TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
TRIẾT HỌC THẾ THÂN
vỀ
TỰ
tri & bàn thêm vỀ
cơ cẤu TỰ
tri
Lê Mạnh Thát
--o0o--
Chúng ta thấy rằng sau khi tìm ra thuyết lan truyền nội tại, Thế
Thân đã tiếp tục tái khảo sát nhiều vấn đề khác nhau xoay quanh
nhiều thuyết tri nhận đã được rất nhiều trường phái của thời ông
đề ra. Những vấn đề này hình như đã không được giải quyết; và
trong khi khảo sát chúng, ông đã nhận ra rằng nếu muốn giải
quyết thì phải đưa ra một phương pháp hoàn toàn mới mà khái niệm
cơ bản của nó chính là khái niệm về sự tự tri. Khái niệm này bao
gồm khẳng định mọi tri nhận phải là sự tự tri. Một khi đã khẳng
định như thế, rõ ràng chủ trương “đối với một người nào đó có
khả năng tri nhận, anh ta tri nhận được cái gì đó màu xanh chứ
không phải ‘nó là màu xanh’; về đối tượng thì anh ta tri nhận nó
chứ không phải tri nhận các thuộc tính của nó” do A Tỳ Đạt Ma
Thức Thân Luận (Abhidharmavijñānakāya) khởi xướng và sau đó
được Trần Na khai triển là không thể chấp nhận được. Bởi vì khi
một tri nhận được định nghĩa là sự tự tri, nó không những biết
được cái gì đó màu xanh mà còn biết rằng nó biết được cái đó là
xanh. Như vậy, khái niệm tự tri hàm chứa yếu tính của ngôn ngữ
như một trong những thành phần của nó, bởi vì như Trần Đức Thảo
đã phát biểu, ngôn ngữ là môi trường trực tiếp của ý thức.
Thật vậy, chúng ta sẽ thấy Thế Thân không chỉ xem ngôn ngữ là
môi trường trực tiếp của ý thức mà còn là phương tiện độc nhất
cho ý thức hoạt động. Vì vậy, sau khi bác bỏ thuyết tri nhận của
Thức Thân Luận, ông đã định nghĩa lại tri nhận là “một
nhận thức sinh khởi chỉ từ đối tượng mà nó được đặt tên bởi đối
tượng đó”. Tri nhận như vậy được định nghĩa bằng ngôn ngữ mà nó
được diễn tả. Do sự kiện này, Trần Na đã công kích nặng nề điều
trên như đã nói. Dĩ nhiên, một sự công kích như thế không hề gây
ngạc nhiên bởi vì đó là điều chúng ta chờ đợi. Định nghĩa mới
của Thế Thân cho thấy một quan niệm triệt để hoàn toàn độc lập
với mọi truyền thống định sẵn được biết đến vào thời ông, đặc
biệt là truyền thống của Thức Thân Luận đầy thẩm quyền và
ảnh hưởng mà quan niệm của nó đã được Trần Na khai triển và bảo
vệ trong tác phẩm Pramāṇasamuccaya
nổi tiếng của ông dưới cái bóng của luận thư quan trọng nhất của
Thế Thân là Vādavidhi. Và dường như những người cùng thời
cũng như sau ông đều thất bại trong việc đánh giá đúng quan niệm
hoàn toàn mới với một nội dung cơ bản như thế của ông như những
phê phán của Trần Na cho thấy.
Hiển nhiên, điều mới mẻ chủ chốt của định nghĩa trên nằm ở việc
nó đã nối kết tri nhận với ngôn ngữ qua đó nó được diễn tả. Trần
Na đã nhận ra chính xác điều này và ông đã mạnh mẽ chống đối và
chỉ trích, bởi lẽ “đối tượng của năm loại thức thân thì không
thể diễn tả”. Thật vậy, như chúng ta đã nói, mặc dù Thế Thân
chưa bao giờ công nhiên chia xẻ quan niệm của Thức Thân Luận
và vì thế chưa bao giờ đề cập đến trong Câu Xá Luận nhưng
khái niệm “đối tượng tri nhận thì không thể diễn tả”, vốn được
định nghĩa là “nằm ngoài cấu trúc ngôn ngữ” (vô phân biệt),
vẫn thật sự được nhắc đến trong tác phẩm của ông với một cải đổi
được công bố nào đó. Vì thế, ông công nhận rằng “năm loại thức
thân nằm ngoài cấu trúc ngôn ngữ” chừng nào nó nằm ngoài “cấu
trúc ngôn ngữ” của hoạt động của tâm (kế đạc) và sự nhớ
lại (tùy niệm), chứ không nằm ngoài cấu trúc ngôn ngữ của
riêng chúng (tự tánh), bởi vì chúng luôn luôn có kèm theo
cái được gọi là “ý ngôn của tầm và tứ”. Kết quả, ta có thể nói
rằng quan niệm về tính bất khả thuyết của đối tượng tri nhận đã
gây nghi ngờ nghiêm trọng ngay cả trong Câu Xá Luận mặc
dù có sự kiện rằng không có trần thuật nào rõ ràng về ý nghĩa
chính xác mà từ ngữ “cấu trúc ngôn ngữ” và tương tự ám chỉ, như
đã thấy qua thảo luận của Thế Thân về chúng. Quan niệm mới mẻ
được Thế Thân đề ra ở trên đánh dấu một sự tách ly từ gốc rễ đối
với các quan niệm phổ biến vào thời ông. Vì vậy, chẳng có gì
ngạc nhiên khi Trần Na phải dành trọn cả một phần trong Pramāṇasamuccaya
của ông để đánh giá.
Như đã nói, quan niệm mới này được đề ra trong một cố gắng giải
quyết nhiều khó khăn khác nhau xuất phát từ vấn đề tri nhận và
cuối cùng đã dẫn đến giả định về khái niệm tự tri. Điều khá chắc
chắn là nếu tri nhận được định nghĩa qua sự tự tri như là quan
hệ đầu tiên của nó thì điều tất yếu là tri nhận đó phải được chỉ
thị bởi tên của đối tượng mà từ đó nó sinh khởi. Vì thế, nói
rằng tôi thấy thì chưa đủ mà phải nói thêm là tôi thấy cái gì
đó. Không có cái gọi là tri nhận thuần túy, tức loại tri nhận
không được đặt tên bởi đối tượng mà nó tri nhận, mà luôn luôn là
tri nhận về cái gì đó. Lý do tại sao không có tri nhận thuần túy
mà luôn luôn là tri nhận cái gì đó, khi tri nhận được định nghĩa
qua sự tự tri, nằm ở sự kiện tự tri trong trường hợp này chỉ xảy
ra khi tri nhận xảy ra. Và nếu tri nhận không được chỉ thị bởi
tên của đối tượng của nó để phân biệt nó với sự tự tri thì cả
hai có thể bị trộn lẫn hoàn toàn để trở thành một đơn vị duy
nhất và công nhiên đồng nhất tri nhận với tự tri, một sự đồng
nhất không muốn có. Hơn nữa, một điều thông thường là tri nhận
có thể được diễn tả theo một ngôn ngữ đã cho. Nếu tôi tri nhận
một con chó từ trong nhà chạy ra bên tay trái tôi thì chắc chắn
tôi có thể nói như thế. Và chỉ nói như thế thì người khác mới có
thể biết rằng tôi thật sự thấy con chó từ trong nhà chạy ra. Vì
thế, thật không may nếu đề ra một thuyết thuộc loại Trần Na đề
nghị bởi vì khi đó một điều thông thường như thế sẽ bị bỏ qua và
không được để ý đến để nhường chỗ cho một khái niệm được định
sẵn nào đó về những gì tri nhận phải là.
Nhưng vì tri nhận được định nghĩa qua ngôn ngữ mà nó được diễn
tả, cho nên sự tự tri cũng phải được định nghĩa qua ngôn ngữ đó.
