|
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
-
Mái Chùa Xưa
Võ Hồng
-
--o0o--
-
-
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức,
lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa
đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua
xóm. Ba tôi dặn :
-
- Không được kêu là : "Ông thầy chùa" nghe chưa ? Hổn.
-
Nhưng lại không bày tôi một cách kêu khác. Trong câu chuyện, khi
nhắc tới ông thầy... đó thì ba tôi dùng ba chữ "Thầy Châu Lâm".
Giọng kính cẩn có pha chút thân tình, Những người trong xóm khi
nhắc đến tên thầy đều có chung một giọng như thế.
-
Đi trên đường, thầy cứ nhìn thẳng, nét mặt dịu dàng không vui
không buồn. Tôi chịu không đoán được tuổi. Tóc và râu là hai bộ
phận để căn cứ mà định tuổi thì thầy đều không có. Mặt lại không
nếp nhăn. Miệng lại không cười. Đi giữa chúng tôi mà không gây
nên tiếng động.
-
Chùa Châu Lâm ở cách biệt nơi chân núi, xa xóm cờ cây số rưỡi
nhưng đối với tuổi ấu thơ của tôi như vậy đã là xa hun hút. Bởi
vì muốn đi tới chùa, chúng tôi phải đi bọc vòng chân núi, đi
theo một con đường quanh co có nhiều bụi gai bàn chải mọc đầy.
Cảnh vật khác hẳn với cảnh vật trên xóm, tưởng như là hai thế
giới riêng biệt. Bụi cây âm u rất nhiều. Chim hót tứ phía. Rắn
mối và kỳ nhông bò rèn rẹt mỗi lần có bước chân tới gần. Ở trên
miếng gai bàn chải chơm chởm, ở trên cành cây mọc chìa ra đường,
thỉnh thoảng có con kỳ đà nằm yên lặng nghếch cái đầu màu đỏ lên
nhìn. Những đoạn đường quanh co vội vã. Không dám chạy thẳng một
mạch, không muốn làm phiền lòng những bờ duối bờ sậy, không muốn
động chạm đến cả sự quây quẩn yên lặng và khiêm tốn của lũ cỏ
gấu, con đường nhường nhịn, len lõi né tránh.
-
Ngôi chùa trông thấy trước mắt nhưng phải đi vòng qua những thửa
ruộng thấp, đi lượn qua mấy ngôi tháp cao, đi bọc theo khu vườn
nhỏ rồi mới tới cửa Tam quan. Đá lởm chởm dưới chân, đá chất gồ
ghề làm bờ thành bờ dậu. Tất cả là công trình của bàn tay cần
cù, là chứng tích của sự nghèo khó. Chắc thầy trụ trì và chú
Điệu phải tự tay vần đá, kê chồng lên nhau, chèn ghép vào nhau
trong những buổi mai còn đầy sương, trong những buổi chiều có
tiếng sơn ca lanh lãnh hay trong đêm trăng thơm mùi hoa dại.
Không có dấu vết của chiếc bay thợ nề trên những kẻ đá, nơi dung
thân của lũ rắn mối, cắc kè.
-
Ấp tôi dân ít lại nghèo nên chùa không thể nào giàu được. Hình
như tài sản của chùa chỉ có hai miếng đất thô, và để có lúa ăn,
nhà chùa phải làm rẽ bảy gia gống ruộng. Bởi hoa lợi ít ỏi nên
thầy trụ trì chỉ nuôi nổi một đồ đệ.
-
Người đồ đệ này là bạn chơi cùng lứa với chú Ba tôi nên chú tôi
cứ tha hồ xưng hô bằng "thằng", bằng "mày" trong khi những đạo
hữu cao tuổi gọi bằng "chú Điệu". Tôi thì bắt chước theo lũ nhỏ,
kêu bằng "ông Điệu" dù Ông chỉ mới khoảng 16-17 tuổi. Ông Điệu
lo sạ lúa, làm cỏ, tát nước ruộng. Một hôm bị bạn bè rủ rê,
trong đó có chú Ba tôi, hái trộm luôn một trái dưa hấu của đám
rẫy cạnh vườn chùa rồi bạch ra ăn với nhau. Thầy trụ trì bắt
gặp. Thầy lùa cả bọn vô chùa để tra hỏi, sau đó thầy sai Ông
Điệu ra liêu lấy cái roi mây. Ông bước đi rất chậm, tưởng như
bàn chân đang bận suy nghĩ. Thầy bình tỉnh đợi. Khi cầm roi trên
tay, thầy bắt ông nằm xuống.
