|
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
-
Về
Những Minh Họa Từ
-
THIỀN UYỂN TẬP ANH
-
Tuệ Sỹ
-
--o0o--
-
-
Kể từ khi được Ông Trần văn Giáp tình cờ phát hiện từ đống giấy
vụn của một gánh hàng vụn phế thải, sau đó được công bố bởi trường
Viễn đông Bác cổ,[1]
Thiền uyển tập anh trở thành tư liệu cơ sở cho các khảo cứu về
lịch sử Phật giáo Việt nam từ khởi nguyên cho đến thế kỷ 13, cũng
như các sinh hoạt chính trị, xã hội, tôn giáo nước ta trong suốt
thời gian Bắc thuộc. Công trình của ông Trần Văn Giáp dựa trên tập
sử Thiền này được thực hiện khá công phu, nhưng do thiếu nhiều tư
liệu tham khảo, đối chiếu để xử lý văn bản, do đó ông đã không
tránh khỏi một số sai lầm. Những sai lầm ấy được lặp lại trong hầu
hết các quyển sử Phật giáo Việt nam tiếp theo sau ông.
-
Trong năm 1973, Lê Mạnh Thát trong khi đi sưu khảo các tự viện ở
miền Nam đã phát hiện thêm các dị bản của Thiền uyển tập anh.[2]
Y cứ trên các phát hiện mới, công tác xử lý văn bản được thực hiện
với rất nhiều tư liệu liên hệ trong nền văn hiến đồ sộ của Phật
giáo Trung quốc, cũng như trong kho tàng lịch sử Viêt nam, từ dã
sử đến chính sử, những truyền kỳ. Một bản dịch tương đối hoàn
chỉnh của Thiền uyển tập anh được công bố, cung cấp nhiều dữ liệu
quan trọng khả dĩ bổ sung, và đồng thời cải chính, những điều được
ghi chép bởi các chính sử của Việt nam mà các tác giả của chúng
phần lớn dựa trên những thông tin đầy thành kiến và xuyên tạc của
sử liệu Trung quốc đối với sự hình thành ý thức dân tộc cũng như
sự phát triển chính trị xã hội của nước ta. Bản dịch san định do
Lê Mạnh Thát thực hiện này nhanh chóng trở thành văn bản cơ sở cho
nhiều khảo cứu lịch sử theo sau nó. Một bản dịch Anh ngữ cũng đã
được thực hiện bởi Cuong Tu Nguyên, Zen in Medieval Vietnam. A
Study and translation of the Thiền Uyển Tập Anh, xuất bản năm
1997, bởi ban tu thư Viện Đại học Hawaii. Công trình nghiên cứu và
dịch thuật này cũng thường xuyên tham chiếu bản dịch của Lê Mạnh
Thát, như nhận xét của Giáo sư Philippe Langlet, trong phần thư
mục của bản dịch Pháp mà chúng ta đang được giới thiệu hôm nay.[3]
-
Thiền uyển tập anh theo thể loại là một tác phẩm thiền sử. Về hình
thức, nó tương tợ cách viết Cảnh đức Truyền đăng lục của Đạo
Nguyên (Tống, 1004). Thế nhưng, Truyền đăng lục của Đạo Nguyên
thuần túy là một thiền sử, ký tải sự phát triển của Thiền tông từ
khởi thủy của Phật giáo; trong khi đó Thiền uyển tập anh ngoài sự
ký tải các truyền thừa và phát triển các dòng thiền Việt nam, nó
còn phản ánh khá rõ nét bối cảnh xã hội Việt nam mà trường độ thời
gian kéo dài trên dưới mười thế kỷ. Bài kệ thị tịch của Khuông
Việt (930-1011) sau đây có thể cho chúng ta thấy khá rõ nét về
điều này. Trước khi chết, Sư truyền kệ lại cho Đa Bảo rằng:
-
Mộc trung nguyên hữu hỏa,
-
Hữu hỏa hỏa hoàn sanh.
-
Nhược vị mộc vô hỏa,
-
Toản toại hà do manh.[4]
-
Bản dịch Pháp của Philippe Langlet:
-
A l’origine, le feu est dans le bois,
-
Le feu originel renaît sans cesse.
-
S’il n’y a pas de feu dans le bois,
-
Comment pourrait-on en faire jaillir en le frottant?
