|
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
-
Mưa Nắng Hai Mùa
-
Thu Nguyệt
-
--o0o--
-
-
Nắng.
Cái nắng làm người ta lúc nào cũng phải hấp háy mắt, ánh sáng dư
thừa đến mức dường như có thể nhìn thấy từng mảng không khí xung
quanh đang chuyển động như những váng dầu trên mặt nước. Nắng.
Nắng như thế mà không nóng. Ngọn núi này có điều đặc biệt như
thế. Những thân cây trụi lá, khô khốc, khẳng khiu, thế nhưng khi
đưa tay thử bẻ một cành nhỏ, ta sẽ bất ngờ vì sự tươi mềm của
nó. Giống như cây mai mới vừa được lặt lá trong những ngày sắp
tết vậy. Chỉ có cây là hiểu rõ mùa, hiểu rõ nắng mưa vốn có.
Ông Núi sống trong ngọn núi này cũng thế.
-
Người ta chẳng biết ông từ đâu đến và đến từ bao giờ, chỉ biết
là từ lâu lắm, khi mới chỉ vài người đầu tiên đến đây lập nghiệp
thì đã có ông Núi sống ở trong hang. Chẳng ai biết ông tên là gì
nên cứ gọi là ông Núi. Như một bức tượng La Hán, ông Núi ít khi
trò chuyện với ai. Ông sống bằng trái, lá cây và nước suối. Có
lần một người dân trong vùng kể lại rằng anh ta mang đến cho ông
một buồng chuối chín, rồi ngồi lại nhìn ông ăn. Ông không bẻ
chuối rời ra như ta thường làm, mà cứ để nguyên buồng, tách võ,
lấy ra từng trái rất khéo, ông ăn một mạch hết buồng chuối, mà
nhìn như buồng chuối vẫn còn nguyên. Anh chàng thấy vậy liền
mang buồng võ chuối về treo lên giữa nhà, buồng chuối khô dần
nhưng không rữa mục, nhìn rất đẹp và ngộ. Từ đó, dân trong vùng,
nhà nào cũng chọn một buồng chuối đẹp nhất, mang cúng ông và đem
võ buồng chuối về treo trong nhà như một vật thiêng.
-
Xóm núi lơ thơ vài căn nhà nhỏ, bình yên giữa rừng cây cổ thụ
bạt ngàn. Ông Núi thỉnh thoảng đến nhà chữa bệnh cho những người
trong xóm. Ông có một xâu chuỗi rất đặc biệt, khi chữa bệnh, ông
mài những hạt chuỗi ra, hòa với nước cho uống đúng ba lần là
khỏi bệnh. Không biết xâu chuỗi của ông gồm những loại thuốc gì,
nhưng bệnh nào ông cũng mài xâu chuỗi ấy. Ông ngồi bên bờ suối,
giữa đá và nước, trong không khí yên ắng của rừng, chậm rãi, ung
dung, nhẹ nhàng mài từng hạt, từng hạt... Nhìn dáng ngồi thanh
thoát của ông khi mài chuỗi, người bệnh chưa uống thuốc đã cảm
thấy như được khỏi bệnh rồi. Ông không đeo xâu chuỗi luôn bên
mình, mỗi khi vào hang, ông để lại xâu chuỗi treo lên vách đá
trước cửa hang. Trong xóm mỗi lần có người bệnh, đến tìm, nhìn
thấy xâu chuỗi treo trước cửahang là biết chắc mình sẽ được cứu,
không thấy tức là ông đi vắng. Ông đi đâu và bao giờ về thì
không ai có thể biết được. Không phải trường hợp nào bệnh cũng
được ông cứu chữa. Không ai tìm được ông, chỉ biết lúc nào cần
thì ông xuất hiện, và ai được ông chữa thì chắn chắn là khoẻ, dù
bệnh trạng có ngặt nghèo đến đâu.
-
Dân cư xóm núi ngày thêm đông đúc, cây cối thưa dần dù lắm chính
sách tuyên truyền bảo vệ. Ông Núi ít chữa bệnh hơn dù người bệnh
khá nhiều. Xóm núi đông người kèm theo nhiều mối quan hệ phức
tạp. Núi bị chia chẻ thành nhiều mảnh sở hữu riêng lẻ. Rồi những
cuộc cải vã, xô xát nhau đôi khi chỉ vì vài chục mét đất rẫy.