Vì tự tri vốn là một phần của tiến trình tri nhận. Như vậy, toàn
bộ tổ hợp tri nhận và tự tri hoàn toàn dựa vào ngôn ngữ để hoạt
động, một kết luận đã rất hiển nhiên trong Câu Xá Luận,
như đã thấy. Trong đó, Thế Thân phát biểu công khai cả năm thức
thân đều không nằm ngoài cấu trúc ngôn ngữ vì chúng luôn luôn có
kèm theo “lời lẽ của ý về sự tìm tòi và xét đoán”. Tuy nhiên,
mãi đến khi Vādavidhi xuất hiện thì sự nối kết tri nhận
với ngôn ngữ mới được trình bày suông sẻ, và đợi đến khi Nhị
Thập Tụng ra đời thì khái niệm tự tri mới được xem xét và
bàn bạc nghiêm túc. Thế nhưng, việc sớm nhận ra tác dụng rất
quan trọng của ngôn ngữ trong bất cứ hoạt động nào được cho của
tâm cho thấy thuyết mô tả của Thế Thân đã xuất hiện như thế nào.
Và thuyết này lại sinh khởi luận lý của ông và cuối cùng thúc
đẩy ông tái khảo sát vấn đề tri nhận với khám phá đạt được là
khái niệm tự tri. Từ những gì đã nói, mặc dù khái niệm này quan
trọng nhưng nó lại là một sự thật phổ biến rất bình thường mà
mọi người đều xem thường, đó là nếu chúng ta nhận biết cái gì đó
thì tiến trình nhận biết này xảy ra trong đầu chúng ta chứ không
phải nơi nào khác. Như vậy, để biết cái gì đó, ta phải cùng lúc
biết rằng ta biết cái đó. Vì thế, nhận thức ta có về thế giới
ngoại tại và mọi sự vật khác xuất phát từ sự tự nhận biết của
chúng ta về những thông tin được cung cấp cho chúng ta qua các
tri giác và trải qua tiến trình xử lý của khả năng tri nhận của
chúng ta.
Vì
vậy, để cho bất cứ cái gì hiện hữu trên cuộc đời này được biết
đến thì nó cần được phiên dịch thành các thông tin; và những
thông tin này có thể được xử lý bởi khả năng nhận biết của chính
chúng ta. Như vậy, đối tượng được định nghĩa qua các thông tin
nó cung cấp cho chúng ta và những thông tin này được mã hóa theo
một ngôn ngữ đã cho dành cho sự hiểu biết của chúng ta. Một khi
đã đi đến một kết luận như thế, thật tự nhiên cho Thế Thân để
đưa ra luận đề “bất kỳ cái gì hiện hữu chỉ là cái khiến ta biết;
đối tượng của nó không hiện hữu vì nó là sự tự tri, giống hệt
như sự nhìn thấy những sợi lông và mặt trăng, v.v., của người
mắc bệnh bạch chướng nhãn.” Thật vậy, vì bất cứ những gì ta biết
về một đối tượng cũng là bất cứ thông tin nào nó cho chúng ta và
thông tin này, đến lượt nó, sẽ định nghĩa đối tượng đó là gì.
Như vậy, “bất cứ cái gì hiện hữu thật sự chỉ là cái khiến ta
biết”. Thế nhưng, nếu đã như vậy thì điều tất yếu là đối tượng
được định nghĩa bởi thông tin được cung cấp cho chúng ta bởi bất
cứ cái gì hiện hữu ở đó chắc chắn sẽ không hiện hữu giống như
cách hiện hữu của bất cứ cái gì ở đó, bởi vì đối tượng được định
nghĩa như thế chỉ là sự tri nhận ta có về thông tin được cho
chúng ta. Và vì nó chỉ là một tri nhận nên nó không hiện hữu,
bởi vì theo định nghĩa thì tri nhận là tự tri, và tự tri là bất
cứ cái gì giúp ta biết về sự có mặt của cái gì đó. Tóm lại, tự
thân nó vốn là một dạng thông tin không chỉ cho chính nó mà cho
bất cứ cái gì nó được dự định chỉ đến.
Vì
thế, cần phải lưu ý rằng chữ “đối tượng” trong phát biểu dẫn
trên của Thế Thân chuyển tải trong ngôn ngữ gốc của nó không chỉ
ý hàm ý về “đối tượng” mà còn cả hàm ý về “nghĩa”. Như vậy, về
mặt ngôn ngữ học đối tượng được định nghĩa qua nghĩa của nó. Bất
cứ cái gì được ta nói đến như một đối tượng, nó phải hàm chứa
một nghĩa nào đó để ta có thể hiểu nó. Vì lẽ nó được đồng nhất
hoàn toàn với nghĩa của nó. Nói cách khác, khi một đối tượng
được định nghĩa bằng thông tin ta biết về nó, một đối tượng như
thế chắc chắn chỉ là một dạng của tự tri, vì nó chỉ là một
phương tiện giúp ta hướng đến cái gì đó khác hơn chính nó, một
cái gì đó ở bên ngoài mà ta muốn biết hay rốt cùng cũng sẽ biết.
Chẳng hạn như khi ta nói về một ngôi nhà, chữ “nhà” không chỉ
làm nền tảng chỉ thị cái gì đó bên ngoài mà chúng ta tình cờ gặp
phải để đồng ý đó là một ngôi nhà, mà nó còn làm một kênh truyền
đạt thông tin giúp định nghĩa cái đó. Với hai chức năng này, cái
được chúng ta nói đến như một ngôi nhà chắc chắn không hiện hữu,
hoặc ít ra không hiện hữu theo cách hiện hữu của cái gì đó ở bên
ngoài, cái mà chữ này được dùng để chỉ đến, bởi lý do đơn giản
là chữ “nhà” chỉ là một mô tả về cái gì đó ở đó.
Cần lưu ý rằng mô tả được định nghĩa là một “biểu tượng bất
toàn” có thể được thay bằng những diễn tả thích hợp khác. Là một
mô tả, từ ngữ chỉ có tác dụng truyền đạt thông tin để cái gì đó
bên ngoài có thể được định nghĩa và tri nhận đúng. Vì vậy, những
gì chúng ta biết về một đối tượng chỉ là những thông tin này,
những thông tin có khi chỉ kết lại thành một từ và có khi nhiều
hơn. Theo ý nghĩa này, ta có thể nói rằng một đối tượng chỉ là
thông tin ta biết về nó. Và phát biểu này được diễn tả rõ ràng
bởi khả năng siêu việt của Phạn ngữ trong chỉ một từ: artha.
Đây là từ đã chuyển tải, như đã nói, hai ý nghĩa là “vật” và
“nghĩa” trong suốt lịch sử. Với hàm nghĩa kép này, điều rất hiển
nhiên là theo quan điểm của Thế Thân, một đối tượng, khi được
định nghĩa như thế, sẽ không hiện hữu. Nó không hiện hữu, vì nó
chỉ là thông tin được dự liệu cho sự tự tri nhận của chúng ta.
Vấn đề bây giờ là tại sao khi được định nghĩa như thế nó lại
không hiện hữu, và làm thế nào một tình huống như thế lại xảy
ra.
Chúng ta đã thấy rằng Nhị Thập Tụng là tác phẩm đầu tiên
của Thế Thân công bố luận đề trên, nói rằng đối tượng không hiện
hữu khi được định nghĩa là thông tin. Vậy thì thật tự nhiên cho
chúng ta khi khảo cứu tác phẩm này để xem nó có cung cấp bất cứ
xác minh nào về một quan niệm như thế không. Ở chương cuối,
chúng ta đã thấy bằng cách nào Nhị Thập Tụng cố thực hiện
chính xác công việc này bằng cách chứng minh rằng cái ta biết
chỉ là những thông tin khiến chúng ta biết chứ không phải tự
thân các đối tượng. Nó chỉ rõ rằng (1) đối tượng ta biết có thể
không hiện hữu, thí dụ những gì ta thấy trong giấc mơ, và (2) vì
mọi vật liên tục thay đổi, đối tượng vốn cũng thay đổi như thế,
có thể không bao giờ được biết đến ngoại trừ chỉ như một hình
ảnh, tức chỉ là thông tin mà nó để lại đàng sau. Với hai lý do
chính này, Nhị Thập Tụng đi đến kết luận rằng “bất cứ cái
gì hiện hữu chỉ là cái khiến ta biết”, như đã nói. Vậy thì rõ
ràng nó đã không chứng minh được quan niệm của nó ở mức ta mong
muốn, nhất là xét về thuyết mô tả được Thế Thân trình bày trong
Câu Xá Luận.
