|
VĂN HỌC NGHỆ THUẬT
-
Bóng Hạnh Phúc
-
Thích Nữ Thể Quán
Phật lịch 2506
Tác giả xuất bản và phát hành - 1963
-
----o0o---
-
-
Thay lời tựa
-
Bóng hạnh
phúc
-
Chủ yếu của
tập sách nhỏ này
-
-
-
Mãi viết, tuy có nghe tiếng Cam-Ly sủa ngoài vườn mà tôi không
để ý.
-
Nhưng khi ngẩng lên, thì Sư-cô T.T. đã đứng trước mặt.
-
- Ủa cửa trước khóa, cửa sau gài, pháp-muội
vào đàng nào mà tài tình thế?
-
- Dạ em vận thần thông.
-
Sư cô đưa vạt áo sau cho tôi xem:
-
- Đại-tỷ coi, cái áo mới tinh khôi mà tượt một đường, tội chưa
nè, tại thép gai đây.
-
Tôi cười:
-
- Té ra xuyên-ly thông[1] chứ có phải vận thần thông
đâu?
-
Tôi bảo điệu đem kim chỉ lên rồi tiếp khách tại bàn
viết.
-
- Đại tỷ viết chi mà say sưa, cho em coi với.
-
Sư-cô nhìn xuống đoạn văn tôi đang viết... “Bóng hạnh phúc”
ngang đây là hết, nhưng chủ yếu của tập sách nhỏ này nó lại lộn
ra sau… Pháp-muội tôi đọc kỹ lại một lần nữa, rồi hỏi:
-
- Đại-tỷ viết đoạn này là ý sao, em không hiểu? Rồi Sư-cô giải
thích: đã gọi chủ yếu, tức là nòng cốt của bài, hay của câu
chuyện, thì sao lại có thể lộn được? Vậy Đại-tỷ viết lộn, hay để
lộn?
-
Tôi cười:
-
- Lộn đây, là lộn hồn lộn vía, chứ không phải viết lộn. Thiệt,
tuổi tuy chưa nhiều chi mấy nhưng có lẽ vì bom nguyên-tử thả tứ
tung, nên cứ viết một bài, thì không quên trước cũng quên sau,
không lộn hồn cũng lộn vía, nhưng lỡ rồi biết sao.
-
Pháp-muội tôi không chịu được lối ngụy biện của tôi:
-
- Đại-tỉ nói chướng quá, lộn chi thì còn được, chứ cái chủ yếu
mà để lộn ra sau là vô lý lắm. Ví dụ dọn một mâm cơm, mặc dù có
nem, chả, rau, dưa v.v... nhưng cơm là chủ yếu, thì có ai dọn đồ
ăn mà lại quên cơm bao giờ?
-
- Thế thì Pháp-muội nói, bữa cơm, cơm bổ hay nem, chả bổ?
-
- Nem chả chỉ ăn chơi, cơm mới bổ. Và cơm mới là món ăn chính
thức chứ.
-
- Đúng thế. Và chính vậy mà lộn lại thành không.
-
Bạn muốn biết ai đúng, ai sai, xin hãy đọc kỹ đoạn chủ yếu sau
thì rõ.
-
Thích Nữ THỂ-QUÁN
-
-
Bóng Hạnh Phúc
-
-
Từ ngày Lý thiếu Quân nhuốm bệnh, Hoàng đế Quy-chơn buồn, và lo
sợ lắm. Ngài đã cho triệu nhiều danh y, nhưng mười người thầy
đều nói như một, là bệnh tuy lơ lửng song
khó bề qua khỏi.
-
Chiều nay, khi màn sương xuống, Thái giám lại hoảng hốt vào tâu:
-
- Suốt ngày Lý thiếu Quân đã ngất đi mấy lần. Cứ mỗi cái tin, là
một mũi tên, vô tình, vô hình, nhưng đã xuyên nát tâm can. Tuy
thế, Quân vương vẫn giữ thái độ bình tĩnh:
-
- Tội nghiệp! Đầu xanh tuổi trẻ!
-
Rồi ngài thẩn thờ bước lên “Dạ minh lâu”[2], nơi đây
là chỗ hai chúa tôi đã nhiều lần gặp gỡ. Khi bàn quốc sự, lúc
chuyện tâm tình. Qua những ván cờ không phân cao thấp; những vần
thi bỏ vận tài tình… Chúa phục tôi, tôi mến chúa, nghĩa chúa tôi
mỗi ngày một thêm tình bè bạn. Quân vương đã xem Thiếu Quân là
người tri kỷ. Nhưng than ôi! Giờ còn đâu giây phút ấy!
-
Vua thở dài:
-
- Thiếu Quân là gái có chồng, trẫm là bậc chí tôn. Giữa hai ta
đã bị một bức “Vạn lý trường thành” ngăn cách…
-
Suốt đêm trằn trọc, nhà vua không hề chợp mắt, sáng nay chúa
thượng truyền sửa xe giá cho Đông-cung ra thăm sư phụ[3].
-
Đông cung mới 8 tuổi, nên được vào tận phòng thầy. Thừa lúc
không có ai, theo lời phụ hoàng, Đông cung thơ ngây trao cho
Thiếu Quân một hoàn thuốc:
-
- Phụ hoàng dạy con đem hoàn thuốc này dâng sư phụ xơi.