-
-
Tranh minh họa: Mộc trung nguyên hữu hỏa…
-
-
Rõ ràng đây là một bài thơ ngắn mang ẩn dụ siêu hình. Nhưng nếu
chúng ta nhìn nó từ vị trí lịch sử của Khuông Việt trong liên hệ
với các thế hệ đi trước kể từ Định Không trưởng lão (730-808); với
các Thiền sư đồng thời như Pháp Thuận (925-990), cũng như thế hệ
tiếp nối theo sau là Vạn Hạnh (?-1025), ngoài lớp vỏ tư duy siêu
hình, bài thơ cho thấy sự tiếp nối dòng chảy liên tục và trưởng
thành của ý thức dân tộc và một Nhà nước tự chủ.[5]
Nó mang nội dung gần như đồng nhất với các dự ngôn hay sấm ký của
Pháp Thuận và Vạn Hạnh về sự xuất hiện của một nhân vật mà, qua dự
ngôn của Pháp Thuận,
-
Vô vi cư điện các,
-
Xứ xứ tức đao binh.[6]
-
Theo đó, một thời thịnh trị sẽ đến với đất nước sau nhiều thế kỷ
bị đô hộ và nô dịch.
-
Trong phần tiểu sử tác giả, Philippe Langlet không bỏ sót một chi
tiết trong cuộc đời của Khuông Việt, mặc dù theo một cách nhìn đó
chỉ là một câu chuyện hoang đường có vẻ không giúp gì cho sự lãnh
hội bài thơ được dẫn dịch của Giáo sư Philippe Langlet, cũng như
minh họa của Dominique De Miscault. Thiền uyển tập anh chép, có
lần Khuông Việt chiêm bao thấy Tỳ-sa-môn Thiên vương (Vaiśravaṇa)
xuất hiện và tự giới thiệu sứ mạng của mình rằng được Thiên đế
(Śakra devendra) sai đến để bảo vệ quốc giới ngõ hầu khiến cho
Phật pháp được thịnh hành. Sáng hôm sau, do theo giấc mộng, Sư vào
núi tìm và thấy một cây to.
-
Từ cây bông gạo mà Trưởng lão La Quý (852-936) trồng trước chùa
Châu minh,[7]
qua cây cổ thụ của Khuông Việt vừa đề cập, cho đến cây bông gạo
của Sư Vạn Hạnh bị sét đánh,[8]
nó là chuổi liên tục dự ngôn về sự xuất hiện của Lý Thái Tổ. Sự
kiện đó hoặc là sự thật lịch sử, hay chỉ là hư cấu của ai đó muốn
minh giải một biến cố xã hội hay một tín điều tôn giáo, thế nhưng
ảnh hưởng quần chúng của nó vẫn có thể được tìm thấy rõ nét không
chỉ trong Thiền uyển tập anh, mà còn trong các truyền kỳ và ký tải
của các sử quan triều đình.
-
Chúng ta trở lại bài thơ của Khuông Việt với minh họa của De
Miscault.
-
Mộc sinh hỏa, à l’origine, le feu est dans le bois, nguyên thủy,
lửa vốn ẩn tàng trong gỗ. Ngọn lửa ấy vốn hiền hòa, hài hòa trong
nguyên lý ngũ hành sanh khắc; nhưng khi nó bừng cháy để làm nên
lịch sử văn minh nhân loại, thì nó cũng có cơ trở thành thảm họa.
