức Phật) sẽ đi trì bình khất thực qua
đây, các ngươi cứ việc thả con voi hung dữ Nalagiri ra để làm thịt
thầy". Sáng hôm sau, Đức Phật cùng một số đệ tử đi vào thành
Vương Xá để trì bình khất thực, trông thấy bóng Ngài, bọn nài thả
voi Nalagiri ra. Dân chúng nội thành phải tán loạn, dày xéo nhau
mà chạy, lo sợ cho tánh mạng của mình, kẻ leo lên cây người núp ở
tường cao nhà kín. Sau khi đã tìm được chỗ ẩn núp chắc chắn, những
con mắt hiếu kỳ hay lo sợ cũng cố tìm mắt để nhìn cho được sự việc
sắp xảy đến. Voi thấy bóng người đàng trước, nó cong đuôi, thẳng
vòi chống tai xông tới như vũ bão. Các vị đệ tử thấy cơ nguy mới
bạch với Đức Phật: - Bạch Thế Tôn ! Con voi Nalagiri nó có tánh
hung dữ và thù ghét loài người đã đến nơi kìa ! Đức Phật vẫn thản
nhiên dạy rằng: - Nầy các Tỳ-kheo, các người không nên sợ hãi.
Không bao giờ một vị Chánh-giác phải chết vì một tai nạn ghê gớm
như thế. Những đấng Như-lai chỉ tịch diệt khi thì giờ đã đến bằng
cái chết tự nhiên và vẫn sống mãi trong tâm linh mọi người. Trong
khi ấy có tiếng bàn tán nhỏ to của mọi người đang ẩn núp. Những kẻ
thiếu đức tin, u mê cho rằng: đó là một sự hy sinh vô lý, nên thốt
ra những câu đầy mỉa mai: - Chà, uổng quá, vị Sa môn kia trẻ đẹp
như thế mà lại hy sinh cho con voi hung dữ giết hại thì thiệt là
một việc dại khờ.
-
Nhưng nhóm người có đủ đức tin hơn và hiểu biết Chơn lý đôi chút
thì cho rằng: đó là một cuộc thử thách, sự tranh đấu giữa loài vật
với vị Từ phụ của loài người.
-
Voi
hung hăng đã phóng tới trước mặt Đức Phật, mọi người phập phòng lo
sợ. Nhưng Ngài vẫn điềm nhiên đem tất cả lòng Từ bi vô lượng để
đối lại với sự hung dữ của con voi. Voi như bị một sức thôi miên
huyền bí, từ từ hạ vòi và quỳ ngay trước mặt Ngài.
-
Đức
Phật dịu dàng thoa vào đầu quy y cho voi và nói: - Này voi ơi !
Ngươi nên ăn ở hiền lành để đạt đến an vui chớ nên hung hăng như
trước đây nữa. Voi như hiểu được lời Ngài, từ từ lấy vòi hút tất
cả các bụi đã bám vào chân Ngài và rải lên khắp đầu nó như để
chứng tỏ nó đã biết ăn năn và xin phục thiện. Đoạn cúi đầu đảnh lễ
Ngài rồi trở về chuồng cũ. Từ đó về sau voi Nalagiri trở nên hiền
lành dễ thương. Và đó cũng là một trong những nguyên nhân làm cho
Đề Bà Đạt Đa biết hối hận ! Vua Tần Bà Ta La biết trở về với Chánh
Pháp./.
-
MÌNH THƯƠNG AI NHẤT
-
-
Phàm
nói đến thương yêu thì những người được thương là cha mẹ, vợ
chồng, con cái, anh em... Đó là những đối tượng được thương đứng
hàng đầu mà không ai phủ nhận. Nhưng tại sao đây hỏi "mình thương
ai nhất?" "Ai" mà mình thương nhất đó là nhân vật nào mà quan
trọng đến thế? Trong kinh A Hàm có đoạn ghi: Một hôm vua Ba Tư Nặc
hỏi phu nhân Mạt Lợi, "Trên đời nầy ái khanh yêu ai nhất?"
-
Phu
nhân Mạt Lợi đáp: Dĩ nhiên, người thiếp yêu chính là bệ hạ.
-
Vua
Ba Tư Nặc nói: Trẫm cũng đoán rằng khanh sẽ nói như thế.