-
Trót ! Trót ! Trót ! Ông Điệu lăn qua lăn lại, khóc ồ lên, vừa
"Lạy thầy con lỡ dại ! Lạy thầy con xin chừa". Sau năm roi, thầy
ra lịnh cho ngồi dậy. Ông Điệu vâng lệnh ngồi dậy nhưng không
bước ra hiên lấy gáo múc nước rửa mặt như tôi tưởng. Mà ông lại
đúng ngay ngắn trước mặt thầy rồi bổng ông quì xuống lạy luôn ba
lạy.
-
Tôi ngạc nhiên hết đổi. Ở nhà, mỗi lần bị cha tôi bắt nằm xuống
đánh xong cho ngồi dậy là tôi vừa khóc hu hu vừa ra hiên múc
nước rửa mặt. Lần nào cũng vậy, y như một nghi thức không thay
đổi. Lần đầu tiên thấy một người bị đánh lạy tạ người vừa đánh
mình, lòng tôi chợt nảy sinh một cảm giác lạ. Một sự kính trọng
bồi hồi. Nhưng chưa hết. Thầy trụ trì ung dung nói :
-
- Đi vô làm lễ sám hối.
-
Ông Điệu "dạ", lại kẹt cửa lấy cái áo tràng màu xám choàng lên
người. Ông châm một nén hương rồi tẻ ra cắm ở mấy bàn thờ Phật.
Ông lại cầm dùi đánh nhiều hồi vào cái trống sấm. Rồi sau đó ông
quì tụng niệm ê a một lát lâu. Lúc nhỏ khi chưa đi học, tôi hay
theo chú Ba tôi đi chơi lang thang nên cái cảnh Ông Điệu bị đòn,
tôi chứng kiến từ đầu đến cuối. Tôi giữ một ấn tượng tốt về nhà
chùa là bởi sự kiện đó. Có lần chú tôi lén chỉ cho tôi coi một
cái chum đất nung lên men đặt ở sân chùa.
-
Chú nói :
-
- Cái chum tương đó.
-
Tôi hỏi :
-
- Sao em để ngoài nắng vậy ?
-
- Đem dang cho tương nó ngon. Mày tưởng chùa gọt vỏ bí vỏ bầu
rồi bưng đổ đó hả ? Không có. Đem bỏ vô chum tương, để lâu nó
thành tương.
-
Chú tôi không có óc khoa học, hay tin lời người khác mà không
chịu phối kiểm với thực tế, thỉnh thoảng lại hay nói ẩu nên tôi
không biết sự thực có phải đó là một cách làm tương đơn giản hay
không. Nhưng cho dầu không cho biết chắc, tôi cũng có thể quả
quyết rằng cách làm tương ở chùa này phải là cách đơn giản thô
sơ hơn hết. Cứ nhìn lối sống của thầy trụ trì và của ông Điệu là
biết ngay. Ngoại trừ cái áo nâu dài mặc đi ra đường là tươm tất,
còn khi ở chùa thì thầy mặc áo vải thô vạt hò màu xám có nhiều
mụn vá nơi vai hoặc nơi cùi chỏ. Cái vạt áo nhọn làm cho dáng
thầy từ mảnh mai trở nên gầy gò. Thuốc lá thầy hút là thứ thuốc
tự tay thầy trồng. Vài chục cây thuốc mọc ở một vạt đất nhỏ đầy
sỏi đá nơi cửa sổ nhà Đông, có những lá già ở gần gốc đã được
tướt đi. Đi ra đường thì thầy mang guốc sơn, còn ở chùa thì mang
guốc bằng gỗ cây sầu đông tự thầy đẽo lấy. Quai guốc là một mảnh
da trâu cứng.