Nơi nào có dấu chân nhiều người là nơi ấy bắt đầu có sự tranh
giành, chiếm đoạt. Xóm núi đặc biệt có hai nhóm họ xung khắc rất
dữ với nhau, đó là nhóm họ nhà ông Trần và nhóm họ nhà ông Phạm.
Cùng là dân lưu lạc đến xóm này từ những năm sáu mươi. Họ đốt
rừng làm rẫy và tranh nhau suýt mấy lần đổ máu. Mối hận vẫn ngun
ngún cháy trong lòng cả hai bên.
-
Sắp đến mùa mưa rồi, cũng là mùa gieo hạt. Lại sắp phải cải nhau
vì mấy cái rẫy màu mỡ bên kia đồi. Lòng người không đo được,
nhưng vật sở hữu của người thì bất cứ thứ gì cũng được cân đong
đo đếm rất kỷ lưỡng. Ðất đai thì liền mạch nhưng ranh giới được
vạch ra bởi con người thì lắm nỗi dọc ngang. Nếu đất mà nói được
thì chắc là những cục đất ở các vạch phân chia phải nhiều tâm sự
lắm!
-
Ông Trần bỗng nhiên ngã bệnh. Nhà họ Phạm hay tin này còn nhanh
hơn những người thân nhà họ Trần. Ở đời, có khi nỗi đau của
người này lại là niềm vui của người khác một cách nhẫn tâm hồn
nhiên!
-
Ngày trước, cách đây hơn hai mươi năm, đã có lần ông Trần vác
phảng rượt ông Phạm chạy chí chết vì tranh nhau miếng đất gần
chân núi. Lần ấy, nếu không nhờ con suối cứu mạng - vì ông Trần
không biết bơi - thì chắc là máu đã đổ. Mảnh đất ấy cuối cùng
không về tay ai cả, vụ kiện chỉ đem lại cho làng mảnh đất sở hữu
chung. Riêng ông Phạm “sở hữu” một mối nhục truyền đời, tháng
ngày âm ỉ ngún trong sự phẩn uất. Ông đã nhờ vào đôi chân và khả
năng bơi lội giỏi của mình để tự bảo vệ, nên pháp luật đâu có cơ
hội để bảo vệ ông. Ðôi khi ông ngồi nghĩ quẩn: Phải chi lúc ấy
mình để hắn chém cho mình một phảng thì chắc chắn là hắn đã phải
ngồi mục xương trong tù, hết huênh hoang khoác lác! Con cháu hắn
sẽ mang một cái lý lịch là hậu duệ của một tên giết người, còn
hắn sẽ mang một bản án của kẻ sát nhân bị mọi người kinh tởm,
nguyền rủa. Còn ông, thà chết mà rửa được hận, còn hơn sống mà
mang nỗi nhục triền miên. Ðã có những lúc ông Phạm nghĩ như
thế.
-
Nghe tin ông Trần bệnh, ông Phạm ngấm ngầm đi lên hang ông Núi
dò la. Không nhìn thấy xâu chuỗi treo trên vách đá, ông khấp
khởi mừng thầm, nhưng không yên tâm, ông tìm một góc khuất, ngồi
quan sát. Người nhà ông Trần cứ vài giờ lại đến thăm chừng xem
ông Núi đã về chưa. Hai luồng ý muốn, mong mõi khác nhau, người
mong ông Núi về, kẻ mong ông Núi đừng có mặt; bên công khai, bên
bí mật, nhưng cả hai đều sốt ruột, bất an và căng thẳng như
nhau. Nhiều ngày trôi qua, vậy rồi ông Núi xuất hiện trong tiếng
reo vui vỡ òa hy vọng và tiếng thở dài len lén thất vọng. Ông
Phạm thất ý trở về khi ông Núi bắt đầu ngồi xuống mài hạt chuỗi
đầu tiên.
