|
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
-
Bút Máu
- Vũ Hạnh
-
-
Lương Sinh người ở Mân Châu, con
nhà thế phiệt, nổi tiếng thông minh đĩnh ngộ từ khi tóc để trái
đào. Lên tám đã giỏi thơ ca, từ phú, ai cũng ngợi khen là bậc
thần đồng. Lên mười có bài "Tơ liễu trong trăng" được tán thưởng
nhất mấy câu :
- "Trăng cũ phô đầu bạc
Liễu tơ chuốt mi dài
Trăng, liễu xa ngàn dặm
Một tối hẹn vườn ai".
- Năm lên mười
hai, gặp thời loạn ly, cha mẹ đều bị giặc giết, Sinh sầu thảm
mấy tháng liền, mất ăn mất ngủ lại thêm căn tạng yếu đuối nên
lâm bệnh nặng, thần kinh hốt hoảng luôn luôn giật mình, nằm mơ
thấy toàn máu lửa, sọ xương. May có người cậu đem về săn sóc đêm
ngày. Sau nhờ đạo sĩ họ Trình ở núi Hoa-dương cho bài Hi-di
Ninh-thần dùng toàn não tủy một giống Bạch-hầu trong núi
Nga-lâm, uống thuần với nước viễn chí nên được lành bệnh, tâm
thái trở lại an tĩnh, điều hòa. Khi lên mười lăm, Sinh được
người cậu gởi đến Lã Công, một quan Thủ-hiệu bãi chức từ lâu, ở
nhà mở trường dạy võ. Sinh học rất chóng, nửa năm đã làu thông
cả mười hai môn võ bí truyền của nhà họ Lã. Lã Công quý mến, một
hôm lấy thanh bảo kiếm của mấy mươi đời họ Lã lập công trao cho
luyện tập. Giũa buổi, Sinh đang múa kiếm bỗng dừng phắt lại, đưa
kiếm lên ngửi rồi cau mày, kêu lên:
- - Máu người
tanh quá!
- Đoạn đem
thanh kiếm nộp trả, cáo từ mà về.
- Đến nhà, lạy
cậu thưa lên:
- - Võ nghệ
không phải là con đường cháu nên theo. Máu người chảy trong cơ
thể thực quý vô cùng nhưng dính ra ngoài lại quá hôi tanh. Kẻ
cầm lưỡi dao trọn đời sao cho khỏi đổ máu người! Điều tàn nhẫn
ấy cháu không làm được.
- Người cậu
giận lắm, bảo rằng:
- - Mày thực
cạn nghĩ, phụ cả lòng ta trông đợi lâu nay. Đành rằng máu người
là quý, nhưng để máu ấy chảy trong đầu bọn ác nhân thì càng tác
quái cho người, lại càng có tội!
- Lương Sinh
cúi thưa:
- - Ai cũng cho
mình là phải, lấy đâu để nói xấu tốt rõ ràng? Làm thiện một cách
hăm hở mà không ngờ rằng đấy là điều ác, lại càng có tội vì đã
lừa mình, lừa người. Trộm nghĩ binh đao là nghề dứt khoát, cháu
chưa dứt khoát trong người, tự thấy không dám theo đuổi.
- Cậu nói:
- - Hoài nghi
như thế, e rồi không khéo mày tự mâu thuẫn với mày. Không phân
biệt được giả, chân, thiện, ác làm sao có thể tự tin mà sống
trên đời? Xã hội chưa đâu có thể tự gọi là chốn thiên đường, bên
cạnh nhà trường còn có nhà ngục, bên cạnh ngòi bút còn có lưỡi
dao, không thể chỉ thấy một chiều, chỉ yêu một cạnh. Vị tất nhà
trường đã không tội lỗi, ngòi bút đã không oan khiên! Ta không
có con, từ lâu kỳ vọng nơi mày, nhân thời tao loạn nhũng mong
cho mày múa gươm trận địa hơn là múa bút rừng văn. Bây giờ, thế
thôi là hết. Từ nay tùy mày định lấy đời mày, ta không nói nũa.