Thật vậy, trong đó khi nối kết với vấn đề hiện hữu của quá khứ
và vị lai, Thế Thân đã nhấn mạnh rằng “một đối tượng của thức có
thể không là gì cả mà chỉ là một tên gọi, và đối tượng mà nó ám
chỉ không cần phải hiện hữu”, để có thể giải thích tại sao ta có
thể sẵn sàng biết và hiểu cái gì đó trong quá khứ mà nó không
còn hiện hữu theo định nghĩa. Như vậy, chính nhờ vào các tên gọi
mà sự vật có thể được biết và được ghi nhận. Nhận xét này đóng
một vai trò chủ chốt trong sự phát triển thuyết mô tả của Thế
Thân trong Câu Xá Luận, như đã được minh chứng đầy đủ
trong thảo luận của chúng ta ở trên. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là nó
không được đưa vào trong Nhị Thập Tụng. Kết quả, nỗ lực
chứng minh luận đề “bất cứ cái gì hiện hữu chỉ là những gì khiến
ta biết” đánh mất phần nào hiệu quả của nó. Và sự mất mát này
phải đợi đến khi Tam Thập Tụng ra đời mới có thể bù đắp.
Tam Thập Tụng
mở đầu bằng câu nói lừng danh “sự mô tả về ngã và pháp, vốn có
tác dụng theo nhiều cách, đều dựa vào sự chuyển biến của thức”,
và câu nói này cuối cùng đã dẫn đến kết luận nổi tiếng không kém
là “sự chuyển biến của thức là cấu trúc ngôn ngữ qua đó những gì
được thiết lập bằng ngôn ngữ không hiện hữu, vì vậy bất cứ cái
gì hiện hữu đều chỉ là cái khiến ta biết.” Toàn bộ đời sống của
một thức, bao gồm cả sự tự tri, vì thế hoàn toàn được quyết định
bởi điều mà Thế Thân gọi là “cấu trúc ngôn ngữ”. Vậy, “cấu trúc
ngôn ngữ” là gì? Để trả lời câu hỏi này, thật không may là chúng
ta không có phát biểu nào rõ ràng từ chính Thế Thân, sau khi đã
tìm khắp các tác phẩm còn giữ được của ông. Dường như những từ
như “cấu trúc ngôn ngữ” đã được sử dụng rộng rãi và dễ hiểu vào
thời ông, không chỉ đối với những người trong giới trí thức trực
tiếp của ông mà còn đối với tất cả những người đứng đầu nhiều
tông phái triết học và khoa học thuộc thời ông. Như vậy, chúng
ta có định nghĩa thú vị của Vindhyavāsin, vị thầy tiếng tăm của
Số Luận đã từng đánh bại thầy của Thế Thân trong một cuộc tranh
biện, theo đó “tri nhận là hoạt động của các giác quan như tai,
v.v., mà không có cấu trúc ngôn ngữ”. Một lần nữa, chúng ta lại
không biết chính xác từ ngữ ‘cấu trúc ngôn ngữ’ ám chỉ điều gì ở
đây, bởi vì không có định nghĩa nào được cho.
Cố
gắng hiển nhiên đầu tiên nhằm định nghĩa nó một cách công khai
được tìm thấy trong Yogasūtra, trong đó cấu trúc ngôn ngữ
được định nghĩa là “tri nhận được tạo ra bởi các từ và không có
thực thể nào”. Tuy nhiên, thật khó xác định khái quát định nghĩa
này lần đầu tiên xuất hiện trong đó vào khi nào, mặc dù phần
đông đều nghĩ rằng toàn bộ tác phầm chắc hẳn đã xuất hiện không
lâu trước khi Thế Thân ra đời. Dù sao đi nữa, nếu chúng ta suy
đoán Yogasūtra được viết giữa thế kỷ thứ III và thứ IV
sdl. thì nó rất khớp với tình huống vừa được mô tả, tức những
người vào thời Thế Thân đã quá quen thuộc với ý nghĩa chính xác
của từ ngữ ‘cấu trúc ngôn ngữ’ mà không phải mất công đưa ra
giải thích nào thêm về ý nghĩa của nó, bởi vì họ biết chính xác
nó có nghĩa là gì như đã được định nghĩa trong Yogasūtra.
Đó là chưa kể đến sự kiện cho dù không có định nghĩa nghe có vẻ
chuyên môn của Patañjali thì từ ‘cấu trúc ngôn ngữ’ hình như vẫn
được xem là hàm chứa những gì nó ám chỉ ngay từ đầu, đó là một
phát biểu có thể được diễn dịch theo cách nào đó để nó có thể
mang nghĩa khác đi.
Như vậy, trong Nyāyasūtra, ‘cấu trúc ngôn ngữ’ được dùng
để mô tả nhiều “cạm “bẫy” luận lý khác nhau mà người ta có thể
mắc phải trong tiến trình thảo luận hay tranh luận. Và cách dùng
này rõ ràng đã xuất phát từ thuật ngữ tế lễ của Mīmāṃsaka,
trong đó từ này được dùng để chỉ cho tất các các trường hợp
trong đó một buổi lễ nào đó đã có trên một nghi thức hoặc hai
dạng khác nhau của cùng một nghi thức, và chúng đều có thẩm
quyển như nhau cũng như mang lại kết quả giống nhau. Những
trường hợp này được gọi là ‘cấu trúc ngôn ngữ’ mà ý nghĩa của nó
đã quá hiển nhiên: thật ra chỉ có một nghi thức, nhưng do các
cấu trúc ngôn ngữ khác nhau cho nên đã có hai hoặc nhiều hơn, mà
những nghi thức này, trong sự phân tích cuối cùng, đều có cùng
nghĩa. Vì thế, xét theo sự phát triển lịch sử này, định nghĩa
trên của Yogasūtra được minh chứng đầy đủ và làm sáng tỏ
thêm một số điều bí ẩn chung quanh từ ngữ này, những bí ẩn đã
khiến cho nhiều nhà nghiên cứu thuộc lãnh vực này phiên dịch sai
lạc từ ngữ trên là “sự tưởng tượng”.
“Cấu trúc ngôn ngữ là cái được sản sinh bởi kiến thức từ ngữ và
không có vật” śabdajñānānupātī vastuśūnyo vikalpaḥ.
Chắc chắn, nếu hai nghi thức hoặc hai dạng khác nhau của cùng
một nghi thức có cùng hiệu quả như nhau và thuộc cùng một thẩm
quyền như nhau trong một cuộc tế lễ được cho thì chỉ có thể nhận
ra sự khác biệt duy nhất của chúng nhờ vào cách dùng từ của
chúng. Đây là những gì khiến chúng trở thành cái mà các nhà tế
lễ gọi là “cấu trúc ngôn ngữ”. Và đó là những gì hàm chứa trong
định nghĩa đã cho của Yogasūtra. Ý nghĩa của từ ngữ này
vì thế rất rõ ràng ít ra cho đến thời Vindhyavāsin và Thế Thân.
Thật vậy, phần lớn những người thừa hưởng di sản triết học Thế
Thân như Bhartṛhari,
Aśvabhāva, v.v, đều sử dụng rộng rãi khái niệm cấu trúc ngôn ngữ
mà không hề bàn riêng đến ý nghĩa của nó là gì Rõ ràng, đó là từ
ngữ tiêu chuẩn của ngôn ngữ triết học thời đó, và ý nghĩa của nó
không còn điểm mơ hồ nào phải thắc mắc. Ngay cả khi Trần Na thử
thiết lập lại định nghĩa của nó thì trong đó vẫn không tìm thấy
sự tách ly nào đáng kể đối với những gì Yogasūtra đã cho.
Như vậy, sau khi hỏi “Vậy cấu trúc ngôn ngữ này là gì?”, Trần Na
cho chúng ta câu trả lời như sau:
Sự
kết hợp của tên gọi, chủng loại, v.v., [với một vật được tri
nhận]. Trong trường hợp các từ có tính chất tùy nghi, một đối
tượng được phân biệt bởi một tên gọi được diễn tả bằng một từ
như Dittha. Trong trường hợp các từ chỉ chủng loại, một đối
tượng được phân biệt bởi một chủng loại được diễn tả bằng một từ
như “con bò”. Trong trường hợp các từ chỉ tính chất, một đối
tượng được phân biệt bởi một tính chất được diễn tả bằng một từ
như “trắng”. Trong trường hợp các từ chỉ hành động, một đối
tượng được phân biệt bởi một hành động được diễn tả bằng một từ
như “nấu”. Trong trường hợp các từ chỉ thực chất, một đối tượng
được phân biệt bởi một thực chất được diễn tả bằng một từ như
“người chống gậy” hay “người cầm còi”. Ở đây, đối với những từ
sau chót này, có người cho rằng cái được chúng diễn tả là một
đối tượng được phân biệt bằng sự quan hệ, trong khi có người chủ
trương cái được diễn tả là một vật được trần thuật chỉ bởi các
từ và nó không có đối tượng.