-
Mắt Thiếu Quân sáng lên, nàng vội đưa tay yếu ớt cầm lấy. Song
khi bóc ra thì không thấy thuốc, mà chỉ vỏn vẹn có bốn chữ “Trẫm
hẹn tái sanh” trong một mảnh giấy xếp nhỏ. Nàng toan bỏ vào
miệng nuốt đi…
-
Nhưng một bàn tay nhẹ nhàng đã đưa ra giữ lấy. Tiếp theo một
giọng êm dịu buồn bã:
-
- Không nên con ạ, vẫn biết kiếp này không gặp thì hẹn kiếp sau,
đấy là thông bệnh của kẻ si tình. Nhưng con ơi! Ái ân lắm, thì
đau khổ nhiều, kiếp sau dầu đúng hẹn, cũng chỉ gặp gỡ vài ba
mươi năm. Đối với thời gian vô cùng, không gian vô tận phỏng có
là bao? Ta rất tiếc cho con, đem trọn đời tài ba phụng sự một
cái không chắc thật!
-
Xưa nay những kẻ chung tình, có ai hẹn sống cùng nhau trọn cả
trăm năm? Lẽ sống của con người! Cái sống của người thông minh,
trí thức, phải là cái sống vĩnh viễn. Thân tứ đại của con dù có
ngày tan rã, nhưng sức sống của tâm linh phải vươn lên bàn bạc
trên sách sử… còn cái sống trong tình lụy là lối sống của người
giàu cảm tình nhưng nghèo lý trí, thì cuối cùng chỉ gặt lấy khổ
đau.
-
Bà ấp hai bàn tay giá lạnh của nàng vào lòng bàn tay mình, như
muốn truyền bao nhiêu sanh lực cho con người tài ba bạc mạng…
nàng nhắm mắt nghiền lại, tay nàng cứ muốn thoát ra khỏi tay bà,
quờ quạng, quờ quạng như để tìm một vật gì đã mất! Nhưng khi
nghe đến câu cuối, nàng mở mắt buồn bã nhìn bà, rồi thở dài lập
lại: “Cuối cùng chỉ gặt lấy khổ đau”… Đây là di mẫu (dì ruột)
của Lý Thiếu Quân. Từ ngày song thân mất đi, bà đã nuôi nàng
ngay khi còn tấm bé.
-
Suốt đêm ấy nàng tỉnh nhiều mặc dù vẫn không ngủ được.
-
Sáng hôm sau, theo lời yêu cầu của bệnh nhân, bà vội vã đi thỉnh
một vị thiền sư và bạch tất cả công chuyện với ngài.
-
Khi thiền sư đến, bà thỉnh ngài vào thẳng phòng bệnh.
-
Đứng trước bệnh nhân, thiền sư rung cây tích trượng, nhìn thẳng
vào mặt nàng. Ngài dõng dạc hỏi:
-
- Như hà thị tình?[4]
-
Nàng mở mắt nhìn Thiền sư rồi buồn bã thưa:
-
- Vô ngôn thị tình.[5]
-
Thiền sư dằn mạnh tích trượng xuống đất đọc luôn bốn câu kệ:
-
Ái hà thiên xích lãng
-
Khổ hải vạn trùng ba
-
Dục thoát luân hồi khổ
-
Cấp cấp niệm di đà.
-
Tạm dịch:
-
Sóng tình cuồn cuộn muôn trùng
-
Dận chìm bao kẻ anh hùng tài ba
-
Phải mau vượt khỏi ái hà
-
Tức tâm[6], niệm Phật thể hòa vô sanh
-
Nghe xong, Thiếu Quân mở to mắt nhìn Thiền sư, nàng hỏi:
-
- Như hà thị đạo?[7]
-
Thiền sư đáp:
-
- Vô ngôn thị đạo.[8]
-
Ngài liền đọc luôn một bài “Bát-nhã tâm kinh”. Khi nghe đến câu:
“Thị chư pháp không tướng”, nàng nhắm mắt, suy nghiệm một lúc,
rồi gật đầu, và ra dấu di-mẫu đỡ dậy chấp tay đảnh lễ Thiền sư.
-
Suốt mấy ngày nay, lúc nào cũng có hai thị tỳ đỡ hai bên, để
nàng ngồi xây mặt về phương tây. Thiếu-Quân nhất tâm niệm Phật,
gạt bỏ tất cả niệm thế gian, chí tâm cầu sinh Tịnh-độ. Cách mấy
hôm sau, khi biết mình không còn sống được. Nàng tỉnh táo cầm
tay di-mẫu nói mấy lời tạ ơn nuôi dạy…
-
Thấy di-mẫu rơm rớm nước mắt, nàng an ủi: Di-mẫu là người hiểu
sâu chánh pháp… chính con nhờ di-mẫu mà tâm hồn hiện giờ được
thảnh thơi, không còn vương vấn gì nữa, mà hơn lúc nào hết, con
vẫn còn làm được việc lợi ích cho nhân loại, vậy sau khi con
chết, di-mẫu cứ làm như thế, như thế…
-
Cái tin Thiếu Quân mất đi, là cả một khối đá đau thương đè trĩu
lên trái tim chúa thượng.
-
Khắp bốn phương trời mây sầu chằng chịt,
cây cỏ cũng ngậm ngùi, như không nói hết nỗi thương đau.
-
Sáng hôm sau, quan Khâm mạng[9] đem chiếu chỉ của vua
ra để tang gia hay, là hoàng đế đặc ân ban cho trọn chốn “Trường
hận khưu”[10] làm nơi mộ địa.
-
Từ phủ Văn hộ giá[11] lên gò “Trường-hận”rất xa.
Khoảng giữa con đường ấy, vua sắc dựng ngay “Vọng cố nhân dài”
gấp để kịp ngày đưa đám.