-
Một cảnh chùa nghèo nàn như vậy không thể ban phát lợi lộc vật
chất cho ai hết, nhưng nhờ đó mà nó trở nên thân mật với mọi
người. Ai muốn ghé chơi chùa cũng được, ghé vào giờ nào cũng
được, của Tam quan gần như không bao giờ đóng. Nhà chùa không
phải coi chừng kẻ trộm cắp vì chẳng có chi đáng để trộm cắp. Có
mấy bụi chuối mốc đúng ở mái chùa là hay có trái hườm trên những
buồng chuối nặng. Lũ chim chào mào tọc mạch bao giờ cũng thấy
trước và lén mỗ trộm. Người từ xóm lại phải đi băng qua một
quãng đồng trống, ai công đâu xách một buồng chuối trên tay. Quả
rằng chỉ có lũ chim là chuyên môn ăn trộm quả chùa. Mấy trái
mãng cầu chín quên hái ngoài vườn, chùm ớt đỏ, nơi bụi ớt ở vại
nước rũ rê lũ chim đội mũ, chim chìa vôi tụ hội lại vừa ăn vừa
nói chuyện rinh rã. Bụi thơm, cây mít ở sau lưng chùa thì có lũ
sóc ranh mãnh dòm chừng.
-
Người tìm đến chùa thường để xin nghĩ mát hay để tìm nước uống.
Đó là trường hợp những người cây lúa, cuốc cỏ mía ở những đám
ruộng đám thổ gần đó. Buổi trưa nghĩ tay, về trong xóm thì xa,
ngồi dưới gốc cây thì hanh nắng, sẳn có chùa gần xin vào nghĩ ở
chái sau. Nước uống thì sẳn ở chum, dùng bao nhiêu cũng có, tha
hồ. Tuy nhiên, dùng chỉ hết mươi gáo nhưng họ bảo nhau ra giềng
xách châm vào cho đầy đủ đầy lu, đỡ tay chú Điệu một bửa. Hôm
nào mo cơm gói theo mà thiếu đồ ăn thì chú Điệu múc chó chén
nước.
-
Mấy đứa chăn bò, lũ nhỏ hái củi hay ghé xuống chùa xin muối. Bò
lùa thả ăn ở chân núi con chúng thì tụ hội lại đánh đáo đánh
trống hoặc sục sạo vào các bụi cây để hái ổi, hái sim, múi dẻ,
nhản chày... Khi không nhắm mùa trái cây thì bứt đỡ lá dang lá
me rồi xuống chùa xin muối lên chấm ăn. Bước qua vại nước thấy
có ớt chín thì lén hái một hai trái để lên giã chung với muối.
Nếu thầy trụ trì hay chú Điệu bắt gặp thì cũng chỉ "Ê ! Ê !" vài
tiếng và người phạm lỗi rút tay ram bẽn lẽn cười rồi đi luôn.
-
Không ai nỡ nghĩ rằng đó là một sự ăn cắp. Cái không khi tịch
mịch bao dung nuôi dưỡng hỉ xả.
-
Lên bảy tuổi tôi đi học ở trường Thiên Đức, cách nhà một con đò
và hai cây số đường bộ. Trường nằm ở trên chỏm núi. Do mấy người
bạn lớn dẫn dắt, một hôm đang giữa giờ học tôi cũng "xin phép
thầy cho ra ngoài". Thật tình tôi không hiểu "đi ra ngoài" là đi
đâu mà cứ thấy mấy chị lớn hay giơ ngón tay lên xin. Gạn hỏi mãi
một chị tên là Khoan, - sau này lên lớp Tư tôi cứ kêu là chị Lưu
Khoan bởi ngẫu nhiên tôi đọc được trong một cuốn sách tập đọc cũ
của cha tôi kể sự tích ông Lưu Khoan có người thị nữ bưng bát
cháo lên hầu, lỡ tay đánh đổ cháo ra áo chầu vân vân, - giảng
cho tôi nghe :
-
- Đi ra bụi duối ngồi mát.
-
Tôi nói :
-
- Ngồi trong lớp đâu có nực ? Mát buồn ngủ luôn.
-
- Nhưng đâu bằng ở ngoài núi ? Sẵn trái duối chín hái ăn luôn.
-
- Nhằm trúng cây duối ngọt thì trái duối chín ăn như đường phèn,
- tôi đang nghĩ tiếp. Nhằm cây duối trái đắng thì bỏ đi, lựa cho
được cây duối ngọt. Kiến vàng đít bự ưa trái duối lắm, bò từng
đàn...
-
- Đôi hồi chạy tuột dốc xuống luôn chùa Cảnh Phước, - chị Khoan
tiếp. Xin vài trái chanh chấm ăn với muối.
-
Thế là tôi lập tâm muốn đi hoang một bữa. Tôi đợi chờ chữ Nho
của thầy Lê Ngu Tân. Thầy hiền, không đứa nào sợ. Chị Khoan đợi
tôi ở ngoài cửa lớp. Thấy tôi ra, chị khen liền :
-
- Được đó. Mày phải dạn lên một chút. Thôi bữa nay khỏi ăn duối
đi. Tao cho mày xuống chùa Cảnh Phước.