Với phát biểu như thế, Trần Na đã không để lại từ ngữ nào không
rõ ràng về những gì nhóm từ “cấu trúc ngôn ngữ’ hàm nghĩa. Đó là
“sự kết hợp giữa các từ với các vật được tri nhận”. Nhưng để
thực hiện sự kết hợp như thế, người ta cần phải biết một từ là
gì, và một từ như thế không được biểu thị chỉ một sự vật duy
nhất. Ngược lại, nếu ta không biết tên của một vật, sẽ không có
gì được kết hợp với sự vật đó. Và nếu một từ thật sự chỉ cho một
sự vật riêng biệt và chỉ một mình sự vật đó thôi, thì nó không
thể được dùng cho các sự vật khác trong bất cứ trường hợp nào
khác. Tóm lại, như Yogasūtra đã nói, “cấu trúc ngôn ngữ
là cái được sản sinh bởi kiến thức từ ngữ và nó không có vật”.
Về sau, chúng ta còn có một định nghĩa chính xác và rõ ràng hơn
nữa như Kamalaśīla đề nghị: “cấu trúc ngôn ngữ là nhận thức mang
tính ngôn ngữ”,có nghĩa, mọi nhận thức đều là và phải là một
nhận thức thuộc ngôn ngữ, và đây là âm vang xa xôi của một phát
biểu nổi tiếng của Bhartṛhari:
“trên thế gian này không có một khái niệm đơn độc nào không được
kèm theo từ ngữ”. Ý nghĩa của từ “cấu trúc ngôn ngữ” như vậy đã
được chỉ dẫn rõ ràng. Không có một tí bằng chứng nào để chuyển
ngữ nó thành “sự tưởng tượng” hay “cấu trúc khái niệm”, v.v.,
những diễn dịch đã góp phần không nhỏ cho sự ngộ nhận, nếu không
muốn nói là làm méo mó, tư tưởng Thế Thân bằng những mô tả như
“quan niệm luận” hay “duy tâm luận”, v.v., và cũng là cái sinh
khởi những khẳng định thường xuyên được lập đi lập lại như “Du
già tông chủ trương thức là thực tại duy nhất”, v.v.
Nếu cấu trúc ngôn ngữ chỉ là “sự kết hợp giữa tên gọi và các vật
được tri nhận”, thì khi nói “sự chuyển biến của thức là cấu trúc
ngôn ngữ” cũng chính là nói rằng mọi hoạt động của đời sống tâm
lý chúng ta hoàn toàn được quyết định bởi, và tùy thuộc toàn bộ
vào, khả năng điều động và sử dụng một ngôn ngữ được cho, dù
ngôn ngữ đó được nói ra hay không. Có lẽ do nhận ra nhận xét đặc
trưng này trong triết học Thế Thân mà Bhartṛhari
đã đi đến nhận xét thường được trích dẫn rằng “mọi hoạt động
trên thế gian đều dựa vào các từ ngữ, điều mà ngay một đứa trẻ
cũng nương vào đó nhờ bản năng bẩm sinh”. Thật vậy, như Thế Thân
đã mô tả, sự chuyển biến nói trên của thức có ba loại và một
điều tương ứng tự nhiên là tất cả đều được quyết định bởi, và
phụ thuộc vào, ngôn ngữ để hoạt động, bởi vì, như đã thấy, tự
thân tiến trình chuyển biến chỉ là một cấu trúc ngôn ngữ.
Loại chuyển biến thứ nhất thuộc về thức-tri-nhận, cho phép chúng
ta tri nhận sự vật qua các giác quan của chúng ta. Sự vận hành
của các hoạt động tri giác này phải dựa vào ngôn ngữ chắc chắn
không phải là điều ngạc nhiên, bởi vì chúng ta đã thấy tại sao
và bằng cách nào Thế Thân định nghĩa tri nhận dựa vào ngôn ngữ
mà nó được diễn tả. Loại thứ hai và thứ ba thuộc về những gì ta
có thể gọi là thức-xử-lý và thức-chứa-đựng. Thức-xử-lý được gọi
tên như thế vì Thế Thân mô tả là “luôn luôn có kèm theo bốn
phiền não là ý tưởng về ngã (ngã kiến), ảo tưởng về ngã (ngã
si), sự tự hào về ngã (ngã mạn) và lòng yêu mến ngã (ngã
ái).” Vì có tác dụng xử lý nên nó luôn luôn cùng hiện hữu
với thức-tri-nhận trừ trường hợp bị hôn trầm, giải đãi và tập
trung suy nghĩ. Nó cũng hoàn toàn được quyết định bởi, và phụ
thuộc toàn bộ vào, ngôn ngữ để vận hành. Thức-chứa-đựng cũng
được quyết định như thế. Thức-chứa-đựng được nói đến ở đây
thường được gọi là thức-hoàn-trả (dị thục thức).
Lý
do tại sao chúng ta chọn cách gọi thứ nhất (thức-chứa-đựng)
sẽ được giải thích sau. Thức-chứa-đựng này được cho là có “chủng
tử của mọi thứ” và “tuôn chảy như giòng nước của một con sông”.
Nó cũng được gọi là “thức căn bản” từ đó năm thức phát khởi tùy
theo các yếu tố làm điều hiện cho chúng, hoặc cùng khởi hoặc
khởi riêng, giống như những làn sóng dựa vào nước”. Năm thức nói
trên rõ ràng là thức-tri-nhận của năm giác quan. Vì vậy, mặc dù
nói rằng có hiện hữu ba loại chuyển biến của thức nhưng thật ra
chỉ có một chuyển biến và một thức, bởi vì thức-chứa-đựng được
xem như thức căn bản, từ đó mọi thức khác sinh khởi. Thức-xử-lý
được quan niệm là nương tựa vào thức-chứa-đựng và lấy nó làm đối
tượng. Thức-tri-nhận của năm giác quan và của bộ não cũng được
mô tả tương tự, như đã thấy. Liên hệ giữa các loại chuyển biến
này như vậy đã được trình bày chi tiết rõ ràng.
Với một quan niệm như thế về cấu trúc của thức, trong đó mọi
hoạt động tâm lý, hoặc tri nhận hoặc xử lý, được xem là dựa vào
thức-chứa-đựng, “giống như những làn sóng dựa vào nước”, thì ta
phải giải thích tại sao và bằng cách nào thức-chứa-đựng đó có
khả năng sinh khởi các hoạt động mà nó là nền tảng. Câu trả lời
cho câu hỏi này đã tìm thấy trong luận đề dẫn trên của Tam
Thập Tụng: “sự chuyển biến của thức là một cấu trúc ngôn
ngữ”. Hiển nhiên, nếu tri nhận được định nghĩa qua ngôn ngữ mà
nó được diễn tả và nền tảng của nó là thức-chứa-đựng thì sự
chuyển biến của thức này thành một tri nhận chắc chắn phải là
một cấu trúc ngôn ngữ, thuần túy và độc nhất. Vì thế, vấn đề còn
lại là cấu trúc ngôn ngữ đó xảy ra như thế nào.