-
Di mẫu là người hiểu đạo, nên sau khi nàng chết, bà làm y theo
lời dặn. Lúc khâm liệm thay y phục xong, bà đặt nàng nằm nghiêng
bên tay mặt, chung quanh rải hoa tươi. Tang lễ rất đơn giản, chỉ
chọn một trăm đồng nữ, cho học thuộc lòng bài “Bát nhã tâm
kinh”. Lúc đưa đám các em đồng nữ y phục toàn sắc trắng, cầm hoa
tươi đi chung quanh linh cữu. Quan tài sơn trắng, viết trọn bài
“Bát nhã” chữ vàng. Trên nắp quan tài năm chữ “Thị chư pháp
không tướng” lồ lộ, như để người phải chú ý.
-
Vọng cố nhân đài cất xong, là ngày cử hành đám tang quan Văn hộ
giá.
-
Một ngày trời âm u, sắc thái đau thương như nhuộm khắp ngàn cây
nội cỏ.
-
Cả triều đình mặc lễ phục tang theo sau quan tài. Tiếp đến là
thân bằng quyến thuộc. Người mến đức, kẻ trọng tài, người khen
chí khí, kẻ khen chí tình. Không ai là không mến tiếc, con người
tài ba bạc mạng đáng thương.
-
Quân vương mặc thường phục, mắt mang kính đen. Ngài đứng trên
bao lơn của “Vọng cố nhân đài” buồn bã đợi chờ…
-
Khi đám người áo trắng ẩn hiện xa xa, quân vương đã mấy lần cất
kính ra lau mồ hôi mặc dầu trời không nóng…
-
Đám tang từ từ tiến đến, và dừng hẳn trước đài, vì nơi đây chúa
thượng sẽ làm lễ “Tứ tửu”[12] gọi là lễ thưởng một vị
lương thần đã từng cộng tác với quân vương đắc lực.
-
Trước linh cữu, một bàn hương án, đèn
sáng hoa tươi, hương trầm nghi ngút.
-
Thái giám dâng lên quan Khâm mạng một bộ khay chén ngọc và một
bầu rượu bằng lưu ly.
-
Quan Khâm mạng rót rượu vào chén ngọc xong, Thái giám trịnh
trọng đặt lên hương án.
-
Theo lệ thì một tuần rượu lại có một bản nhạc điếu. Nhưng đây
thay vào, cứ một tuần tứ tửu thì trăm em đồng nữ tụng một bài
“Bát nhã tâm kinh”.
-
Quân vương đứng trên đài nhìn xuống, ngậm ngùi than nho nhỏ:
-
Thiên trường địa cửu hữu thời tận.
-
Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ[13]
-
Bỗng một tràng âm thanh trông như pha lê vang dội giữa không
trung:
“…Chiếu
kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thế khổ ách… sắc bất dị không…
sắc tức thị không… thị chư pháp không tướng…[14]”
-
Lời kinh thánh thót rõ ràng như len lỏi vào tâm hồn người nghe.
-
Bất giác quân vương cất cặp kính đen, nhìn xuống…
-
Thì năm chữ “Thị chư pháp không tướng” nằm tự tại trên nắp quan
tài, đã lặng lẽ giác tỉnh quân vương. Mắt vua sáng lên…
-
Thái-giám lại trịnh trọng đặt lên hương án tuần rượu cuối cùng.
Quân vương thở dài. Ngài đọc thêm hai câu:
-
Thế giới như không hoa[15]
-
Nhân sanh như mộng huyễn.
-
Ôi! Nhân sanh vũ trụ còn là mộng huyễn thay, huống chi hạnh
phúc? Hừ “Bóng hạnh phúc” hạnh phúc chỉ là bóng trong gương,
trăng dưới nước!
-
Thôi! Trẫm cảm ơn tri kỷ, và nguyện không dám phụ lòng cố
nhân!...
-
Xong cuộc lễ “Tứ tửu”, người ta lặng lẽ đưa
linh cữu đi. Đám tang xa lần, xa lần, nhưng thỉnh thoảng âm
thanh còn vọng lại… sắc tức thị không… thị chư pháp không tướng…
-
Quân vương đứng tựa bao lơn nhìn theo cho đến khi mắt không còn
thấy, và tai không còn nghe…
-
Rồi ngược dòng tư tưởng, cả một cuốn phim tuần tự diễn rõ trong
tâm tư chúa thượng:
-
“Khoa thi năm ấy, có chàng Bạch-Diện Thư-sanh[16]
chiếm giải trạng nguyên.”
-
Buổi yến thưởng tân khoa và đồng thời ban áo mão tại “Phụng nghi
điện” là buổi gặp mặt đầu tiên. Quân vương, một vị thiếu niên
anh tuấn, lại là người biết trọng nhân tài, đã trao tận tay tân
khoa viên ngọc ấn và thanh bửu kiếm với mấy lời khích lệ ân cần.
Nhưng chúa thượng không khỏi ngạc nhiên trước sắc đẹp lộng lẫy
trên tấm thân nam tử?
-
Và khi tân khoa quỳ lãnh bảo vật, vua nhìn kỹ đầu mày cuối mắt,
nhất là hai cánh tay tân khoa, đấy phải là đôi cánh tay của một
thiên kim tiểu thư trong khuê các.
-
Ồ sao lại có người nam tử đẹp đến thế? Rồi yêu vì sắc, trọng vì
tài, chúa thượng phong cho tân khoa làm Văn hộ giá, kiêm chức
Phụ đạo[17].
-
Lý Thiếu Quân và Chúa thượng, vua, tôi, tuổi tác suýt soát ngang
nhau. Trong những buổi luận đàm quốc sự, Thiếu-Quân tỏ ra người
tài ba lỗi lạc, chàng vạch nhiều kế hoạch chỉnh lý chánh trị và
phụng sự nhân sanh rất hiệp ý vua.