-
Cơn bốc hỏa, nỗi bực tức vẫn đeo đẵng theo từng bước chân ông
Phạm. Cái tên Trần ấy, sao nó không chết quách đi cho rảnh. Ông
nhớ như in gương mặt đằng đằng sát khí và cái phảng lấp loáng
ánh nắng sắc ngọt của ông Trần. Lửa căm hận trong lòng ông Phạm
lại cháy. Ông cảm thấy nóng bức vô cùng. Bước chân vô tình dẫn
ông đến đúng cái lối ngày trước ông Trần đã rượt đổi ông. Con
suối bắt đầu vào mùa mưa, nước chảy rất mạnh, dâng tràn khiến
đôi bờ suối mỗi ngày một xa rộng thêm ra. Ông bước ào xuống
suối, đưa tay đánh tung tóe trên mặt nước. Không! Ông không thể
chịu đựng mãi khi ông Trần cứ mỗi lần say rượu lại huênh hoang
kể lại chuyện cũ, kể lại cái “thành tích” của mình, rồi miêu tả,
rồi thêm thắt đủ thứ về cái sự yếu hèn, nỗi nhục nhã của kẻ thất
thế để bôi nhọ ông. Ông đã chịu đựng nhiều rồi, ông không muốn
con cháu ông sau này lại tiếp tục nghe câu chuyện ấy. Tháng
trước, ông suýt vác dao sang nhà liều mạng với ông Trần một
phen, khi nghe thằng cháu nội đích tôn của ông mới vừa 6 tuổi,
đi ngang nhà ông Trần lúc ông này đang say rượu, ông ngoắc thằng
bé vô và nói với nó: “Ông nội mày là thằng hèn! Tao đã từng vác
phảng rượt nó chạy thục mạng, nếu nó không lạy tao đến bật máu
trán ra, thì tao đâu có tha cho nó, để làm gì bây giờ có cái
mặt mày trên đời!”. Câu nói này hơn hai mươi năm trước ông Trần
đã nói tương tự như vậy với đứa con trai 8 tuổi của ông. Ông
Phạm uất đến tím cả người. Nhục một mình ông chịu được, nhưng
đến con ông, rồi đến cháu ông cũng phải chịu nhục vì ông thì ông
không thể chịu đựng được nữa! Cái lão Trần ấy còn sống ngày nào
là còn rêu rao, còn chọc ngoáy vào vết thương của ông, bôi nhọ
ông và cả đến con cháu nhiều đời của ông nữa. Càng nghĩ ông càng
căm hận. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu, ông Phạm vội vàng bước
lên khỏi suối, hối hả đi về nhà. Năm xưa, một người dân tộc đã
cho ông một loại thuốc, hình như làm bằng nhựa cây hòa cùng nọc
rắn gì đó, cực độc, dùng để bôi lên đầu mũi tên khi săn thú dữ.
Bao nhiêu năm qua ông chẳng dùng để làm gì, vẫn cất kỹ. Ông vạch
sẵn một kế hoạch trong đầu, ông sẽ tìm cách bôi lên xâu chuỗi
của ông Núi. Dễ thôi mà, xâu chuỗi ông Núi vẫn treo ở cửa
hang...
-
Tiếng trống mõ đám ma ông Trần thỉnh thoảng lại
vang lên, dội vào tim ông Phạm từng nhát khó tả. Tiếng trống mõ
đi vào cả trong giấc ngủ chập chờn của ông sau hơn ba tháng kể
từ ngày ông Trần mất. Ngày nào ông Phạm cũng lên hang, ngồi chờ
ông Núi, chờ để lấy xâu chuỗi mà chính tay ông đã bôi thuốc độc.
Ông sợ ông Núi lại dùng xâu chuỗi ấy để chữa bệnh cho người khác
nữa thì tội của ông không biết đến đâu. Nhưng ông Núi đi đâu
vắng biệt. Ngày nào ông cũng sống thấp thỏm trong sự âu lo và
chờ đợi và dằn vặt. Ông Phạm đếm từng ngày, hôm nay đã là ngày
thứ 103, gần 4 tháng rồi! Ông Núi vẫn chưa về. Ông Phạm nhìn mãi
lên cửa hang, đôi khi hoa mắt, ông như nhìn thấy xâu chuỗi ẩn
hiện trên vách đá, khi thì nhòe nhoẹt màu đỏ như máu, khi lại
thấp thoáng gương mặt ông Trần... Tinh thần ông Phạm ngày thêm
hoảng loạn. Ông gầy rộc, hốc hác, ngơ ngẩn như người mất trí.