Thuyết chủng tử đã được đề ra để trả lời điều này. Quan niệm
chủng tử có một lịch sử lâu dài, và nó được bàn đến rộng rãi
trong nhiều tác phẩm đầu tiên khác nhau của Thế Thân, đặc biệt
là Câu Xá Luận và Nghiệp Thành Tựu Luận. Việc đề
ra quan niệm này trong các tác phẩm trên nhằm mục đích giải
thích trước tiên tại sao các kết quả thuộc về luân lý (thiện
ác quả) của một hành động không diệt vào lúc hành động này
được thực hiện và kết thúc. Chẳng hạn, nếu tôi đã nói dối ai đó,
tại sao sau khi hành động nói dối đã hoàn tất về mặt vật lý mà
tôi vẫn cảm thấy có lỗi? Hơn nữa, nếu tôi đã tin vào quan niệm
cho rằng mọi hành động của tôi, dù có lợi hay không có lợi cho
tôi và người khác, sẽ mang lại kết quả tương ứng trong tương lai
thì vấn đề nói trên trở nên thích hợp hơn, có nghĩa là tại sao
một hành động có thể mang lại hậu quả của nó một khi đã được
thực hiện về mặt vật lý và vật chất? Để giải quyết những câu hỏi
này, quan niệm về chủng tử đã được dùng đến. Chúng ta có lập
luận rằng giống như một cái cây có thể gieo giống của chúng vào
lòng đất và sau đó những chủng tử này lại nảy mầm, các hành động
của con người cũng thế. Mọi hành động đều để lại sau nó một
chủng tử nào đó, chủng tử mà “sau hàng trăm kiếp vẫn không diệt,
và các tác dụng của nó sẽ chín đối với chúng sinh sau khi có
được những điều kiện cần thiết và thời gian cần thiết của nó”.
Vì vậy, nếu tác dụng vẫn còn kéo dài sau khi tôi thực hiên một
hành động thì chính vì hành động đó đã gieo một chủng tử của
riêng nó và chủng tử này, khi có đủ điều kiện cần thiết, đã sinh
khởi tác dụng kéo dài nói trên.
Vì
thế, quan niệm chủng tử là một công cụ khá tiện lợi để minh giải
vấn đề nan giải của các kết quả luân lý của một hành động. Và
đúng như ý định ban đầu của nó, nó đã được Thế Thân sử dụng chủ
yếu cho mục đích đó trong vô số biện giải của ông trong Câu
Xá Luận và Nghiệp Thành Tựu Luận. Tuy nhiên, khi sang
Nhị Thập Tụng, chúng ta không tìm thấy điều gì thuộc loại
đó. Nó được dùng đến chính yếu là để làm rõ vấn đề tự tri trong
phần mở đầu luận thư này. Chúng ta hãy nhớ lại vấn đề được phát
biểu như sau: “Bất cứ cái gì hiện hữu chỉ là cái khiến ta biết,
đối tượng của nó không hiện hữu bởi vì nó là sự tự tri”. Để làm
rõ tại sao đối tượng được định nghĩa như một thông tin “thì
không hiện hữu vì nó là sự tự tri”, Thế Thân đã đưa ra lý do
sau: “Chủng tử của riêng nó, từ đó cái khiến ta biết sinh khởi
như một sự tự tri về một vật, chủng tử đó đạt đến điểm quyết
định của sự chuyển biến của nó, chủng tử đó ở một phía, và chủng
tử mà nó sinh khởi như một sự tự tri về chính nó, ở phía kia,
những cái này là hai cái mà Thế Tôn tuyên bố là xứ của mắt và xứ
của vật.” Đọc chậm rãi phát biểu này, một điều rõ ràng là đối
tượng được định nghĩa như một thông tin thì không hiện hữu vì nó
chỉ là một chủng tử của sự tự tri. Chủng tử đó khi đạt đến giai
đoạn quyết định của sự chuyển biến của nó cho phép chúng ta có
một tri nhận, đó là biết có cái gì đó ngoài kia và biết có chúng
ta ở đây. Như vậy, sự chuyển biến của thức là sự chuyển biến của
một chủng tử vào bất kỳ giây phút nào được cho. Nhờ có chủng tử
làm phương tiện, cái gọi là thức căn bản, tức thức-chứa-đựng, tự
chuyển biến thành một tri nhận. Vậy, từ ngữ “chủng tử” có nghĩa
là gì?
Mặc dù trong sớ giải của mình về Nhiếp Đại Thừa Luận của
Vô Trước, Thế Thân đã giải thích “chủng tử” là “một sức mạnh đặc
biệt”, “một năng lực hay tiềm lực đặc biệt”, nhưng đây chắc chắn
không phải là giải thích duy nhất có thể dùng cho nó. Thật vậy,
như tác giả của Abhidharmadīpa lưu ý và Yaśomitra đã nhắc
lại sau đó, từ “chủng tử” không chỉ có nghĩa “một sức mạnh hay
năng lực đặc biệt” mà còn có nghĩa là “ấn tượng”. Và nghĩa thứ
hai này thật sự đã xuất hiện trong các tác phẩm của Thế Thân.
Thật ra, ta còn có thể nói là ông dùng cả hai từ “chủng tử” và
“ấn tượng” thay cho nhau và không có phân biệt. Thí dụ, trong
Nhiếp Đại Thừa Luận, ta đọc được:
Tình trạng làm suy kiệt các chủng tử dần dần trở nên yếu ớt, yếu
hơn, và còn yếu hơn nữa, theo cùng cách giống như sự suy giảm
[dần dần] trong nước sôi, hay trong vận tốc của mũi tên được
phóng đi. Và vì điều này, khi sự kết thúc của việc phóng ra được
đạt đến vào lúc phát khởi, bằng một sự chuyển biến đặc biệt của
thức-xử-lý từ sát na này đến sát na kế tiếp và qua sự tái diễn
của các chủng tử, ý thức và tiếp theo là các thức khác cũng sinh
khởi khi có các điều kiện cần thiết của chúng. Thức-xử-lý, nơi
chỉ có nhiều loại chủng tử khác nhau, được tác động bởi các
thuộc tính có lợi và bất lợi khác cùng khởi với các thức khác
với nó, nhờ vào sự tăng trưởng những chủng tử này của chúng tùy
theo trường hợp. Ứng hợp với lực của sự chuyển biến đặc biệt này
của chuỗi tương tục, mà tiến trình in dấu tái diễn, và các hiệu
quả vừa ý và không vừa ý được mang lại. Về điều này, người ta
nói:
“Tâm (citta) có vô lượng chủng tử này tiếp diễn theo dòng,
và
khi có các điều kiện riêng cho nó,
nó
và những chủng tử của nó tăng trưởng.
Được tăng trưởng bởi chúng và tái diễn dòng chảy của nó,
nó
có thể cho quả đúng thời,
giống như đối với hoa chanh được nhuộm màu,
màu hiện ra trong lõi của quả nó.”
Ở
đây, Thế Thân dùng hai thành ngữ “sự tái diễn của các chủng tử”
và “tiến trình in dấu tái diễn” để ám chỉ chính xác cùng một
điều, đó là tiến trình tái diễn của các chủng tử và các ấn
tượng. Ngoài trích dẫn trên, cách dùng không phân biệt này đối
với hai từ “chủng tử” và “ấn tượng” có thể dễ dàng tìm thấy
trong các đoạn khác của cùng tác phẩm, và cách dùng này không
tạo ra bất kỳ nguy cơ nghiêm trọng nào của sự ngộ nhận đối với
những người cùng thời ông, bởi vì như đã nói, họ đều biết đến
cách dùng này. Tác giả của Abhidharmadīpa là trường hợp
điển hình. Ông sống không lâu sau Thế Thân và có thể dễ dàng
nhận ra, trong số nhiều điều khác, ý nghĩa của từ “chủng tử” là
“ấn tượng” như chúng ta đã chỉ ra trước đây. Với sự đồng nhất
này, nay ta có thể trở lại phát biểu trên của Nhị Thập Tụng
để xem nó chính xác có nghĩa là gì.
Nó
nói rằng “chủng tử của riêng nó, từ đó cái khiến ta biết sinh
khởi như một sự tự tri về một vật, chủng tử đó đạt đến điểm
quyết định của sự chuyển biến của nó, chủng tử đó ở một phía, và
chủng tử mà nó sinh khởi như một sự tự tri về chính nó, ở phía
kia, những cái này là hai cái mà Thế Tôn tuyên bố là xứ của mắt
và xứ của vật.” Nay ta biết rằng các từ “chủng tử” và “ấn tượng”
có cùng nghĩa và có thể thay thế cho nhau, ít ra là trong Câu
Xá Luận và Nghiệp Thành Tựu Luận. Và không có lý do
giải thích tại sao trường hợp này lại không xảy ra trong Nhị
Thập Tụng. Vì thế, nếu ta suy đoán nó có xảy ra thì phát
biểu trên của Nhị Thập Tụng chỉ có nghĩa rằng khi một ấn
tượng được nhận vào từ cái gì đó bên ngoài, nó khiến ta biết
được sự kiện rằng ta biết cái gì đó bên ngoài và ta biết rằng ta
biết cái đó. Như vậy, ấn tượng được thu nhận như thế kích phát
hai sự vận động cùng thời để chuyển biến chủng tử của
thức-chứa-đựng thành một tri nhận đầy đủ của thức-tri-nhận.