-
Nhưng bốn năm trời qua đi chóng quá.
-
Lại một khoa thì khác, một thanh niên nữa đoạt giải trạng
nguyên.
-
Khi quan giám khảo vào phòng ngự trình danh sách của quan trạng
mới, chúa thượng rất đỗi ngạc nhiên. Vì sao, tên họ và quê quán
của tân trạng nguyên lại giống hệt Văn hộ giá? Cũng họ Lý tên
Thiếu-Quân, cũng làng Mỗ huyện Mỗ…
-
Quân-vương quay nhìn Lý Thiếu-Quân…
-
Bỗng chàng tái mặt, toàn thân toát mồ hôi. Vua hoảng hốt đứng
dậy toan đỡ ngồi xuống cẩm đôn.
-
Nhưng chàng gỡ nhẹ tay vua:
-
-Tâu, hạ thần lâu nay vẫn có chứng “huyễn vựng”[18],
thỉnh thoảng lại bị như vậy, nhưng không sao.
-
Rồi chàng xin cáo từ trong lúc còn loạng choạng, cái tính quả
quyết của Thiếu Quân, chúa thượng thường hiểu, nên ngài không
lưu lại, chỉ truyền hai tên Thị-vệ đưa chàng ra tận kiệu.
-
Ba hôm sau, đức vua nhận được một phiếu sở đại ý: “Lý Thiếu-Quân
là gái, song thân nàng đã chỉ phúc giao hôn[19] với
người bạn đồng liêu họ Lý. Gia đình nàng thọ ân họ Lý rất nhiều.
Song bỗng nhiên Ly-Gia bị nhiều tai nạn kế tiếp, rồi ly tán
phương xa, trên 15 năm trời không tin tức.
-
“ Khi nàng 7 tuổi thì phụ thân mất, cách 5 năm sau thân mẫu bệnh
nặng. Lúc sắp lâm chung mẹ nàng gởi gắm nàng cho di mẫu và giao
lại chiếc kim-thoa là vật hôn ước của họ Lý. Bà dặn dò di mẫu
xong thì từ trần. Nhờ di mẫu săn sóc châu đáo, nàng xin cải nam
trang quyết chí học hành, rồi vào kinh thi, mong được gặp Lý
Công-tử. Khi ra ứng thí, nàng lấy cả tên họ và quê quán của vị
hôn phu”…
-
Từ khi thi đậu, làm Văn hộ giá và kiêm dạy Đông-cung, nàng đã
tận tâm giúp vua trong công việc trị nước, và hết lòng nhân-ái
đối với quần chúng nên ai cũng mến thương.
-
Nhưng một mối ân tình của nhà họ Lý, vẫn còn canh cánh bên lòng,
mặc dù nàng và Lý Công-Tử hai bên chưa hề biết mặt nhau.
-
Thế mà hôm nay khi biết được Lý Công-Tử là tân Trạng nguyên của
khoa thi này, thì nàng cảm thấy trời đất xoay như chong chóng.
Trong tâm tư dường như có một cái gì đang sụp đổ…
-
Dù sao nàng cũng phải vâng lời di mẫu để về nhà họ Lý một ngày
gần đây.
-
Cảnh tượng ấy còn rõ ràng trong ký ức Quân-vương, vì cách đây
mới vài ba tháng. Ngài còn nhớ khi đọc xong phiến sớ, lòng mình
cũng thấy trời đất như nghiêng ngửa.
-
Nhưng biết làm sao? Nàng nay là gái có chồng, trẫm là bậc chí
tôn. Những sự chướng duyên cay nghiệt ấy, nếu không có một sức
mạnh của người quân tử thì thật dễ dàng vượt qua lễ giáo.
-
Thiên tử tuy ngự trị cả muôn dân còn dễ, mà ngự trị cõi lòng
thật là một việc khó khăn.
-
Suốt mấy tháng nay, những quân tướng yêu đương, nhung nhớ, đang
kịch liệt phá rối cuộc trị an trong lòng chúa thượng…
-
Nhưng ngài đã thắng được, mặc dù tâm tư nức rạng tơi bời.
-
Lúc tiếp được phiến sớ của nàng độ tuần nhựt, thì Quân-vương
lặng lẽ tặng nàng một đôi vòng minh châu đựng trong hộp ngọc,
với mấy hàng vắn tắt:
-
“Trẫm tặng tri kỷ đôi minh châu, hân hạnh được nằm trên tay
tân-nhân khi bước lên kiệu hoa”.
-
Song nàng trả lại,với mấy vần thi:
-
Quân tri thiếp hữu phu
-
Tặng thiếp song minh chu
-
Hoàn quân minh chu song lệ thùy
-
Hận bất tương phùng vị giá thì.
-
Tạm dịch:
-
Quân vương biết thiếp có chồng
-
Còn đem cho thiếp đôi vòng ấy, chi?
-
Giận người, giọt lệ lâm ly
-
Hận rằng chẳng gặp nhau khi chưa chồng![20]
-
Một phiến sớ, một bài thi, quân vương cất kỹ bên mình. Hôm nay
ngày sầu vô tận, lại là ngày giải thoát vô biên…
-
Chúa thượng lấy ra hai mảnh giấy nhàu nát rồi quẹt diêm đưa vào
lửa… nhìn những mảnh tro tàn bay nhẹ lửng lơ, lơ lửng giữa hư
không, cho đến khi tan biến…Vua đăm chiêu,
chậm rãi:
-
“Thị chư pháp không tướng”…
-
Thiếu Quân mất đi, nhà vua đã tìm quên trong công việc, và thừa
theo chí nguyện cố nhân, ngài đã tìm nhiều phương pháp để giữ
gìn đất nước và phụng sự nhân sanh. Tuy nước yên, dân an, mà tâm
trí vua ổn định. Hình bóng người thiên cổ vẫn còn in đậm nét
trong lòng.