- Từ đấy, Lương
Sinh sẵn có nếp nhà phú túc, chuyên nghề thơ văn, tiêu dao ngâm
vịnh tháng ngày. Lời thơ càng gấm, ý thơ càng hoa, tiếng đồn lan
xa, lan rộng như sóng trên biển chiều nổi gió. Quan lệnh trấn
mới đổi đến địa phương vốn người hâm mộ văn chương, cho vời Sinh
đến. Thấy Sinh tướng mạo khôi ngô, lòng quan cảm mến, tiếp đãi
hết sức trọng hậu. Sau đó, quan lệnh mượn nhũng thi tuyển của
Sinh trong một tháng trường, nhiều khi bỏ cả xử kiện để mà bình
thơ. Khi quan giao trả, Sinh thấy sau nhũng bài đắc ý nhất của
mình đều có bài họa, văn từ tao nhã, ý tứ thâm trầm, nét chũ
uyển chuyển, dưới đề: "Tuyết Hồng tiện nũ chuyến họa". Hỏi, biết
Tuyết Hồng là gái đầu lòng của quan. Theo lời nha lại tán tụng
thì nàng tài sắc vẹn toàn, khiến Sinh đêm ngày tơ tưởng, cứ thấy
giai nhân chập chờn trong cơn mộng ảo. Càng ngày Sinh càng tương
tư mê mệt tưởng không có nàng thì không thể nào sống được. Nhiều
lần lảng vảng sau tư thất quan để nhìn cho được Tuyết Hồng, chỉ
thấy hoa sau rèm lá chập chờn, lại càng mê mẩn tâm thần hơn nũa.
Dịp đâu may mắn, quan mời Sinh đến uống rượu, ngỏ ý muốn kén
Sinh làm gia tế. Sinh mừng run người, tưởng có thể đội mái nhà
bay lên. Bấy lâu ước ao người đẹp, bây giờ thế là thỏa nguyện.
- Trong lễ hôn
phối, Sinh mới nhìn rõ Tuyết Hồng: mặt nàng hơi gãy, mũi nàng
hơi to, lưng nàng hơi cong. Sinh rất buồn lòng, song nghĩ duyên
số tự trời, nhan sắc nàng kém nhưng tài nàng cao cũng là điều an
ủi. Suốt tuần trăng mật, nhiều lần Sinh ép Tuyết Hồng làm thơ
xướng họa, nàng đều chối từ. Hỏi sao ngày xưa thi tứ của nàng
dồi dào là thế mà bây giờ chẳng cho nghe được một lời nào, thì
nàng cúi đầu ngập ngừng giây lâu mới đáp :
- - Chàng kén
thiếp để làm vợ đâu phải để làm thơ ? Đạo vợ lại là đạo lớn, e
rằng đem hết trí lực chu toàn chưa chắc đã trọn, đâu dám lấy
chuyện thơ văn mà làm chểnh mảng. Dù chàng ép nài bao nhiêu,
thiếp cũng đành cam chịu lỗi.
- Đã thế, nhiều
lần Sinh đọc thơ cho nàng nghe bảo nàng góp ý, nàng cũng có vẻ
hết sức dửng dưng. Sau cùng, Sinh đâm nghi hoặc, nghĩ thầm có lẽ
nhũng bài thơ họa ngày xưa không phải của nàng mà chính là của
quan lệnh. Nghĩ thầm chứ không nỡ nói, cũng không dám nói, vì
khi giận dũ Tuyết Hồng thường khóa chặt buồng nằm riêng, hai ba
đêm liền không tiếp.
- Càng ngày
Sinh càng chán nản khôn khuây, ảo tưởng vỡ tan, tưởng như tuyệt
vọng tình đời. Thiếu thốn hình ảnh giai nhân, cuộc sống tự nhiên
cằn cỗi, y như nuốt toàn thuốc đắng không có mật đường trợ vị.
Nhân Tết Nguyên đán, Tuyết Hồng về thăm song thân, Sinh bèn thừa
dịp xuân nhật, noi gương Tử Trường ngày xưa phiếm du sơn thủy,
tiếp lấy sinh lực muôn vẻ thiên nhiên nuôi cho văn khí thêm phần
phong phú, siêu dật.