Thứ nhất, nó khiến ta biết rằng ta nhận được ấn tượng của cái gì
đó. Và thứ hai, nó khiến ta biết rằng ta nhận được ấn tượng của
cái đó. Hai vận động cùng lúc này nhằm chỉ cho sự chuyển biến
của một chủng tử được cho thành một nhận thức thuộc tri giác,
như đã nói. Kết quả, cả ấn tượng khiến ta biết cái gì đó cũng
như cái khiến ta biết rằng ta biết cái đó đều không hiện hữu độc
lập hoặc rốt cùng là chẳng hề hiện hữu gì cả. Chúng chỉ là những
chủng tử. Và nếu việc diễn giải nó như là một “ấn tượng”, một
điều nhất định có ích và cho nhiều thông tin ở một mức độ rất
lớn, có thể làm ta nghĩ về nó như một loại thực thể, thì đó là
điều rất sai lạc; nó cũng có thể được hiểu là “năng lực” hay
“tiềm năng”, như đã nói. Khi được hiểu như thế, thức-tri-nhận
phát khởi từ chủng tử, tự bản tánh, sẽ không khác gì cả với tự
thân chủng tử; bởi vì là chủng tử thì nó sẽ tồn tại như một tiềm
năng vốn cần đến các điều kiện thích hợp để có thể tự chuyển
thành thực tại. Có lẽ do ý tưởng này trong đầu mà Thế Thân đã
giải thích từ “chủng tử” là “tiềm năng” trong sớ giải của ông về
Nhiếp Đại Thừa Luận để nhấn mạnh đến quan niệm cho rằng
chỉ có một nhận thức được gọi bằng những tên khác nhau như
“chủng tử” ở các giai đoạn chuyển biến khác nhau, và những tên
gọi này không nên được hiểu lệch là có các thực thể khác nhau ở
những giai đoạn khác nhau này. Một khi chủng tử cho ta sự tự tri
về một vật và chủng tử khiến ta nhận biết sự tự tri đó được
chuyển hóa thành chỉ một tri nhận về cái gì đó bên ngoài, thì
điều được chứng thực là không có chủng tử nào trong số này có
thể được xem là tồn tại độc lập. Nói theo thành ngữ của chính
Thế Thân là “đối tượng không hiện hữu vì nó là sự tự tri”. Thật
vậy, chủng tử, tức ấn tượng khiến ta nhận biết cái gì đó bên
ngoài và vì thế nhất định trở thành đối tượng của sự tự tri của
chúng ta, làm sao có thể nói là nó có tồn tại? Và cũng vì lý do
đó, trước tiên làm sao nó có thể là một đối tượng?
Chúng ta đã chỉ ra nghĩa kép của từ “đối tượng” được Thế Thân sử
dụng. Một cái gì đó là một đối tượng chỉ khi nào nó có thể có ý
nghĩa, tức chừng nào nó có thể cung cấp một thông tin nào đó.
Như vậy, đối tượng được định nghĩa như một loại thông tin nào
đó. Vì thế, khi Thế Thân nói “đối tượng không hiện hữu vì nó là
sự tự tri” thì điều đó cũng có nghĩa đối tượng trong nội dung
được cho này không hiện hữu vì nó chỉ là thông tin. Thật vậy,
chỉ là thông tin thì nó mới có thể đồng nhất với sự tự tri ở
trong mệnh đề phụ tiếp theo “vì nó là sự tự tri”. Và trong phạm
vi này, nó đồng nghĩa với từ “chủng tử” được bàn ở trên. Thuyết
chuyển biến trong Nhị Thập Tụng vì thế đã quá hiển nhiên.
Khi một đối tượng được định nghĩa là một nguồn thông tin, nó sẽ
cung cấp cho chúng ta thông tin, và thông tin này có thể trở
thành chủng tử hay ấn tượng. Một khi đã trở thành như vậy, nó tự
chuyển biến qua các giai đoạn tự tri khác nhau để thành một nhận
thức đầy đủ của thức-tri-nhận. Kết quả, bây giờ ta phải xem xét
không chỉ về sự diễn giải chủng tử là ấn tượng hay tiềm năng mà
còn cả sự diễn giải nó là thông tin. Dĩ nhiên đây là một nhận
xét mang tính loại suy bởi vì toàn bộ nội dung Nhị Thập Tụng
không làm sáng tỏ đầy đủ cách diễn giải sau. Tuy nhiên, như sẽ
thấy, đây là một nhận xét đúng, được xác quyết bởi tác phẩm sau
đó của ông là Tam Thập Tụng.
Chúng ta đã nói rằng Tam Thập Tụng mở đầu với luận đề nổi
tiếng “sự mô tả về ngã và pháp có tác dụng theo nhiều cách khác
nhau đều dựa vào sự chuyển biến của thức”. Chúng ta còn biết
thêm rằng sự chuyển biến này của thức có ba loại, đó là
chuyển-biến-xử-lý, chuyển-biến-chứa-đựng và
chuyển-biến-tri-nhận, và những chuyển biến này chỉ là cấu trúc
ngôn ngữ. Chúng ta cũng đã chỉ ra rằng quan hệ giữa ba loại
chuyển biến này là quan hệ đồng nhất. Có nghĩa là do
chuyển-biến-chứa-đựng mà thức tự chuyển biến thành một thức-tri
nhận và thức này là điểm cuối của chuyển- biến-tri-nhận, trong
khi chuyển-biến-xử-lý xảy ra cùng với chuyển-biến-chứa-đựng, vì
nó nương vào chuyển-biến-chứa-đựng và lấy đó làm đối tượng”. Với
quan hệ đồng nhất này, không còn ngạc nhiên khi Thế Thân chỉ nói
rằng “sự chuyển biến của thức là một cấu trúc ngôn ngữ”, vì rõ
ràng rằng chỉ có một chuyển biến được gọi tên ở các giai đoạn
khác nhau hình như bằng những tên khác nhau. Dù sao đi nữa,
chúng ta biết chắc rằng chỉ có một chuyển biến của thức, và
chuyển biến này được định nghĩa là một cấu trúc ngôn ngữ. Vậy,
nó có nghĩa là gì?
Nó
chỉ có nghĩa rằng toàn bộ vận động của một thức là một cấu trúc
ngôn ngữ, vì thế nó hoàn toàn phụ thuộc vào ngôn ngữ để vận
động. Chúng ta nhắc lại lần nữa là Thế Thân định nghĩa tri nhận
qua ngôn ngữ mà nó được diễn tả. Một khi tri nhận được định
nghĩa là điểm cuối của sự chuyển-biến-xử-lý thì điều tất yếu là
cái tự chuyển biến thành điểm cuối cùng đó sẽ được định nghĩa
tương tự. Kết quả, điều tất yếu là toàn bộ tiến trình chuyển
biến phải được định nghĩa là cấu trúc ngôn ngữ. Với định nghĩa
này, chẳng còn gì ngạc nhiên khi chủng tử, vốn được cho là hiện
hữu trong thức-chứa-đựng, tức loại thức mang theo tiến trình xử
lý cho đến điểm cuối, đã được định nghĩa qua ngôn ngữ mà nó được
diễn tả.
Đối với tri nhận, nó cũng được định nghĩa qua ngôn ngữ mà nó
được diễn tả, và nếu toàn bộ tiến trình chuyển biến chỉ là một
cấu trúc ngôn ngữ, thì không có cách gì khác hơn là cũng phải
đưa ra một định nghĩa giống như vậy về chủng tử, cái đã sinh
khởi tri nhận đó sau tiến trình chuyển biến. Vì lẽ đó, chủng tử
phải được xem như một loại thông tin được mã hóa theo một ngôn
ngữ đã cho. Nó lập thành nền tảng cho sự vận động của toàn bộ
tiến trình chuyển biến của thức. Vì vậy sự định nghĩa tiến trình
chuyển biến của thức dựa vào một cấu trúc ngôn ngữ rõ ràng chỉ
cho quan niệm về chủng tử được hiểu như là lượng thông tin được
mã hóa theo một ngôn ngữ đã cho. Như thế, nhận xét trên về việc
diễn giải từ “chủng tử” là “thông tin” đã được xác chứng đầy đủ.