-
Nhưng khuya nay, khi tiếng chuông chùa Giác-hoàng vọng lại,
Quân-vương sực tỉnh. Bỗng nhiên như ngài đã tìm ra một con đường
sống mới…
-
“ Vọng cố nhân đài” nay đã biến thành QUÁN ÂM BỬU ĐIỆN, nghiêm
lệ huy hoàng.
-
Quân-vương chí tâm chú một pho tượng Bồ tát Quán-Thế-Âm bằng
vàng, tôn thờ tại đấy. Những ngày trai tiết vua thường ngự lễ
Phật và thọ trì “Bát nhã tâm kinh”. Mỗi khi xong một thời khóa
lễ, vua thường quỳ lâu trước bửu điện, như một em bé ngoan quỳ
dưới gối từ-mẫu khi biết mình có tội.
-
Và ta hãy nghe đây, những lời của hoàng-đế Quy-chơn đã thiết tha
bạch lên với Bồ-tát:
-
“…Đệ tử cũng như vô số nhân loại, với cái tuổi hoa niên, vì
cuồng vọng đuổi theo bóng hạnh phúc. Thật không khác một em bé
thơ ngây chụp những bong bóng trên mặt nước, say sưa mà quên đi,
hay không biết gì đến nguy hại…
-
Song đệ tử may nhờ phước duyên nhiều kiếp, nên gặp được thiện
tri thức, đã tìm phương tiện nâng đỡ con qua khỏi hầm hố mê mờ
tội lỗi, để bước lên con đường giải thoát an vui.
-
Vậy để đền ơn tri ngộ, và báo thâm ân chư Phật, đệ tử nguyện đem
tấm thân như huyễn này, để phụng sự chánh pháp của Như-lai, bằng
cách làm lợi ích muôn loại và nâng đỡ trăm họ. Mặc dầu trên
đường hành đạo có phải hi sinh tiền tài hay thân mạng, đệ tử
cũng không từ”.
-
Mấy năm tắm trong lòng biển pháp. Giọt nước cành dương của
Bồ-tát đã làm lạt đi nhiều trạng thái nhớ nhung.
-
Hôm nay, một sáng tinh sương. Khi vua thọ trì kinh xong, thì ánh
dương quang vừa chiếu vào bửu điện. Năm chữ “Thị chư pháp không
tướng” bằng pha lê lồ lộ, dựng trên bức hoành phi vàng chói,
treo sau tượng Bồ-tát, như ấn mạnh vào tâm khảm Quân-vương, tâm
hồn người bỗng nhiên thanh thoát nhẹ nhàng, như đã bức phăng đi
hết những gì vương vấn lâu nay.
-
Phải chăng mặt trời trí tuệ đã giúp vua trực nhận được “Thật
tướng bát nhã”
-
“Bóng hạnh phúc” ngang đây là hết. Nhưng “chủ yếu” của tập sách
nhỏ này, nó lại lộn ra sau. Đấy là cái bệnh lẩn thẩn của
tác-giả. Vậy trước hết, tôi xin lỗi quí bạn, và rất mong quí bạn
hãy đọc kỹ đoạn chủ yếu sau đây:
-
-
MA HA BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
-
Quán tự tại Bồ tát hành thâm bát nhã ba la mật đa thời chiếu
kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thế khổ ách.
-
Xá lợi tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc ; sắc tức thị
không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức diệc phục như thị,
xá lợi tử thị chư pháp không tướng bất sanh, bất diệt,
bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô
sắc, vô thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỹ thiệt thân ý, vô sắc
thanh hương vị xúc pháp, vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới,
vô-vô minh, diệc vô vô minh tận ; nãi chí vô lão tử, diệc vô lão
tử tận, vô khổ, tập, diệc, đạo, vô trí vô, diệc vô đắc. Dĩ vô sở
đắc cố, bồ đề tát đỏa y bát nhã ba ba la mật đa cố, tâm vô quái
ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng
tưởng, cứu cánh niết bàn. Tam thế chư Phật y bát nhã ba la mật
đa, đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Cố tri bát nhã ba la mật
đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị
vô đẳng đẳng chú : năng trừ nhất thế khổ chơn thật, bất hư. Cố
thuyết bát nhã ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết : yết đế,
yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
-
-
-
Chủ yếu của tập sách nhỏ này nói về Bát-nhã tâm kinh, nói đủ là
Ma-ha-bát-nhã Ba-la-mật-đa tâm kinh, một phẩm kinh mà tất cả
hàng Phật-tử ai cũng biết, nhất là từ khi dịch ra quốc văn và in
thành nghi thức tụng niệm, thì những Phật-tử trí thức, bình dân,
ở thôn quê cũng như thành thị, trên núi non, ngoài biển dã
v.v... không ai là không học tụng.
-
Chẳng những hàng Phật-tử Việt-Nam, mà tất cả Phật-tử trên thế
giới, nước nào cũng dịch thành quốc văn để trị tụng hằng ngày.
-
Tại sao thế ? Một lẽ rất dễ hiểu, vì Bát-nhã tâm kinh là một
phẩm kinh rất ngắn, dễ học, dễ tụng, mà lại có công năng vô cùng
mãnh liệt.