-
Không cần hỏi tôi có đồng ý không, chị cứ xổ dốc luôn. Trời ơi !
Triền dốc thì đứng mà chị cứ chạy băng ào, chạy quá đà phải ôm
luôn một nhánh cây mới hãm bớt tốc lực. Nhiều lần như vậy. Cuối
cùng chúng tôi lọt vào sân chùa.
-
Kèm với sự bỡ ngỡ, cái cảm tưởng đầu tiên của tôi là chùa Cảnh
Phước giàu hơn chùa Châu Lâm. Có nhiều màu trắng của vôi mới nơi
trụ hiên, nơi vách. Có sự bằng phẳng rộng rãi nơi sân, các lối
đi được viền bằng cỏ tóc tiên. Hoa được trồng thành bồn. Có một
dãy những cái hồ lớn đắp bằng xi măng trong thả bèo hay trồng
sen. Vườn chùa kế tiếp theo sân. Một cây sàn vọt nước cất tiếng
kẽo kẹt. Nhiều cây chanh lá xanh um đứng kề thêm giếng. Khế, ổi,
bụi môn bạc hà, cây bưởi, vạt bắp, vạt củ mì, và xa hơn, những
cây cao có hoa màu đỏ đứng cạnh những ngôi tháp. Nhiều lần sau
tôi lại có dịp xổ dốc để xuống thăm chùa Cảnh Phước và mỗi lần
như vậy giúp tôi khám phá thêm một nét phong lưu của chùa. Thầy
trụ trì vui vẻ nhìn chúng tôi, ngắt cho những trái chanh vừa vò
đầu âu yếm. Những lúc ấy tôi bỗng nhớ đến khuôn mặt trầm ngâm
của thầy Châu Lâm và không hiểu tại sao tôi chợt thấy thương
thầy. Tôi thương ngôi chùa nghèo, có nhiều màu xám nơi cửa nơi
vách, có một cái sân không đủ sức để bằng phẳng và vuông vức, có
nhiều sỏi đá đến nỗi cây khế cũng không trỗ được màu xanh.
-
Chùa Châu Lâm có một cái tên nôm là "Chùa Đống Ma". Tên đó dành
cho những người bình dân trong xóm gọi. Chùa Cảnh Phước không có
tên nôm. Trong tuổi ấu thơ, tôi đã nghĩ rằng đó là một sự thiệt
thòi của kẻ giàu. Lớn lên, tôi biết rằng có nhiều ngôi chùa vừa
giàu có vừa có đủ hai tên. Như Chùa Đá Trắng với tên "Sắc Tứ Từ
Quang Tự", Chùa Tổ với tên là "Sắc Tứ Bát Nhã Tự". Sắc tự tức là
được nhà vua công nhận và ban cho cái tên. Như là những con
người ở ngoài đời vừa giàu vừa sang. Ở Phong Thăng có một ngôi
chùa giàu mà không được "sắc tứ". Nhưng có tên là chùa Bảo
Sơn. Bảo Sơn, Linh Sơn, Phước Sơn... những cái tên khi đọc lên
có âm dụng đến cả âm ba, món trang sức không đòi hỏi phải có
nhiều tiền mới sắm được. Có một món quà chùa sẵn lòng tặng cho
ai cần : đó là những cành bông điệp.
-
Không biết tục lệ xuất phát từ đâu mà cả làng tôi mỗi lần có
việc cúng kiến
là chỉ chăm chăm đi hái bông điệp để
cắm lên bàn thờ. Nếu nhằm ngày Tết tháng Giêng thì có thể cắm
thêm bông vạn thọ, bông trang đỏ. Những loại khác như cúc, thược
dược, huệ, hồng... dầu đẹp nhưng là món cắm chơi giữa người trần
với nhau. Tục lệ đó chắc đã nhắm một mục đích kinh tế rõ rệt :
cay bông điệp trồng một lần mà ra bông cả vài chục năm bởi nó là
thân mộc lớn cỡ bằng cây táo nhơn. Hoa có hai loại, màu đỏ và
màu vàng mọc thành chùm nên chỉ cần bẻ ba nhánh nhỏ là đủ ghép
thành một bình. Chùa trồng ba, bốn cây ở trên lối đi và như vậy
là đủ cho nhu cầu của một xóm.