Qua ống kính của nghệ sĩ tạo hình, Dominique De Miscault, ngọn lửa
ấy không bốc thẳng lên theo chiều thuận lý của Dịch lý phương
Đông, mà nó quằn quại trong từng sớ gỗ dưới một góc nhìn minh họa;
nó chợt được thấy như bùng cháy từ hỏa ngục, từ một mùa hỏa ngục
của Rimbaud: Une Saison en Enfer. Nó bốc cháy từ tổ tiên người
Gaulois, thiêu rụi những đồng cỏ, lột da dã thú, rồi lần bước lịch
sử theo dấu chân của đoàn quân viễn chinh qua những ngã đường của
châu Âu: J’ai de mes ancetres gaulois… Les Gaulois étaient les
écorcheurs de bêtes, les brûleurs d’herbes les plus ineptes de
leur temps…
[9]
-
Tuy dấu chân của Rimbaud tiếp nối tổ tiên Gaulois lần bước xuống
tận châu Phi chứ không lần về phương Đông châu Á, nhưng người
thưởng ngoạn ngôn ngữ và minh họa của các tác giả Pháp, từ di
ngôn, mà cũng là dự ngôn, của Khuông Việt trước khi chết, muốn
nhìn nó ngắm từ một dòng chảy thuần khiết trong nền văn học Pháp
qua hình thái biểu hiện nhức nhối của ngôn ngữ đang nói lên nỗi
niềm khổ lụy hiện sinh. Đó cũng là góc nhìn mà chúng tôi mượn tạm
của nhà thơ Bùi Giáng trong một bức thư gởi Réné Char, những dòng
chữ được viết từ bão tố chiến tranh đang tàn phá một đất nước, sát
hại một dân tộc: Nous pensons … à vous, Monsieur René Char, et
aussi à un courant discernable de pureté dans la litterature
française … à travers l’expression déchirante du malheur, oui,
nous pensons à tout cela, en un temps où l’ouragan s’abat sur
notre pays et meurtrit notre peuple.[10]
-
Người thưởng ngoạn như vậy có thể đang cố ý chọn một điểm đứng và
một thời điểm để nhìn không theo cùng một hướng của nhà nghệ sỹ
tạo hình, nhưng trong không gian và từ thể tính của tồn tại thì ưu
tư khắc khoải về lẽ sống nhân sinh và chiêm nghịêm những điều kỳ
diệu trong sự vận hành của thế giới vẫn âm vang một sự đồng cảm,
mà chúng ta đọc thấy trong phần giới thiệu bởi De Miscault: Le
mélange d’angoisse et d’admiration devant le mystère du monde a
été vécu par toutes les civilisations…
Nous pensons en trouver un example dans les écrits des moines
bouddhistes, notamment vietnamiens sous la dynastie des Lý.
[11]
-
Các tác giả của Un livre des moines Bouddhistes đang tìm vào các
thơ văn của các Thiền sư đời Lý; không phải bằng những tư biện
triết học, không phải bằng những tư duy siêu hình, mà bằng ngôn
ngữ hình ảnh, tìm kiếm và chìm lắng trong một thế giới tĩnh lặng,
vô ngôn, ở đó thực tại tối hậu là khoảng chân không thăm thẳm: la
vacuité fondamentale de toute chose et même de l’ultime réalité.[12]
-
Thực tại tối hậu là gì? Qu’est-ce que c’est? Đó là một câu hỏi rất
thông thường trong giao tiếp hằng ngày; nhưng lại là câu hỏi muốn
vén bức màn kỳ ảo của thời gian để nhìn sâu vào tính thể tồn tại.
Vậy, yếu tính của tồn tại, của cái đang được ném ra đó, là cái gì?
Thiền sư Ngộ Ấn (1020-1088) nói: Diệu tính hư vô bất khả phan. Yếu
tính ấy, cái l’essence de l’être ấy, là cái trống không mà nhận
thức không thể nắm bắt, mặc dù bản chất của ý thức là luôn luôn
vươn đến nắm bắt đối tượng. Ở đây, Philippe Langlet không phiên
giải diệu tính trong bài thơ của Ngộ Ấn như là yếu tính của tồn
tại, mà hiểu nó là bản chất hay tự tính huyền nhiệm:
-
La mystérieuse nature du vide est inaccessible,
-
…
-
La mystérieuse nature đó có thể một thiên nhiên kỳ diệu, được sáng
tạo từ huyền nhiệm của Thượng đế; mà Thượng đế thì siêu việt mọi
tạo vật: Dieu transcende toute créature (Catéchisme). Vậy, câu hỏi
về thân phận con người được nêu lên từ tư duy chiêm nghiệm về bản
tính huyền nhiệm này, như De Miscault đã dẫn từ Pascal: Qu’est-ce
que l’homme dans la nature? Ta là ai, con người là cái gì, trong
thể giới này, trong bản tính huyền nhiệm của tồn tại này? Câu hỏi
xuất phát từ hai hướng Đông Tây bất đồng, như trong cảm hứng để
thử trả lời, ta có thể tìm thấy sự đồng cảm giữa Ngộ Ấn và Pascal.
Với Ngộ Ấn, con người không là gì cả, vì tự tính của nó không là
gì cả. Hình ảnh của cái không là gì cả ấy là đóa hoa sen còn thắm
đượm sương mai trong lò lửa đang rực cháy. Trống không, vô nghĩa,
nhưng ngời sáng: tồn tại chỉ có thể chiêm nghiệm trong mối quan hệ
biện chứng được kết cấu bằng những mâu thuẫn nội tại.