-
Bạn hãy đọc nghĩa của nó ở đoạn này :
-
Bát-nhã :
trong các kinh nói thì có đến sáu nghĩa là :
-
Thanh tịnh (kinh Đại-phẩm)
-
Viễn ly (kinh Phóng-quang)
-
Minh (kinh Lục-độ)
-
Tuệ (nhiều kinh)
-
Trí (nhiều kinh)
-
Trí tuệ (nhiều kinh)
-
Ta xem sáu nghĩa trên thì biết hai chữ Bát-nhã ý nghĩa rộng lớn
vô cùng. Nhưng nghĩa thứ sáu là trí tuệ thí có phần xác đáng hơn
hết.
-
Ba la mật đa:
Tàu dịch là « đáo bỉ ngạn » nghĩa là sau khi đã dùng trí Bát-nhã
triệt để phá trừ chấp ngã chấp, pháp chấp, đoạn sạch phiền não
chướng ; đồng thời tu tập vô lượng phước đức và
phát triển vô lượng trí tuệ, thì chứng đại
niết bàn, đại bồ đề, gọi là Bát- nhã ba la mật (trí tuệ cứu
cánh).
-
Tâm:
Chữ tâm ở đây có nghĩa là « tích tập ». Bao nhiêu ý nghĩa tinh
vi của thời Bát-nhã, đức Phật thuyết cho các vị đại Bồ-tát nghe
trên 20 năm, đều kết tập trong bản kinh này.
-
Kinh:
dịch : Khế lý, khế cơ, nghĩa là giáo lý đức phật dạy ra thường
hợp với chơn- lý và căn cơ của chúng sanh.
-
Như thế « Bát- nhã ba la mật đa tâm kinh » là tinh yếu của toàn
bộ kinh đại Bát-nhã gồm có 600 cuốn mà cũng là tôn-chỉ của đạo
Phật vậy.
-
Lai lịch sử du học Ấn-Độ của Ngài Huyền-Trang có chép: Lúc Ngài
qua Tây-Vức cầu tai nạn, mà tai nạn đáng kể nhất là lúc bị nạn
giữa bãi sa mạc. Ngài chiêm bao thấy một vị Thánh tăng đến cho
một phẩm kinh Bát-nhã và bảo Ngài tụng. Trong lúc nguy cấp Ngài
chí thành tụng liên tiếp, nhờ vậy mà thoát khỏi tai nạn và đạt
được một đích.
-
Sau khi về nước, Ngài liền dịch bản kinh này ra quốc văn (dịch
chữ Phạn ra chữ Trung Hoa).
-
Do đó chúng ta thấy kinh « Bát-nhã » ngoài diệu dụng phát sanh
trí huệ, diệt trừ phiền não ; lại còn có năng lực mãnh liệt, là
hàng phục ma chướng và trừ tai nạn rất công hiệu.
-
Như vậy kinh yếu của bộ Đại Bát-nhã 600
cuốn chỉ nằm gọn trong một bài « Bát-nhã tâm kinh ».
-
Bài Bát-nhã tâm kinh 270 chữ, nhưng trong đó thì cốt yếu lại chỉ
có 16 chữ mà thôi. Nay đem 16 chữ này chia ra làm ba thứ
Bát-nhã, thì sáu chữ « chiếu kiến ngũ uẩn giai không » thuộc về
« Quán chiếu Bát- nhã » năm chữ « Độ nhất thế khổ ách » thuộc
« Phương tiện Bát- nhã » ; và năm chữ « Thị chư pháp không
tướng » thuộc « Thật tướng Bát- nhã ».
-
1/ Quán chiếu Bát- nhã: Nghĩa là Bồ- tát đem trí tuệ (Bát-nhã)
quán sát, biết rõ ngũ uẩn[21] không thật. Chẳng những
phân tích nhân sanh, vũ trụ là không mà ngũ uẩn là những nguyên
liệu cấu tạo ra nó (nhân sanh vũ trụ) cũng không thật có: Duyên
sanh vô tánh (do nhân duyên hòa hiệp mà sanh, nên không có thật
thể)
-
2/ Phương tiện Bát-nhã: Nghĩa là Bồ-tát dùng trí tuệ (Bát-nhã )
quán sát, biết rõ nhân sanh vũ trụ là không (như huyễn), nhưng
vì vô minh nghiệp lực, nên mới hình thành ra muôn vật « vô tánh
duyên sanh » (tuy không có thật thể, song nó tùy nhân duyên mà
hình thành muôn vật).
-
Nhân sanh vũ trụ đã do nhân duyên nghiệp lực mà có ra, rồi cũng
do nhân duyên nghiệp lực mà chịu đau khổ, quay cuồng trong lục
đạo. Bồ tát tuy biết chúng sanh là huyễn hữu, nhưng vẫn hòa mình
vào trong lục đạo tìm tất cả phương tiện để cứu độ,cũng như hai
người trong đêm, một người thức, một người ngủ say, người thức
nghe người ngủ say kêu ú ớ, tuy biết họ chiêm bao, nhưng vẫn có
bổn phận thức bạn dậy.
-
Vì thế rất khác nhau với Nhị thừa, Bồ-tát phát Bồ đề tâm[22]
len lỏi vào mọi tầng lớp, mọi loài chúng sanh,để cứu khổ cứu nạn
cho tất cả, cuối cùng đưa chúng sanh lên bờ giải thoát.
-
3/ Thật tướng Bát-nhã: Thật tướng Bát-nhã là chơn không. Nếu xét
theo tính cách không gian thì các pháp là « vô ngã », nghĩa
là phân tích riêng từng bộ phận, thì dầu không phải người ; tay
chân, tách rời thân thể cũng không phải người.