-
Phu
nhân Mạt lợi mĩm cười: Tâu bệ hạ, nếu thánh thượng cho phép, thần
thiếp sẽ nói khác đi một tí, nhưng xác thực hơn.
-
Vua
Ba Tư Nặc bảo: Khanh cứ nói!
-
Phu
nhân Mạt Lợi thưa: Tâu bệ hạ, người mà thần thiếp yêu quý nhất,
chính là thần thiếp.
-
Vua
Ba Tư Nặc ngạc nhiên: Sao? Mình lại yêu mình? Trẫm không hiểu
khanh muốn nói gì?
-
Phu
nhân Mạt Lợi thưa: Tâu bệ hạ, vì có ái trọng tự ngã mình, nên thần
thiếp mới yêu thương bệ hạ, vì bệ hạ là người đem lại hạnh phúc
cho cái tự ngã nầy.
-
Vua
Ba Tư Nặc nói: Trẫm biết điều đó, nhưng vẫn chưa hiểu rõ ý của
khanh.
-
Phu
nhân Mạt Lợi dè dặt: Tâu bệ hạ, thần thiếp mạn phép nêu ra một câu
hỏi, "Trên đời nầy bệ hạ yêu thương ai nhất?".
-
Vua
Ba Tư Nặc cười: Ái khanh chứ còn ai!
-
Phu
nhân Mạt Lợi hỏi tiếp: Giả sử thần thiếp yêu thương một người đàn
ông khác thì bệ hạ sẽ làm gì?
-
Vua
Ba Tư Nặc lúng túng: À, trẫm sẽ... trẫm sẽ...
-
Phu
nhân Mạt Lợi tiếp lời: Bệ hạ sẽ nổi trận lôi đình, chém đầu thần
thiếp ngay lập tức phải không?
-
Vua
Ba Tư Nặc giả lả: Khanh hỏi rắc rối qúa! Rắc rối thật!
-
Phu
nhân Mạt Lợi hỏi: Tâu bệ hạ, có đúng thế không ạ?
-
Vua
Ba Tư Nặc đáp: À... à...
-
Phu
nhân Mạt Lợi hỏi dồn: Đúng, phải không bệ hạ?
-
Vua
Ba Tư Nặc im lặng giây lâu, nói: Có lẽ khanh nói đúng.
-
Phu
nhân Mạt Lợi nói: Thế là bệ hạ đã đáp câu hỏi của thần thiếp rồi!
-
Yêu
người ta nhất đời mà người ta yêu kẻ khác thì chặt đầu. Như vậy có
yêu nhất đời chưa? Nếu yêu nhất đời thật, thì dù người ta có
thương ai khác, mình cũng vẫn thương người ta. Đằng nầy người ta
không thương mình thì mình chặt đầu, vậy thương đó là qua ai?
Thương đó là vì mình! Mình chỉ thương mình thôi! Tất cả mọi đối
tượng mà mình thương mến đều vì mình mà mình thương, thương người
qua tự ngã của mình đó vậy.
-
Hôm
sau vua Ba Tư Nặc xa giá đến tinh xá Kỳ Viên thăm Phật, và trình
bày câu chuyện đối đáp giữa vua và hoàng hậu. Phật xác nhận ý kiến
của phu nhân Mạt Lợi qua bài kệ như sau:
-
Tâm
ta đi cùng khắp
-
Tất
cả mọi phương trời
-
Cũng
không tìm thấy được
-
Ai
thân hơn tự ngã
-
Đi
tìm khắp phương trời
-
Cũng
không tìm đâu thấy
-
Ai
thân hơn tự ngã
-
Vậy
ai yêu tự ngã
-
Chớ
hại tự ngã người
-
Đó
là lời xác nhận của Phật: Chúng sanh yêu tự ngã mình hơn hết. Đa
số người đời thương tự ngã mình hơn hết mà không biết, cứ nghĩ
thương người nầy hết lòng, thương người kia hết lòng. Hoặc giả có
biết mình thương tự ngã mình cũng không can đảm nói thật, nói gạt
thiên hạ là mình thương chúng sanh, chớ đích thực mình thương mình
là gốc
-
Trích báo: VIÊN ÂM
--o0o--
|
|