-
-
Tranh minh họa: Liên phát lô trung thấp vị can…
-
-
Trả lời của Pascal cũng âm vang đồng điệu. Ta không là gì cả. Tất
cả mọi tạo vật đều từ hư vô mà ra, tồn tại bao la ngang tầm vô
hạn: Toutes choses sont sorties du néant et portées jusqu’à
l’infini. Con người là tồn tại vô thể, là hư vô nếu được nhìn từ
vô hạn. Trong vô hạn, nó không là gì cả. Trong cái không là gì cả,
nó là tất cả. Con người là một trung gian giữa không là gì cả và
là tất cả: Un néant à l’égard de l’infini, un tout à l’égard du
néant, un milieu entre rien et tout. Đồng điệu hay đồng cảm này
cũng được chia sẻ bởi một Thiền sư khác: Từ Đạo Hạnh (?- 1117),
được chuyển tải qua ngôn ngữ Pháp:
-
Existence. Le moindre grain de poussière existe.
-
Vide. Tout est vide.
-
Existence et vide, c’est comme la lune dans l’eau.
-
Ne vous attachez pas à l’existence ni à l’idée du vide.
-
Tồn tại và không tồn tại, có và không, hữu thể và hư vô, chứa vô
biên trong hạt cát, nắm vô hạn giữa lòng tay; thể tính hư vô bừng
sáng thành hoa sen trong biển lửa; đó là những tư duy và phát biểu
mang tính phản lý; đồng thời đó cũng là sử tính của một dân tộc
được hiện tượng hóa trong chuỗi mâu thuẫn biện chứng của hiện thực
lịch sử.
-
Ở đây, sử gia và nhà nghệ sỹ tạo hình, bằng ngôn ngữ của mâu thuẫn
biện chứng và bằng hình ảnh được thấy thường nhật để phản chiếu
sinh hoạt tầm thường mà luôn luôn biến động của đời sống thường
nhật. Những cảm hứng từ các hình ảnh này trong nhiều trường hợp
dẫn người thưởng ngoạn đến những ý tưởng đầy bất ngờ, vừa thống
nhất vừa xung đột giữa những cái nhìn mà ta quen nói là khác biệt
Đông Tây, khác biệt thời đại. Một trường họp có thể dẫn ra ở đây
là bài thơ của Không Lộ, và hình ảnh minh họa. Trong bài thơ này,
ngôn ngữ Pháp đi rất gần với tiết nhịp của âm vận tiếng Việt, mặc
dù dịch giả không cố diễn dịch nó theo tiết nhịp thơ của ngôn ngữ
Pháp:
-
Sur dix mille lieues le fleuve limpide, sur dix mille lieues le
ciel.
-
Un village avec des mûriers, un village avec des fumées.
-
Le vieux pêcheur s’est endormi, personne ne l’applelle.
-
Passé midi il se réveille, la neige a rempli sa barque.
-
-
-
Tranh minh họa: Vạn lý thanh giang vạn lý thiên…
-
Toàn thể bài dịch Pháp còn phảng phất phong vận bình dị của đồng
quê Việt nam cũng như sinh hoạt của nó. Trong khi đó, trong nguyên
văn Hán của bài thơ, do âm luật nghiêm túc của Đường thi, mọi thứ
trở nên trang trọng. Ngư ông trong nguyên văn Hán mang phong thái
tiêu dao của một ẩn sĩ. Ngư ông trong bản dịch Pháp là một người
dân quê trong cảnh đồng quê bận rộn nhưng an nhàn. Ngư ông trong
minh họa mang dáng vẻ của một con người sinh họat trong xã hội văn
minh công nghiệp đến từ phương Tây, đang vẩy tay chào đón hoặc
tiễn đưa, đứng giữa lòng sông trong lớp bụi mờ ẩn hiện hình ảnh
được minh họa từ câu thơ của Ngộ Ấn: liên phát lô trung thấp vị
can, La fleur de lotus eclose dans un four est éternellement
fraîche. Minh họa như thế là nối liền quá khứ với hiện tại, một
quá khứ lịch sử đầy bi kịch đã hay đang đi vào quên lãng, với hiện
tại của một xã hội đang biến chuyển để chào đón hoàng hôn rực rỡ
của trời Tây, La Crépuscule de l’Occident (Spengler).