-
Và xét theo tính cách thời gian, thì các pháp là « vô thường »,
nghĩa là lúc mới sanh ra tên Thúi tên Hôi, lúc lớn lên lại thành
Phương Mai, Mai Phương v...v... cho đến khi trẻ, khi già... từ
lúc trắng răng đến thuở bạc đầu, biến chuyển nhiều giai đoạn.
Tâm niệm thì khi buồn, khi vui, lúc thương, lúc giận, trẻ thì
vui vẻ săn đón, già thì lụm khụm chậm chạp v...v... Nhân sanh đã
thế thì vũ trụ cũng vậy: Ruộng dâu hóa thành bãi biển. Các thế
giới đều nằm trong định luật thành, trú hoại không. Thật không
vật gì đã có hình tướng mà không bị vô thường biến chuyển.
-
Như thế ta cũng thấy tất cả sự hình thành giữa hoàn vũ này, đều
là huyễn hữu[23]
-
Vì vậy người Phật tử phải tu học và trì tụng Bát-nhã, để phá trừ
lần lần các tướng giả dối (huyễn hữu) để chứng lý chơn không
(thật tướng Bát nhã).
-
Có Bát-nhã mới phát triển đại trí, khởi đại hạnh, và thành đại
nguyện.
-
Bát nhã là một pháp cần yếu nhất cho tất cả Phật tử. Chẳng những
vậy, mà chính đức Phật và các vị Bồ tát cũng đều phải tu học
Bát-nhã mới thành tựu quả vị vô thượng trí giác.
-
Nhưng điểm chính là ở chỗ học và hành phải ăn khớp nhau, dù chưa
được khít khao, thì ít nhất cũng không đến nỗi, nói một nơi làm
một ngã.
-
Bạn hãy đọc nốt câu chuyện một người tụng « Bát-nhã » dưới đây :
-
Hòa thượng Phật-Ấn[24] là bạn thân của ông
Tô-Đông-Pha[25] . Ông rất quí trọng Ngài và tôn Ngài
là bậc thầy.
-
Một hôm ông đến xin Ngài một phương pháp để tu hành. Ngài trao
cho ông một phẩm kinh Bát-nhã và dạy: Thừa tướng « Nhất nhật
vạn cơ » [26]chỉ thọ trì một phẩm kinh này cũng đủ.
-
Ít lâu ông qua bạch với Ngài :
-
Đệ tử xin phép Hòa -thượng cưới thêm một cô Mười nữa, cho chẵn
chục ( ông đã có chín vợ )
-
Lúc sắp đưa dâu về, Hòa thượng cho đạo đồng[27] đưa
thư qua phủ Thừa tướng mượn cô Mười ít hôm.
-
Thiệt là một vấn đề rắc rối, nhưng biết sao được ? Khi trống kèn
inh ỏi, quân lính khiêng kiệu cô Mười về tới cổng phủ, thì
Tô-Đông-Pha cho người ra bảo: « Đưa thẳng cô dâu qua chùa
Diệu-Giác cho Hòa thượng mượn ».
-
Cô dâu ngồi trên kiệu hoa nghe, thất kinh hồn vía, cô khóc tức
tưởi: cũng tưởng đâu một bước, bước lên địa vị cô lớn, ai ngờ
đâu ra nông nổi như vầy? Nhưng không lẽ vùng mà chạy trốn?
-
Khi kiệu hoa đến cổng tam quan, đạo đồng đã đứng chực để chỉ
đường đưa dâu thẳng vào liêu Hòa-thượng.
-
Cô dâu sợ hãi bước vào. Thấy giường nệm sẵn sàng, cô liền nằm
dụi xuống, khóc nức nở.
-
Mãi đến khuya khi nghe tiếng động, cô Mười mở hé hé mắt ra dòm,
thì thấy Hòa -thượng đi vào...Nhưng lạ thay, ngài không đi giữa
đất, mà lại bước ngay trên những lò lửa đỏ rực xung quanh
giường, không biết ai đã để bao giờ. Ngài bước qua bước lại trên
10 lò lửa lớn cho đến sáng.
-
Đạo-đồng lại qua tin Thừa tướng, để cho người tới gánh cô Mười
về.
-
Ra khỏi cổng chùa, cô Mười hú hồn hú vía, rồi về đem chuyện kể
cho Tô-Đông-Pha nghe.
-
Ông buồn bã bảo:
-
- Hòa thượng giác tỉnh cho ta đấy. Ta bị phú quý nên sanh phóng
dật, mười lò lửa chính là ám chỉ mười người thiếp của ta. Và
ngài đi trên lửa như vậy, để tỏ ra ngài đã được sự tại không bị
lửa dục nung đốt, còn ta thì lại sa ngã vào, thật đáng thương!
-
Sau việc cho mượn vợ được ít hôm, ông lại qua thăm Hòa-thượng.
Trong lúc đàm đạo, vui miệng ông khoe:
-
- Đệ tử nhờ Hòa-thượng dạy cho tụng trì « bát-nhã tâm kinh »
nên nay dù « bát phong »[28] xuy, cũng không động.
-
Ngài Phật-Ấn không đáp, lại « xì » một tiếng dài.
-
Tô-Đông-Pha đỏ mặt.
-
Hòa-thượng Phật-Ấn cười :
-
- Gió tám ngã ùa vào mà Thừa-Tướng không nao núng. Bần đạo mới
phe phẩy một chút, Thừa-Tướng đã rung rinh. Như thế Thừa-Tướng
chỉ đọc Bát-nhã, chứ chưa phải thâm biểu lý Bát-nhã. cho nên chỉ
làm được chuyện to tát[29], mà chưa làm được việc lặt
vặt[30].