- Bước ra khỏi
nhà, Sinh chọn con đường hai bên cỏ non phơ phới, quanh co theo
một dòng suối trong veo, lơ thơ bắc đôi nhịp cầu nho nhỏ, mơ
màng lá đào rơi rắc mà vào chốn thiên thai. Xuân ý, xuân tình
chứa chan ở trong cảnh sắc, màu trời, như theo giác quan dào dạt
thấm vào mạch tủy khiến Sinh ngây ngất. Đi đã ba ngày mà không
nghĩ đến đường về. Đi được sáu ngày thì sực nhớ đến vợ nhà,
nhưng vợ cách xa đến sáu ngày đường cũng không đáng sợ bằng
nhũng cơn giận dữ. Đi đến mười ngày, tiền lưng muốn cạn, túi thơ
chừng đầy. Chợt đến một miền tiêu điều, dân cư thưa thớt, Sinh
chán nản, định quay về nhưng ruột đói, lưỡi khô bèn đi tìm một
tửu quán nghỉ chân. Qua ba dặm đồng trơ trọi vẫn chưa thấy bóng
một người để hỏi thăm nơi. Bỗng nghe phảng phất tiếng trống,
tiếng chiêng, lẫn tiếng reo cười. Dò theo âm thanh vọng lại, lần
bước đến nơi, thấy đám hội trước chùa, bèn vào quán nhỏ gần đấy
ăn uống. Chủ quán cho biết đã mấy năm rồi ở đây mới có một ngày
hội lớn vì quan Khâm sai triều đình sắp về địa phương nên quan
Tổng trấn họ Lý bày ra trò vui để cho dân chúng thỏa thuê ít
bũa. Đang ngồi nhắm rượu lại nghe nhũng tiếng hò hét rồi thấy
đám người trước cửa dạt ra hai bên có vẻ hết sức sợ hãi. Từ xa
tiến đến một chiếc kiệu hoa do bốn người khiêng và thêm chừng
mười lính hầu áu màu loè loẹt, tiền hô hậu ủng. Kiệu đến trước
quán thì bị nghẹn người, dừng lại. Sinh ngước mắt lên, nhìn thấy
khuôn mặt đàn bà tuyệt đẹp. Hỏi kẻ chung quanh, biếy là Lý Duyên
Hương con quan Tổng trấn vùng này. Người đẹp nhìn thẳng về phía
trước, mặt hơi vênh lên, như không muốn thấy một ai quanh mình.
Vẻ kiêu hãnh và nét sắc sảo của một khuôn mặt tươi hồng khiến
Sinh ngây ngất, tưởng như gặp Tiên giáng trần, sửng sốt chiêm
ngưỡng, tay cầm ly rượu buông rơi lúc nào không biết. Ly rượu
chạm mạnh vào mặt bàn vỡ tan, tỏa hơi nồng ra bốn phía. Người
ngọc nghiêng đầu liếc xuống, thấy vẻ mặt Sinh ngây nhìn, chợt
hiểu, bỗng nhoẻn miệng cười. Nụ cười lộng lẫy như hé sáng một
trời tình. Sinh lảo đảo đứng lên, không phải vì say rượu, trả
tiền cho chủ quán rồi tiến về phía kiệu hoa. Người xem đã giãn,
kiệu vào trong chùa. Sinh vội bước theo, cố quên rằng mình đã có
vợ nhà.
- Trong chùa
chật ních nhũng người. Phần đông quần áo mùa xuân tươm tất nhưng
mặt mày hốc hác mang nhiều vết hằn đau khổ. Ai cũng cố gắng mà
vui, hình như không có dịp nào để vui hơn nũa. Lương Sinh chen
vào, nghe mùi mồ hôi xông lên khó thở, gượng nghĩ vẫn còn hương
thơm người đẹp đi qua sót lại phần nào. Khổ nhọc rất lâu, bước
đến thềm trong thì đã thưa người. Thấy Sinh có vẻ nho nhã, người
gác để Sinh đi qua. Vào tận trong xa vẫn chưa gặp được người
ngọc. Thoạt nhìn lên một bực cao, hương trầm nghi ngút, sực nức
mùi thơm, thấy Lý tiểu thơ, vẻ mặt thành kính, đang cùng mấy vị
tăng già đàm đạo. Lương Sinh hậm hực đứng nhìn, giận mình từ xưa
chẳng chịu thế phát quy y.
- Một lát, tiểu thơ quay vào bàn
lễ, Sinh ngại nàng vội đi nên bỗn nảy ra một ý. Lại gần biệt
phòng bên cạnh, sẵn nghiên bút và hoa tiên để khách thập phương
đề vịnh, Sinh bèn thảo phóng mấy câu:
- " Lá gió sầu xuân, đưa đẩy
duyên trời hẹn ước,
Tiên hoa gài mộng, vấn vương đền Phật bâng khuâng
Động biếc, thoáng cười tiên nũ
Rêu xanh, ngẩn lối Lưu Thần.