-
Sự liên hệ giữa dân xóm và nhà chùa là một liên hệ tinh thần,
dầu không sâu đậm thiết tha nhưng mà lúc nào cũng sẵn sàng hiện
diện. Khi có niềm đau nỗi buồn quá sức giải quyết của người thì
về chùa để tìm sự an ủi và hy vọng. Nhà có tang mời thầy tụng
kinh siêu độ, nhà có người đau ốm trầm kha mới thầy tụng kinh
cầu an. Mười năm một lần, ban trị sự Ấp tổ chức đàn tràng mời
thầy hành lễ, làm chay múa lục cúng suốt ba ngày đêm để cầu an
cho dân chúng cả Ấp. Người lớn trẻ con, thanh niên thiếu nữ dập
dìu tới dự, áo quần tươm tất tắt mặt mày tươi vui khiến tôi
nghĩ rằng đây vừa là lễ Tạ Ơn cho mười năm đã qua vừa là Lễ Cầu
An cho mười năm sẽ tới. Cỗ bàn dọn ra, ai có mặt cũng được mời
ngồi và cầm đủa thọ trai, không phân biệt kẻ lớn người nhỏ kẻ
sang người hèn. Y như trong những ngày lễ lớn làm chay ở chùa
vậy.
-
Trong những ngày đó, người có cầm tới bao đèn bao đang hay buồng
cau nãi chuối, người có góp phần công đức năm cắc một đồng hay
gói trà phong bánh đều được mời dự bữa cơm chay ngang hàng với
kẻ chỉ tới tò mò đứng coi. Có người quá nghèo thì tới lãnh phần
gọt vỏ bí vỏ khai hay vo gạo đãi đậu. Có người tối mặt tối mày
trong bếp.
-
Một lần tôi theo ông tôi tới dự lễ Rằm tháng Bảy ở chùa. Thầy
trụ trì ngồi nói chuyện bình thản với khác trong khi các người
nấu cỗ dọn bàn cứ tự động lo liệu lấy. Họ tự sai phái, phân công
làm như chuyện chùa là chuyện của nhà họ. Những tiếng kêu gọi,
hỏi han, dặn dò đan chéo vào nhau :
-
- Đưa đây chai dầu phộng !
-
- Ra vác thêm bó củi, em em. Lãy bó gộc ở chỗ gốc táo đó.
-
- Lu gạo để ở đâu ? Chớ tin này vét hết rồi.
-
- Hỏi chú Điệu. Chú Điệu ơi ! Ủa, mà cứ xúc thúng gạo lúa Gòn
của cô Năm mới đội tới đó cũng được mà.
-
- Bí sáp này chắc lấy giống ở Đờ-răng [ Đơn Dương ]. Trái to mà
dài như con heo. Ở trong chùa Tổ, nấu chay có la-ghim Đờ-răng và
Trà Lạch [ Đà Lạt ] chở xuống. Phải, chùa Tổ là chùa nổi tiếng
nhất của cả tỉnh, có nhiều đạo hữu giàu ở các tỉnh khác cũng xin
quy y làm đệ tử. Một số các đệ tử gốc ở Dran, Đà Lạt. Mỗi kỳ lễ
lớn, họ gởi theo xe hàng xuống từng giỏ cần xé to những bắp su,
cà rốt, khoai tây, đậu Hòa Lan, củ cải... Người ra tả rằng, - có
lẽ phần lớn theo tưởng tượng - các bà đệ tử đều mập mạp, áo dài
kim tuyến lóng lánh và vàng đeo đày cổ tay, ngón đeo đày cà rá
hột xoàn. Khi ngồi nghĩ đến một cỗ chay thịnh soạn ở Chùa Tổ,
các bà Lý Bà Hương chắc có ước ao được thưởng thức coi nó ngon
ra làm sao nhưng tôi tin rằng đồng thời họ lại cũng đang thêm
yêu thương ngôi chùa nghèo của họ và cuộc đời tầm thường của
chính họ. Nghèo nàn là một sợi dây thân ái ràng buộc mọi người.
Khi có đồng tiền dính dự vào thì đồng tiền gây mầm chia rẽ.
-
- Không khí của một bữa cỗ chay khác xa với một bữa cỗ mặn.