Và điều này không phải quá ngạc nhiên. Điều làm chúng ta ngạc
nhiên là khi sự diễn giải đã xác chứng này được xét đến cùng với
quan niệm về sự chuyển biến của Nhị Thập Tụng được mô tả
trước đây, thì một hình ảnh thú vị và chặt chẽ về thuyết chuyển
biến của thức đã hiện ra.
Nhị Thập Tụng
nói rằng một ấn tượng khi cho chúng ta một sự tự tri về cái gì
đó và sau đó lại tạo thành xứ của vật thì phải tự chuyển biến
đến một giai đoạn quyết định nơi mà sự tự tri về cái gì đó hiện
khởi. Theo Tam Thập Tụng, tiến trình chuyển biến này là
một cấu trúc ngôn ngữ. Vì lẽ đó, ấn tượng hay chủng tử được cái
gì đó để lại trong thức chúng ta đúng là loại thông tin có thể
được xử lý. Và thông tin này phải được mã hóa theo một ngôn ngữ
được cho và nhờ vào ngôn ngữ đó, bởi vì sự chuyển biến của một
thức, mà thông tin này phải phụ thuộc, chỉ vận hành như một cấu
trúc ngôn ngữ chứ không phải cách gì khác. Như vậy, thuyết
chuyển biến của thức do Thế Thân đề ra trong Nhị Thập Tụng
và Tam Thập Tụng được xác chứng rõ ràng. Không còn sự mơ
hồ cũng như mâu thuẩn nào về ý nghĩa của nó để có thể gây ra
nhầm lẫn. Căn cứ vào đó, Thế Thân đã có thể nhận ra rằng một đối
tượng khi được định nghĩa như một nguồn thông tin, hay chính xác
hơn như một loại thông tin nào đó, không hiện hữu qua lượng
thông tin đó bởi vì tác dụng của thông tin là chỉ cho cái gì đó
ở ngoài và vượt khỏi nó, cho cái gì đó ở bên ngoài; hơn nữa, khi
thông tin đó được xử lý, nó sẽ trở thành một tri nhận về đối
tượng mà một thức nào đó thu thập được, chứ không phải về đối
tượng mà nó thật sự biểu trưng và cung cấp thông tin.
Có
thể nói rằng sự thất bại trong việc hiểu đúng thuyết chuyển biến
của thức của Thế Thân là nguyên nhân gốc rễ của quan niệm phổ
thông của rất nhiều nhà nghiên cứu cho rằng triết học của ông là
duy tâm luận như chúng ta đã đề cập trước đây. Ngay cả Wayman,
người đã chính xác đặt ra vấn đề liệu có phải học thuyết Du già
của Thế Thân là duy tâm luận, bằng cách chỉ ra rằng nếu có thể
hiểu duy tâm luận qua các khẳng định như “thức là thực tại duy
nhất” thì thật rất khó giải thích tại sao Thế Thân lại thừa nhận
sự tồn tại độc lập của một phạm trù gồm các pháp không tương ứng
với thức cũng không tương ứng với vật, thì chính Wayman hình như
vẫn sẵn sàng gán ghép một loại duy tâm luận nào đó cho Nhị
Thập Tụng, nếu không muốn nói là Tam Thập Tụng. Đây
quả là điều không may.
Nếu chính sự chuyển biến của thức khiến cho một ấn tượng có thể
chuyển hóa thành một tri nhận đầy đủ thì sự chuyển biến này xảy
ra như thế nào? Trong Tam Thập Tụng, khi giới thiệu và
nhấn mạnh khái niệm chuyển biến, Thế Thân chỉ nói rằng “sự
chuyển biến của thức là một cấu trúc ngôn ngữ” sau khi chứng
minh nó có ba loại, và chỉ có thế. Vì vậy, đối với Tam Thập
Tụng, nó không cho chúng ta trả lời rõ ràng nào về câu hỏi
vừa nêu. Tuy nhiên, các sớ giải về nó lại cho nhiều thông tin
hơn về điểm này. Chẳng hạn như sau khi hỏi “chuyển biến là gì?”,
An Huệ đã đưa ra trả lời sau:
Đó
là một tình trạng trở thành khác đi. Khi một quả tự đắc cùng
thời với sát na diệt của nhân và khác biệt một cách đặc trưng
với sát na đó của nhân, đó là sự chuyển biến. Vào sát na đó, do
sự xử lý toàn bộ các ấn tượng của cấu trúc ngôn ngữ như ngã,
v.v., và do sự xử lý toàn bộ ấn tượng của cấu trúc ngôn ngữ như
pháp, v.v, mà cấu trúc ngôn ngữ sinh khởi như sự tự tri về chính
nó và như sự tự tri về đối tượng từ thức-xử-lý. Sự tự tri này về
chính nó và sự tự tri này về đối tượng, do cấu trúc ngôn ngữ, có
tác dụng của một sự thật khách quan giống như sự mô tả về ngã,
v.v., và giống như sự mô tả về pháp như sắc trần, v.v., trong sự
thường hằng của nó cho dù không có bất kỳ ngã hay pháp nào ở bên
ngoài, giống hệt như sự mô tả các sợi lông và các vòng của một
người mắc bệnh bạch chướng nhãn. Một mô tả là một từ mà nó không
có hàm ý những gì nó là và không áp dụng vào chỗ nó phải là,
giống hệt như khi người ta dùng từ “con bò” để mô tả một Bāhikā.
Vậy thì, theo An Huệ, chuyển biến có nghĩa rằng một ấn tượng,
khi được một đối tượng để lại trong cái gọi là thức-chứa-đựng,
đã tự chuyển biến qua tiến trình của cấu trúc ngôn ngữ cho đến
điểm mà ở đó nó có thể dẫn khởi một thức vào việc nhận biết về
chính nó và về ấn tượng. Một khi sự tự ý thức về chính nó và về
ấn tượng này xảy ra, thì do cấu trúc ngôn ngữ của nó mà nó có
tác dụng như một mô tả về ngã và pháp khi có sự phụ thuộc như
một sự thật khách quan. Nói cách khác, khi một ấn tượng trong
tiến trình chuyển biến của nó kích khởi một thức thành sự tự tri
về chính nó và về ấn tượng thì ấn tượng này trở thành một mô tả
về sự vật mà sự vật này phụ thuộc vào nó như một sự thật khác
quan. Theo nghĩa này, rõ ràng sự chuyển biến của thức thật sự là
một cấu trúc ngôn ngữ. Thật vậy, toàn bộ tiến trình chuyển biến
là sự xử lý một ấn tượng thành một mô tả về một vật, không hơn
không kém. Vì thế, cái ta biết về ngoại cảnh hoàn toàn tùy thuộc
sự xử lý đó. Qua nó, một ấn tượng do một đối tượng để lại có thể
kích khởi thức của chúng ta thành một sự nhận biết về chính
chúng ta và về ấn tượng mà đối tượng để lại. Và từ sự nhận biết
này, ta có thể hình thành một mô tả chính xác về đối tượng mà ấn
tượng này ám chỉ. Sự nhận biết về chính mình và về ấn tượng vì
thế rất thiết yếu cho vận hành của tiến trình. Thật vậy, nếu
không có nó, thật khó hình dung làm thế nào toàn bộ tiến trình
chuyển biến có thể hoạt động được, bởi vì ấn tượng sẽ giữ nguyên
như nó là. Không có điểm cuối cùng để đạt đến và cũng không có
mô tả nào được tạo về một vật khi có sự tùy thuộc như sự thật
khách quan. Tiến trình chuyển biến của một thức như vậy đã được
An Huệ trình bày rất rõ ràng. Pháp Hộ cũng đưa ra một giải thích
tương tự, nếu không phải là tương đồng, về cơ cấu hoạt động của
tiến trình này. Tuy nhiện, do quan điểm được một số tác giả chủ
trương mà về mặt này Pháp Hộ vẫn giữ một vài ý kiến rất khác
biệt với An Huệ. Chúng tôi phiên dịch một đoạn thường được trích
dẫn của ông và đồng thời trình bày phần giải thích thêm của
chúng tôi:
Các thức này tự chuyển biến thành cấu trúc ngôn ngữ và những gì
được thiết lập bằng ngôn ngữ. Vì điều này, cái được thiết lập
bằng ngôn ngữ không hiện hữu. Vì vậy, bất kỳ cái gì hiện hữu chỉ
là cái khiến ta biết.