Mặt nước hồ in, xao động bốn mùa sóng gió
Bóng đêm hang thẳm, long lanh một vẻ giai nhân !
- Rồi bẻ cành
hoa kẹp vào. Khi Lý tiểu thơ lễ xong, khoan thai xuống thềm, mọi
người sợ hãi dạt ra hai bên thì Sinh vội vã đi theo. Đến lúc
nàng vừa lên kiệu, Sinh ném cành hoa lên chỗ nàng ngồi. Lính hầu
thoáng thấy, kêu lên:
- - Có người ám
hại tiểu thơ !
- Lập tức, hai,
ba, rồi chín, mười lưỡi gươm dài vung lên, lính hầu vây lấy
Lương Sinh. Nhũng người xem hội thất sắc lùi lại, dồn dập đẩy
vào nhau kêu la náo động. Tiểu thơ ngồi trên, vén rèm nhìn
xuống, không nói một lời, vẻ mặt hết sức kiêu kỳ. Lương Sinh đã
toan mở lời chống chế nhưng lính xông vào trói chàng.
- Đám đông có
tiếng thì thào :
- - Anh ta chỉ
ném có một cành hoa thôi đấy.
- - Bấy nhiêu
cũng đủ héo cuộc đời.
- - Qua dinh
Tổng trấn không lấy nón xuống là đã bay đầu, nói chi xúc phạm
tiểu thơ vàng ngọc !
- Lúc ấy Lương
Sinh sực nhớ đã quên từ lâu mười môn võ bính truyền của nhà họ
Lã.
- Về đến nha
môn, lính dẫn Lương Sinh nhốt vào trại giam rồi tâu trình lên
Tổng trấn. Nằm trong bốn vách tường đá, Sinh nghĩ cuộc đời bằng
phẳng của mình bấy lâu mà lòng rầu rĩ không yên. Chắc là phen
này không thể sống thoát, tiếng vang danh sĩ ngày nào bây giờ
phải chịu hoen nhục vì không nén được tấm lòng bồng bột phút
giây. Đang mơ màng về thế giới bên kia, chợt nghe tiếng người
gọi dậy, lập tức được lính dẫn đến công đường. Tổng trấn ngồi
giữa, vóc dạng phương phi, hàm én râu hùm, trên tay còn cầm tang
vật là mảnh hoa tiên.
- Sinh cúi đầu
thi lễ, toan tìm lời kêu oan gỡ tội thì quan ra lệnh mở trói.
Trước sự kinh ngạc của Sinh, quan bước xuống thềm, dắt Sinh vào
trong, kéo ghế bảo ngồi. Sinh từ chối hai ba lần không được.
Quan nói :
- - Ta thường
ước ao được gặp một người tài đức, nay biết người là danh sĩ nên
thực hết lòng hâm mộ. Lính hầu sơ suất phạm điều vô lễ vừa rồi,
ta sẽ nghiêm trị. Gác Đằng thuận nẻo gió đưa, người hãy ở đây
cùng ta hưởng mấy ngày xuân, vui câu xướng họa, cho thỏa tình ta
khao khát lâu nay.
- Đoạn truyền
đem rượu ngon thịt béo ra thết đãi nồng hậu. Lương Sinh tự thấy
tài năng của mình thực đã bảo đảm cái mệnh vô cùng vững chắc,
hết sức cởi mở tấm lòng, uống rượu say khướt từ sớm đến chiều,
mỗi khi chập chờn thức tỉnh lại ngâm thơ sang sảng, tưởng như
lúc nào sau rèm cũng có người đẹp nép nghe. Tổng trấn có vẻ đặc
biệt kính trọng tài năng của Sinh, luôn luôn nhường lời cho Sinh
thành ra Sinh phải độc xướng, độc họa, độc ngâm suốt ngày. Đôi
lúc Sinh muốn hỏi thăm tiểu thơ định trao duyên nơi nào chưa,
nhưng thấy Tổng trấn đãi mình như bậc thượng khách nên phải giữ
ý làm thinh.
- Độ vài hôm
sau, quan tổ chức cuộc du xuân, đưa Sinh đi xem cảnh trí trong
miền. Nơi nào quan cũng cho thấy kỳ công đại lực của quan tạo
lập cho dân: Kìa là dòng suối quanh co quan đã khai thông để dân
lấy nước cấy cày, nọ là đồng ruộng bao la trước kia toàn là rừng
rậm hoang vu quan đã tốn công khai phá cho dân trồng trọt.