-
Ông Núi rồi cũng trở về, Ông Phạm đã lấy được xâu chuỗi. Ông
mang xâu chuỗi về nhà, gói rất kỹ, giấu dưới gối và cấm tiệt
không cho ai được bước lại gần giường của mình. Lấy được xâu
chuỗi rồi, ông ngỡ rằng mình sẽ bình tâm lại, nhưng không, bệnh
tình ông ngày một thêm trầm trọng. Người nhà ông lại thay phiên
nhau đứng ở cửa hang chờ ông Núi. Nhưng ông Phạm biết, vô ích
thôi, xâu chuỗi đâu còn nữa. Cho đến một ngày... khi ông Phạm
lên cơn hấp hối thì ông Núi xuất hiện trước mặt ông với một xâu
chuỗi y như thế trên tay. Ông Phạm gượng chút sức tàn, bảo con
trai và cháu nội dìu ông quì xuống trước mặt ông Núi và trao lại
cho ông Núi xâu chuỗi tẩm thuốc độc. Ông Phạm định kể lại tất cả
tội lỗi của mình, nhưng ông Núi đã từ tốn nói:
-
- Ta đã biết tất cả, con không cần kể lại đâu. Ta còn có chuyện
này để kể cho con nghe...
-
Khi ông Trần ngã bệnh, sau nhiều ngày chờ đợi ông Núi, nằm trên
giường bệnh nhìn thấy sức lực của mình ngày thêm mòn mõi, cái
chân cái tay ngày nào cầm phảng rượt đuổi ông Phạm qua mấy ngọn
đồi giờ đã không cầm nổi ly nước uống. Khi gần đến cái chết
người ta mới thấm thía những trò phù phiếm của cuộc đời. Không
hiểu sao, trong những ngày cuối đời, người mà ông nghĩ đến nhiều
nhất lại là ông Phạm, cái người mà hơn nửa đời người bị ông nhục
mạ, cái người đã đem lại niềm “tự hào”, “vinh quang” cho ông,
“thành tích” của ông!
-
Ông Núi đã mài thuốc cho ông Trần uống. Ông Núi tự tay mình
bưng đến bên giường bệnh ông Trần và nói: “Thật ra, bệnh của con
đã đến hồi không cứu được nữa rồi, nhưng nếu con còn muốn sống
để tiếp tục cái nghiệp mà từ lâu nay con đã gieo với nhà họ
Phạm, thì con hãy uống chén thuốc này.” Nhìn gương mặt hiền hòa
thanh thoát diệu kỳ của ông Núi, ông Trần như người chợt tỉnh
cơn mộng. Ông Trần đã không uống. Chén thứ nhất, rồi chén thứ
hai (chén này là chén thuốc mà theo ông Phạm trước đây nghĩ là
đã có thuốc độc) rồi chén thứ ba... Ông Trần vẫn không uống, mặc
cho người nhà vật vã khóc than nài nỉ. Ông Núi dặn người nhà ông
Trần không ai được nói ra rằng ông Trần vì đã không uống thuốc
mà chết...
-
Ông Phạm nở một nụ cười nhẹ nhõm. Cũng như ông Trần, ông Phạm
trút hơi thở cuối cùng trong ánh nhìn từ bi, bao dung của ông
Núi. Dù chỉ là một ánh nhìn, nhưng cũng đủ làm thành một hành
trang, nếu người ra đi biết nhặt nó cho vào trong hành lý của
mình.
-
Mùa mưa qua rồi, con suối chảy nhẹ nhàng hơn và làm gần lại đôi
bờ. Nắng. Trời lại nắng, và những thân cây trụi lá tiềm ẩn trong
mình những nụ non xanh, vẫn sẳn sàng cho một mùa lộc mới, chỉ
cần có nắng có mưa.
--o0o--
|
|