Không có sự náo nức của người dực lễ cỗ. Không ai tham ăn, háu
ăn, mọi người đều hườn đãi mời mọc nhau. Chỉ vì món chay của nhà
quê hồi đó không có những mỹ vị đam mê. Xào thì đậu đũa xào dầu,
mướp xào dầu, khoai lang xào dầu. Đại khái là một món rau trái
được lăn qua trong dầu phộng rồi nằm trong chảo đậy vung hầm hơi
cho chín. Món canh thì nhờ đậu phộng mà ngọt, khác nhau chỉ có
bát này là bí đỏ, bát kia là bầu, bát nọ là rau cải.
-
Trong bữa ăn có bày luôn cả các món tráng miệng. Và mười lần như
một, thế nào cũng có một người đưa ra ý kiến :
-
- Ăn chay thì gặp bỏ nhiều món vô chung một bát rồi ăn mới ngon.
-
Lần nào dự bữa ăn chay tôi cũng có ý đợi chờ xem ai sẽ đầu tiên
nói lên câu đó. Ở nhà tôi thì y như cô Bảy tôi lãnh phần nói
trước. Và chú Ba tôi thực hành liền. Chú lấy một bát canh, bẻ
bánh tráng nướng bỏ vô, gắp xào đậu xào khoai, nộm đu đủ bỏ vô
và chú chuẩn bị biểu diễn. Cô tôi đảy đĩa cốm và bánh in lại gần
(ở miền Trung, cốm là thứ bánh làm bằng bột nếp rang trộn đường
đóng khuôn) :
-
- Bỏ luôn miếng cốm vô.
-
Chú Ba cười liền :
-
- Phải đó, như vậy mới đúng điệu ăn chay.
-
- Khi tôi lớn lên đi đây đi đó, tôi được dẹp ghé thăm nhiều ngôi
chùa sang trọng, được dự nhiều bữa tiệc chay thịnh soạn ngon
lành. Mỗi lần như vậy là lòng tôi lại bùi ngùi nhớ đến ngôi chùa
quê của tôi, đến những bữa cỗ chay thanh đạm nghèo nàn, thanh
đạm đến mức "có thể trộn nhiều món vào nhau" mà không sợ mất
hương vị. Bởi lẽ, than ôi, có hương vị gì đâu mà gọi bằng mất ?
-
Những kỷ niệm ngày thơ ấu dầu có thời gian cách trở nhưng bây
giờ đây mỗi lần nhớ lại là tôi thấy hiện lên rõ ràng trước mặt.
Tôi có thể nghe cả giọng nói với âm thanh riêng biệt của từng
người. Bà Bộ, buôn trầu cau ở Chợ Chiều, mỗi lần lễ xong tới mục
thiêu vàng là khệ nệ lãnh bưng cái nia lớn trên xếp đầy những tờ
giấy tiền, thanh y, giấy vàng bạc ra trước sân chùa. Bà châm lửa
đốt từng xấp rồi chắp tay nhìn ngọn lửa một cách cung kính.
Những tàn tro giấy vỡ ra, bị hơi nóng cuốn hút bay lên, lượn
lững lờ. Bà xuýt xoa vái bốn phía rồi nói với những bà con đứng
nhìn chung quanh :
-
- Các Đẳng tới nhận áo và vàng bạc đó. Các Ngài đứng ở trên
cao.
-
Không ai bày tỏ ý kiến. Bà đành nói tiếp, như để thuyết phục một
kẻ hoài nghi, tưởng tượng nào đó, cái lý luận bà đã chuẩn bị sẵn
ở nhà, có lẽ đã nói nhiều lần ở nhiều nơi rồi :
-
- Chớ trời đâu có gió mà tàn tro cứ nhắm trên cao mà bay ?
-
Mọi người vội vã nghiêm chỉnh và kính cẩn. Cả cái không gian âm
u của buổi chiều nơi sân chùa như đầy những vong linh, những cô
hồn tụ hội. Bà Bộ thật xứng đáng được các Đẳng ban thưởng. Tôi
chưa thấy một khuôn mặt nào rạng rỡ như khuôn mặt bà lúc ấy.
-
Trải qua cuộc chiến giằn co, ấp Quảng Đức của tôi đã thành bãi
chiến trường. Đồng bào bỏ nhà cửa ruộng vườn lũ lượt gòng gánh
ra đi. Ngôi chùa xưa chắc còn tịch liêu tàn phế hơn xưa, những
con chim chào mào chìa vôi chắc cứ ngang nhiên làm tổ ngay ở
chái sau, hiên trước./.
--o0o--
|
|