- Ngồi trên
kiệu cao, Sinh nhìn theo ngón tay quan trỏ phía xa xa, mơ hồ
thấy suối, thấy đồng nhiều vẻ khác màu mà miệng không ngừng tán
tụng. Hơi men nồng nàn lòng Sinh chan chứa nhiệt tình đối với
nhũng bậc "dân chi phụ mẫu" mà xưa nay Sinh thường tỏ ý rẻ
khinh.
- Đến đâu quan
cũng xin Sinh lưu bút để cho khắc vào bia đá, cột đồng. Sinh
phóng bút thao thao bất tuyệt, hết lòng ca ngợi tài đức của
quan. Mực thơm bút quý, lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu.
Trước khi giã từ, Sinh còn lưu lại bài tán (1) tổng kết công đức
của quan để khắc ở chốn công đường và bài minh, ký (2) để ghi
tạc vào mấy cỗ hồng chung tại các tháp đền quy mô trong hạt.
Quan ân cần tiễn chân Sinh ra khỏi nha môn, đưa tặng một cỗ ngựa
bạch mấy nén vàng nhưng Sinh một mực từ chối không nhận đễ giũ
vẹn lòng thanh khiết.
- Giũa mùa xuân
ấy, Sinh lâm bệnh nặng, nằm liệt suốt một tháng liện. Tuyết Hồng
hết sức săn sóc thuốc thang, nhiều đêm không ngủ. Bây giờ Sinh
có lòng mừng là nàng không biết làm thơ, nhưg Sinh ngày đêm khắc
khoải vì không cầm được cây bút. Một ngày không viết được câu
nào Sinh có cảm tưởng như mình không còn sống nũa. Ngoài nỗi
bệnh tật giày vò, Sinh còn bị băn khoăn sáng tạo hành hạ. Bệnh
cũ như muốn tái phát, thần kinh rạo rực không yên, giấc ngủ chập
chờn ác mộng. Mấy lần chống tay ngồi dậy nhưng lại bủn rủn nằm
xuống, hơi thở nóng ran như lửa. Một sớm đang nằm, nghe tiếng
chim hoàng anh hót ngoài vườn vụt tắt, thấy một tia nắng lọt qua
khe cửa chợt tàn, Sinh bỗng hốt hoảng tưởng chừng mùa xuân bỏ
mình mà đi, bèn gượng ngồi lên, xô mạnh cửa sổ. Mất nụ hoa thắm
cười duyên trước thềm, lá xanh tươi màu nhựa mới. Sinh gọi đem
nghiên bút và tập hoa tiên. Vừa cầm bút lên, Sinh bỗng kinh
ngạc: nghiên mực đỏ tươi sắc máu. Thử chấm bút vào, lăn tròn
ngọn bút đưa lên, bỗng thấy nhỏ xuống từng giọt, từng giọt thắm
hồng như rỉ chảy từ tim. Khiếp đảm, Sinh ngỗi sũng sờ, tâm thần
thác loạn. Cố viết đôi chữ lên giấy, nét chữ quánh lại, lợn cợn
như vệt huyết khô trên cát. Sinh vội buông viết, tưởng chừng bàn
tay cũng thấm máu đầy. Đưa lên ngang mũi, mùi tanh khủng khiếp.
Quệt tay vào áo, đau nhói trong người, Sinh nằm vật xuống, mê
man bất tỉnh. Sau mấy ngày, Sinh tỉnh dậy, lòng lại khao khát
cầm bút. Nhưng nhớ hình ảnh vừa qua, tự nhiên đâm ra e ngại.
Sinh cố tập trung thần lực, men đến án thư nhưng vừa cầm bút lại
thấy lảng vảng sắc máu, không sao có đủ can đảm vạch được nét
nào. Sinh ném bút, hất giấy, vô cùng khiếp sợ tưởng như xôn xao
chung quanh vô số hồn oan đòi mạng. Từ đó Sinh gầy rạc hẳn, liệu
không sống thoát.