-
Câu chuyện trên đây Hòa-Thượng Phật-Ấn chỉ rõ cái bệnh của ông
Tô-Đông-Pha, nhưng cũng để nói chung thông bệnh của chúng sanh.
-
Thật thế, có những chuyện to lớn như bỏ hàng triệu ra lập viện
tế bần chẳng hạn ta có thể làm được, nhưng đôi khi một vài việc
cỏn con như cho người lỡ làng chục bạc thì ta lại không làm. Có
những trường hợp rất khó nhẫn, người ta vẫn nhẫn được, mà chỉ
một vài tiếng xì xà thì lại nổi xung.
-
Ở đây Ngài Phật-Ấn quở ông Tô-Đông-Pha. Nhưng đã cho ta phân
biệt, ý nghĩa đọc kinh, và hiểu kinh khác nhau rất xa.
-
Quả vậy, nếu thâm hiểu được thật tướng « bát-nhã » là chơn
không; không sanh, không diệt, không sạch, không dơ v.v... thì
đại sự cũng chơn không, tiểu tiết cũng chơn không. Nếu biết được
như thế thì tâm không còn bị tham sân si làm chướng ngại, và
cũng không có gì đáng lo sợ khủng khiếp...
-
Bởi vậy, từ nghìn xưa, cũng như hiện nay, có những đoàn Phật-tử,
họ đã coi nhẹ thân mạng, công danh, tài sản v.v... trong lúc ra
phận sự chánh pháp và phục vụ nhân sanh. Những đoàn người « tử
tâm vì đạo » ấy. Chính là những bậc đã thể nhận được thật tướng
« bát-nhã » vậy.
-
Thích Nữ Thể Quán
-
-
[1]
Xuyên ly thông: chui hàng rào.
-
[2]
Dạ minh lâu: tên một tòa lầu cao đẹp.
-
[3]
Sư phụ: Lý thiếu Quân là thầy của Đông cung, con trai vua.
-
[4]
Thế nào là tình?
-
[5]
Không nói mới thật chí tình
-
[6]
Tức tâm: dứt bỏ hết các tâm niệm: giận, hờn, thương, ghét v.v...
-
[7]
Thế nào gọi là đạo?
-
[8]
Không nói là đạo. (Chỗ chí đạo, không thể đem lời nói phô mà
diễn đạt ra được)
-
[9]
Khâm mạng: là người lãnh ý của nhà vua để truyền lại.
-
[10]
Trường hận khưu: cái gò tên trường hận
-
[11]
Phủ Văn hộ giá: chức quan của Lý Thiếu Quân, phủ: chỗ ở của
Thiếu-quân.
-
[12]
Tứ tửu: Vua ban rượu.
-
[13]
Thiên trường địa cửu hữu thời tận... của Vua Đường-Minh Hoàng,
than khi Dương Quý-Phi chết. Đại ý: trời cao đất dày 2 thứ vĩnh
viễn cũng có ngày tan rãbiến hoại nhưng một mối sầu hận này, dây
dưa vương vấn mãi trong lòng, thật không biết ngày nào dứt được.
-
[14]
Thị chư pháp không tướng: tất cả các pháp đã có hình tướng, đều
là giả dối cả.
-
[15]
Thế-giới lăng xăng như hoa đốm giữa hư không, nhân vật ỡm ờ như
chuyện mơ trong cảnh mộng, và hư huyễn như trước mắt nhà huyễn
thuật.
-
[16]
Bạch diện thư sanh: người con trai mặt đẹp
-
[17]
Phụ đạo: Thầy dạy Đông -Cung
-
[18]
Huyễn Vựng: Xây xẩm mặt mày
-
[19]
Hai bà mẹ có thai kết thân với nhau, hẹn sau nếu đồng sanh trai
thì kết bạn, hay bên gái bên trai thì kết sui
-
[20]
Hai bài thi này tôi không nhớ xuất xứ ở đâu. Nay tôi mượn tạm
vào đây. Vậy tình cờ tập sách này qua mắt tác giả, xin hoan hỷ
cho, đa tạ.
-
[21]
Ngũ uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành , thức.
-
[22]
Phát bồ đề tâm: Phát cái tâm trên cầu giáo pháp của Phật để tu
học thêm; dưới thì đem tâm từ bi cứu độ tất cả chúng sanh.
-
[23]
Huyễn hữu: Có mà như nhân vật trên sân khấu của nhà huyễn thuật
-
[24]
Hòa-thượng Phật-Ấn: Một vị cao tăng đời Tống, có tài hùng biện
nên chiết phục được Tô-Đông-Pha. Ngoài tuy hiện tướng Tỳ kheo,
nhưng trong ẩn hạnh Bồ-tát. Thường thân cận chỗ tướng môn để
cảnh tỉnh khách tài ba phong vận
-
[25]
Tô-Đông-Pha tức Tô-Thức đời Tống, là một bậc phong lưu phú quý
đương thời, làm quan đến chức tể tướng
-
[26]
Nhất nhật vạn cơ: Một ngày muôn mối lo, ngàn việc bận
-
[27]
Đạo đồng: Ông điệu nhỏ mới vào chùa
-
[28]
Bát phong xuy bất động: Gió tám ngã thổi cũng không lay động.
Tám thứ gió: danh, lợi, khen, chê, thạnh, buồn, vui. Ý nói dù
danh lợi, khen chê, đắc thất, khổ vui...cũng không làm cho tâm
hồn xao động
-
[29]
Chuyện to tát: cho mượn vợ
-
[30]
Việc lặt vặt: nghe xì một cái mà nổi xung
--o0o--
|
|