-
Hình ảnh ngư ông trong minh họa tình cờ khiến chúng ta nhớ lại
bóng dáng của Bùi Giáng đang đi giữa phố phường hoa lệ
Saigon
mà như đi giữa hoang tàn sa mạc, điên loạn trong cơn điên loạn
siêu hình của Nietzsche. Thế rồi, trong phút tỉnh táo, nhà thơ của
chúng ta bất chợt thốt lên những lời trầm thống, vang vọng ưu tư
khoắc khoải lan dài trong lịch sử. Đó là những lời mà Bùi Giáng đã
viết cho René Char: Voici la réponse que vous en donne le Viet
nam: Weil (Simone Weil), c’est une de ces âmes assez rares qui
sont venues en ce monde pour un temps bien bref, qui s’en sont
allées brusquement, laissant derrière elles de regrets; des âmes
qui se sont penchées sur la souffrance de siècles, qui nous ont
apporté des promesses de fontaines sonores, qui nous ont parlé des
peuples lointaines et de leur pulsation blessée, qui ont posé le
problème des déshérités de l’Asie.
-
Hình ảnh một Simone Weil nhỏ thó, gầy mòn, một tâm hồn nhạy bén
trước khốn cùng của những con người khốn khổ, một ý chí ngoan
cường, bướng bỉnh của một cô giáo trẻ; hình ảnh ấy không chỉ là
biểu tượng cho sự trổi dậy của tầng lớp yếu ớt trong bối cảnh xã
hội hùng cường, phú thịnh của phương Tây; hình ảnh ấy một thời đã
làm xao xuyến tuổi trẻ Viêt nam lớn lên giữa khói lửa, đang lắng
nghe âm vang từ nhịp đập của trái tim mang chứng tích đầy thương
tích của lịch sử văn minh, âm vang từ những suối nguồn xa xôi mang
những ước nguyện nhân bản đến cho các dân tộc, đặt vấn đề cho
những con người đang bị bứt lìa truyền thống.
-
Khi một tâm hồn bị bứt lìa truyền thống, nó như một con thuyền lơ
lửng trôi xuôi theo định hướng mù khơi ngoài phương trời vô định;
trôi ngang qua bà mẹ đang đứng sững quay lưng hờ hững với con
thuyền, đang dõi mắt tìm vào bến bờ của quá khứ, của cây đa bến
cũ, con đò năm xưa mà nay đã vắng, đã mất. Thế nhưng, trong thể
tính uyên nguyên của dòng sông lịch sử, mảnh trăng treo từ trên
đỉnh Lăng-già đang tỏa ánh sáng trầm tịch trong khoảng không vô
tận, cho con thuyền định hướng ra biển khơi:
-
…
-
Dans le grand calme du clair de lune sur la montagne de Lanka,
-
Devant le vide pour un bateau qui s’avance en pleine mer,
-
…
-
Tranh minh họa: Tịch tịch Lăng già nguyệt…
-
-
Minh họa này từ bài thơ của Tăng thống Huệ Sinh (?- 1076), thế hệ
tiếp nối Thiền sư Vạn Hạnh, vốn là minh giải triết học cho vua Lý
Thái Tông, ngẫu nhiên phản chiếu tâm tình lịch sử trải dài suốt
gần mười thế kỷ, qua những minh họa mà chúng ta biết được cảm hứng
một phần từ tín điều Catéchisme như được nói rõ trong bài giới
thiệu do Dominique De Miscault.