- Người cậu của
Sinh từ lâu đã vào trong núi Hoa-dương ở với đạo sĩ họ Trình,
một hôm tạt về thăm nhà thấy cháu suy nhược rất là lo lắng. Sau
khi nghe Sinh thuật hết nhũng điều quái dị vừa qua, ông suy nghĩ
hồi lâu rồi nói :
- - Ta từng bảo
cháu ngòi bút không phải không có oan khiên. Lười gươm tuy ác
nhưng mà trách nhiệm rõ ràng, lỗi lầm tác hại cũg trong giới hạ.
Mượn sự huyền hoặc của văn chương mà gây điều thiệt hại cho con
người, tội ác của kẻ cầm bút xưa nay kể biết là bao, nhưng chẳng
qua mờ mịt hư ảo nên không thấy rõ hay không muốn rõ mà thôi.
Làm cho người gái lớn lên băn khoăn sầu muộn, làm cho trai trẻ
đang hăng khinh bạc, hoài nghi, gợi cho người ta nghĩ vật dục và
quên ái tình, khêu cho người ta tiếc tài lợi mà xa đạo nghĩa,
hoặc cười trên đau khổ của tha nhân, hát trên bi cảnh đồng loại,
đem sự phù phiếm thay cho thực dụng, lấy việc thiển cận quên
điều xâu xa, xuyên tạc chân lý, che lấp bần hàn, ca ngợi quyền
lực, bỏ quên con người, văn chương há chẳng đã làm nhũng điều vô
đạo ? Tội ác văn chương xưa nay nếu đem phân tích biết đâu chẳng
dồn chất thành ngàn dãy Thiên sơn ? Thần tạng của cháu kinh động
thất thường, nhưng mà bản chất huyền diệu có thể cảm ứng với cõi
vô hình, chắc cháu làm điều tổn đức khá nặng nên máu oan mới
đuổi theo như vậy. Hãy xem có lỡ hứng bút đi lệch đường chăng ?
Soát lại cho mau, soát lại cho mau, chớ để chầy ngày.
- Lương Sinh
nghe xong bồi hồi tấc dạ, trí tuệ xem ra minh mẫn hơn nhiều. Cơn
bệnh do đó lui được khá xa. Sinh đem mấy tập thi tuyển của mình
đọc lại từng câu, dò lại từng chũ, thấy toàn là ý bướm tình hoa,
phát triển cảm xúc mà xao nhãng trí tuệ, tán tụng thiên nhiên mà
bỏ mất cảnh đời, trốn tránh thực tại, từ chối tương lai, nhưng
nghĩ kỹ lại vẫn chưa dò được lối máu từ đâu. Bỗng sực nhớ đến
nhũng bài phóng bút viết cho Tổng trấn, không ghi lại trong thi
tuyển, tâm não trở nên bàng hoàng. Đồng thời bao nhiêu gương mặt
hốc hác trong ngày hội chùa lại hiện lên rõ, mấy cánh đồng trơ
trọi, nhũng tiếng thì thầm hai bên kiệu hoa, vẻ người nhớn nhác
sợ hãi, nhũng đòn dây trói, mấy dãy nhà giam, lần lượt như sống
lại trước mặt. Nhũng cảnh ấy thực đã trái ngược với nhũng bài
tán, bài minh đã viết. Mồ hôi toát ra như tắm, Sinh đứng lên
được, quyết định trở lại chốn cũ để tìm hiểu sự thực.
- Sinh đến chốn
cũ vào một buổi chiều nắng vàng thê lương phủ trên cảnh vật tiêu
điều, xơ xác. Qua khỏi dòng suối khô cạn Sinh bước vào một thôn
trang vắng vẻ, thưa thớt nhũng mái tranh nghèo, không một bóng
người thấp thoáng. Đến một gò cỏ úa chợt thấy một người nông phu
ủ rũ trước nấm mộ mới, liu hiu mấy nén hương tàn. Sinh dừng
bước, lại gần ngồi xuống một bên, khẽ hỏi :
- - Bác khóc
thương thân quyến nào vậy ?
- Người kia
ngước lên không nói, ngắm nhìn lớp bụi đường trường bạc thếch
trên quần áo Sinh, dịu đôi mắt xuống :
- - Người nằm
dưới mồ không phải bà con quyến thuộc của tôi.
- Sinh nghĩ : "Chẳng lẽ người này
cũng là một kẻ thi nhân khóc thương cho kiếp hồng nhan bạc mệnh
nào chăng". Chưa kịp dò ý, người kia chợt hỏi, ra vẻ hoài nghi :
- - Ông từ đâu
mà đến đây ?