-
Suy nghĩ từ những dòng ngôn ngữ Pháp chuyển tải những tư duy uẩn
khúc của tư tưởng, như những mặt gương khi mờ khi tỏ, phản chiếu
mấy đoạn đường quanh co khi thăng khi trầm của lịch sử; chiêm quan
những hình ảnh minh họa cấu hình bằng phương tiện kỹ thuật hiện
đại mà thể tính là những nguyên lý, những công thức cứng đọng, khô
cằn của lý trí hướng ngoại và chinh phục; người đọc và người xem
để cho tâm hồn mình di động bất thường giữa những cảm hứng ngẫu
nhiên, hoặc trần thuật tiên cảm; từ đó quay nhìn lại những đoạn
lịch sử đã qua, trải dài suốt trên hoặc dưởi mười thế kỷ; những lộ
trình riêng biệt, với những định hướng và định mệnh khác biệt, ở
hai phương trời cách biệt; những con đường lịch sử ấy có khi được
thấy song song, có khi đối nghịch dẫn đến sông núi ngửa nghiêng,
đảo lộn, áp bức, đọa đày, chiến tranh, giết chóc; có khi hòa quyện
trong nỗi đau thương chung của thân phận con người. Nhưng dù ở bên
này hải đảo, hay bên kia đại dương, mà trong cõi tịch mặc vô ngôn,
trong thế giới mặc nhiên vô hạn, với những điều nói được và không
nói được, những hình ảnh ký họa được hay không ký họa được, giữa
người và người, giữa các dân tộc dị biệt, trong các truyền thống
và văn minh tương phản, vẫn còn ẩn tàng trong tận đáy sâu, trong
rung cảm đồng điệu của những trái tim nhân hậu. Chúng tôi muốn
nói, từ những chuyển tải bằng ngôn ngữ Pháp thực hiện bởi Giáo sư
Philippe Langlet, từ những minh họa bằng kỹ xảo của lý trí tư biện
phương Tây bởi nghệ sĩ tạo hình Dominique De Miscault, chúng ta
thử tìm lại dấu vết tâm tư của tiền nhân, thử nhìn lại chính mình
từ đôi mắt của những người khác, để tự khẳng định chính mình trong
những cơn lóc thời đại.
-
Xin cảm ơn các tác giả đã đến với chúng ta trong đồng cảm nhân
loại, cùng chia sẻ những giá trị phổ quát giữa những truyền thống
dị biệt.
-
T.S.
-
[1]
Trần Văn Giáp, Le Bouddhisme en Annam, dès origines jusqu’au
XIIIe siècle. BEFEO XXXII, 1932. Bản dịch Việt, Tuệ Sỹ: Phật
giáo Việt nam, từ khởi nguyên đến thế kỷ XIII, Tu thư Viện Đại
học Van Hạnh, Saigon, 1968.
-
[2]
Lê Mạnh Thát, Tổng tập Văn học Phật giáo Việt nam, tập 3, NXB TP
Hồ Chí Minh, 2002.
-
[3]
Philippe Langlet, Un livre des moines Bouddhistes; Les Editions
Aquilon, Paris, 2005.
-
[4]
Lê Mạnh Thát, Tổng tập 3, tr. 203: Trong cây vốn có lửa/ Có lửa,
lửa mới bừng/ Nếu bảo cây không lửa/ Cọ xát do đâu bùng.
-
[5]
Tuệ Sỹ, Những cuộc vận đông của Phật giáo Việt nam dưới triều
đại nhà Đường, Tạp chí Tư tưởng, Viện Đại học Vạn Hạnh, 1972.
-
[6]
Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt nam, tập 2, tr. 498. NXB TP
Hồ Chí Minh, 2001.
-
[7]
Lê Mạnh Thát, Tổng tập 3, tr. 284: “(La Quý di chúc) Ở chùa Châu
minh ta có trồng cây bông gạo để trấn chỗ, biết đời sau ắt có kẻ
hưng vương ra đời…”
-
[8]
Đại Việt sử ký toàn thư, tờ 31a7: sét đánh cây bông gạo làng
Diên uẩn, Cổ pháp, để lại hàng chữ: Thọ căn niểu niểu, mộc biểu
thanh thanh, hòa đao mộc lạc, thập bát tử thành. Theo chiết tự,
bài thơ tiên đoán nhà Lê mất, họ Lý lên thay.
-
[9]
Arthur Rimbaud, Oeuvres, p. 196: Mauvais sang (Une Saison en
Enfer). Pocket, Paris 2005.
-
[10]
Bùi Giáng, Lettre à René Char, Dialogue, Lá bối,
Saigon,
1965.
-
[11]
Un livre des moines Bouddhistes: Introduction.
-
[12]
Ibid.
-
-
Thiền Uyển Tập Anh, bản (tuyển) dịch Pháp, Un Livre Des Moines
Bouddhistes Dans Le Vietnam D’autrefois, của Giáo sư Philippe
LANGLET, minh họa Dominique De MISCAULT, nhà xb Aquilon, Paris,
2005. Lễ giới thiệu tác phẩm và trưng bày ảnh minh họa tại Tp.
HCM, ngày
20/1/2006,
tại Viện NCPH Việt
Nam,
750 Nguyễn Kiệm, Q. Phú nhuận. – BBT.
--o0o--
|
|