- - Tôi ở chốn
xa, nhân bước đường phiêu lưu ghé tạt qua thôi. Buồn thấy miền
này có vẻ tiêu điều hơn các nơi khác.
- Người nông
phu bỗng long lanh đôi mắt như không dằn được tấm lòng dồn nén,
bật lên nhũng tiếng căm hờn :
- - Nói hết cho
muôn ngàn khách qua đường cũng chưa hả được dạ này. Vì dù phải
chết ngày nay, thân này chẳng tiếc, miễn sao bộc bạch cho được
sự thực uất hận từ lâu. Đã bao năm rồi, sống dưới anh vuốt của
tên Tổng trấn họ Lý, chính sự độc dũ hơn hùm beo, đồng ruộng gầy
khô, dân làng đói rách. Đầu xuân này có Khâm sai đi về, cụ Thôn
trưởng của chúng tôi, mặc dù già yếu cũng quyết vì dân làm bản
trần tình, can đầu ngựa, níu bánh xe mà tỏ bày sự thực. Thế
nhưng Khâm sai đi khắp mọi nơi, chỗ nào cũng thấy bia đá, cột
đồng đầy lời hoa mỹ tán dương của thằng danh sĩ chết khốn nào đó
nên ném bản trần tình, không xét, bảo rằng: "Muôn ngàn lời nói
của lũ dân đen vô học đâu bằng mấy vần từ điệu cao xa của kẻ
danh nho. Danh sĩ bao giờ cũng biết tự trọng. Tổng trấn đã được
hạng ấy tôn xưng, hẳn không phải bất tài". Thế đã thôi đâu, Khâm
sai đi rồi, Tổng trấn phái sai nha về tróc nã nhũng người đã đầu
đơn tố cáo nó. Bao người phải chết về nỗi cực hình thảm khốc, vợ
góa con côi, một trời nước mắt, ruộng đồng từ đây đành để nuôi
loài cỏ dại mà thôi.
- Sinh chết
điếng cả người, giây lâu mới gượng gạo hỏi :
- - Chẳng hay
bác có biết... danh sĩ ấy tên là gì không ?
- Người nông
phu trợn trừng cặp mắt, gào lên :
- - Làm gì mà
biết ! mà biết làm gì ? Nhũng hạng hiếu lợi, hiếu danh, trốn
trong từ chương để tiếp sức cho kẻ ác mà cứ tưởng mình thanh
cao, hạng ấy thì đâu chẳng có ? Dân làng đây ai cũng nguyền rủa
hắn, mà hắn nào biết đâu ! Nghĩ thương cho cụ Trưởng tôi, mấy
lần đứng ra chịu nhận hết tội để cứu bao người mà bọn chúng
chẳng chịu tha, cứ việc tàn sát thẳng tay, lôi đi lớp này rồi
đến lớp khác, nên khi bị dẫn qua đây cụ tự móc họng cho trào máu
ra mà chết để khỏi bị người đầy đọa. Trước khi nhắm mắt, cụ còn
gượng nói : " Được chết trên cánh đồng đã đẫm mồ hôi của ta, của
bà con xóm làng ta, thế là quý rồi. Chôn ta ở đây, cho ta gần
gũi với các người ". Hơi thở gần tàn, cụ còn nói tiếp : " Tội ác
là ở lũ vua quan. Tên danh sĩ kia chỉ là cái cớ để chúng vun vào
mà che lấp sự thực. Đừng oán hờn tên danh sĩ. Đáng thương cho
nó, đáng thương cho nó".
- Người nông
phu ngừng lại, nghẹn ngào rồi tiếp :
- - Nhưng bao
người khổ ở đây, bao kẻ chết nơi kia nghĩ còn đáng thương đáng
xót gấp trăm ngàn lần !
- Đoạn, gục đầu
trước mồ, khóc than thảm thiết. Sinh cũng sụp xuống, hòa tiếng
khóc theo. Bóng đêm xóa nhòa, gió lạnh như từ cõi âm thổi về
rung động bờ lau bụi cỏ. Sinh tưởng như theo cơn gió oan hồn của
người đã khuất hiện về chứng kiến cho nhũng giọt lệ chảy ra từ
một tấm lòng hối hận chân thành.
-
12-1958
( Chất Ngọc - Cảo thơm 1964 )
-
- (1) Một thể loại văn học cổ để
ca tụng công đức.
--o0o--
|
|