Luận thư nói: những gì được gọi là ‘các thức này’ là ba thức
chuyển biến nói trên và các thuộc tính của chúng. Các thức này
có thể tự chuyển biến thành phần thấy (kiến phần) và phần bị
thấy (tướng phần). Vì thế, chúng được gọi là ‘chuyển biến’.
Những gì được chuyển thành phần thấy được gọi là ‘cấu trúc ngôn
ngữ’, đó là vì nó có thể tri nhận phần bị thấy. Những gì được
chuyển thành phần bị thấy được gọi là ‘được cấu trúc bằng ngôn
ngữ’, đó là vì nó được tri nhận bởi phần thấy. Do lý luận này,
các thực ngã và thực pháp kia chắc chắn không hiện hữu nếu không
có những gì được chuyển biến bởi thức. Đối với sự tự chuyển biến
thành phần nắm bắt và phần được nắm bắt, sẽ không hiện hữu một
pháp độc lập nào cả. Không có thực pháp nào hiện hữu nếu không
có hai phần đó. Vì vậy, bất kỳ cái gì hiện hữu, hoặc hữu vi hoặc
vô vi, hoặc thực hoặc mộ tả, đều cùng có với thức.
Đọc đoạn trên, quan niệm của Pháp Hộ về chuyển biến của thức
chắc chắn không khác với An Huệ mặc dù phê phán minh nhiên của
ông về thuyết nhận thức-một dạng của An Huệ và cách diễn giải kỳ
lạ của ông về câu văn tiếng Phạn của Thế Thân. Hai điều này
không đáng quan tâm ở đây. Chừng đó cũng đủ để nói rằng phê phán
của ông về thuyết nhận thức-một dạng của An Huệ đối với chúng ta
hình như không được bảo đảm và hoàn toàn không thuyết phục,
giống hệt như trường hợp ông phê phán thuyết nhận thức-hai dạng
của Trần Na và trường hợp quan điểm ông đề ra về nhận thức-ba
dạng. Về cách diễn giải kỳ cục của ông đối với câu văn chữ Phạn
của Thế Thân, khi xét từ quan điểm ngữ pháp thuần túy thì sự
diễn dịch này thật sự không hợp lý, nếu giả như Huyền Tráng đã
chuyển ngữ bản gốc Phạn văn một cách trung thành và chính xác,
một giả thiết mà ta có thể nghi ngờ và không tin tưởng khi xét
đến các bản dịch khác của ông, những bản dịch mà các bản gốc
Phạn văn vẫn còn giữ được và cho thấy có sự khác biệt đáng kể.
Dù
sao thì ý nghĩa bài tụng của Thế Thân cũng rất rõ ràng, và một
diễn giải sai về nó như của Pháp Hộ cũng không có hại gì nghiêm
trọng cho nó. Thật vậy, ý nghĩa bài tụng đó đủ mạnh để buộc ta
phải chấp nhận cách phân tích câu và giải thích của Pháp Hộ là
khả năng duy nhất, cho dù diễn giải này không đúng về ngữ pháp.
Bởi vì nếu nghĩ rằng chuyển biến của thức là một cấu trúc ngôn
ngữ, điều tất yếu là phải có cái gì đó được cấu trúc bằng ngôn
ngữ. Nếu không, bàn về cấu trúc ngôn ngữ để làm gì? Thật ra, sẽ
không có cấu trúc ngôn ngữ nào cả nếu không có các sự vật được
cấu trúc bằng ngôn ngữ để qua đó cấu trúc ngôn ngữ có thể biểu
hiện. Vì thế, khi Thế Thân nói “chuyển biến của thức là một cấu
trúc ngôn ngữ”, ta mong đợi ông sẽ nói tiếp về “cái được cấu
trúc bằng ngôn ngữ”, không kể là lời nói này có được tiếp nối
bởi một câu nói khác hay không. Kết quả, ta không thể cáo buộc
Pháp Hộ là không hiểu Phạn văn của Thế Thân, một điều không đúng
với bất kỳ một tí tưởng tượng nào; ta cũng không thể cáo buộc
ông đã diễn giải một cách táo tợn tư tưởng của Thế Thân. Mặc dù
ngữ pháp tồi, nếu ta tin tưởng Huyền Tráng đã chuyển ngữ Phạn
văn của ông một cách trung thành và đúng, thì qua đoạn văn dẫn
trên Pháp Hộ vẫn cho chúng ta một trần thuật dễ hiểu và hoàn
toàn hợp lý về thuyết chuyển biến của thức của Thế Thân.
Khi Pháp Hộ nói “các thức này có thể tự chuyển thành phần thấy
và phần bị thấy”, điều ông thật sự muốn nói là các ấn tượng có
thể tự chuyển thành sự tự tri về chính nó và sự tự tri về ấn
tượng. Bởi vì trong trang trước, ông đã đống nhất chữ “thức” với
“chủng tử” như đã thấy.
Ngoài ra trong khi khảo sát thuyết nhận thức-hai dạng được Trần
Na bổ chú thêm, Pháp Hộ đã biểu trưng thuyết này qua các phần
nhìn thấy và được nhìn thấy. Vì thế, những gì được đặt tên là
phần thấy và phần được thấy trong cách dùng từ của Pháp Hộ chính
là “sự tự tri về chính nó” và “sự tự tri về sự vật” của Trần Na.
Ý nghĩa của câu nói dẫn trên của Pháp Hộ như vậy hoàn toàn rõ
ràng. Đối với ông, nó có nghĩa khi một ấn tượng được một đối
tượng để lại, nó có thể tự chuyển thành sự tự tri về chính nó và
sự tự tri về ấn tượng. Do chính sự chuyển biến này mà cả hai sự
tự tri này không hiện hữu, vì cuối cùng nhất định chúng phải
chuyển thành chỉ một tri nhận chín muồi. Kết quả, “bất cứ cái gì
hiện hữu, hoặc hữu vi hoặc vô vi, hoặc thật hoặc mô tả, đều chỉ
là cái khiến ta biết”. Vì vậy, nếu ta so sánh quan điểm này của
Pháp Hộ với quan điểm của Trần Na ở trên, thì chúng hoàn toàn
đồng nhất. Nếu Pháp Hộ nói “các thức này có thể tự chuyển thành
phần thấy và phần được thấy”, An Huệ sẽ nói lại “do sự xử lý
toàn bộ các ấn tượng thuộc cấu trúc ngôn ngữ như ngã, v.v., và
do sự xử lý toàn bộ các ấn tượng thuộc cấu trúc ngôn ngữ như
pháp, v.v., mà cấu trúc ngôn ngữ hiện khởi như sự tự tri về
chính nó và như sự tự tri về sự vật từ thức-xử-lý.” Vậy thì rõ
ràng không phải sự diễn dịch của Pháp Hộ về sự chuyển biến của
thức như là sự chuyển biến thành cái gọi là phần thấy và phần
được thấy đã làm cho tư tưởng ông về vấn đề này trở thành “một
loại duy tâm luận”; cũng không phải một diễn dịch như thế đã
đánh mất luận giải của An Huệ vốn chuyển tải, theo quan điểm của
ông, một “thuyết về thực tại”, như phần đông đã tưởng. Họ hoàn
toàn thống nhất với nhau khi trình bày thuyết chuyển biến của
thức do Thế Thân đề ra.
Sự
thống nhất này rõ ràng không gây nhiều ngạc nhiên cho bất cứ ai
đã quen với nội dung của Nhị Thập Tụng. Trong đó, Thế
Thân nói “Chủng tử của riêng nó, từ đó cái khiến ta biết sinh
khởi như một sự tự tri về một vật, chủng tử đó đạt đến điểm
quyết định của sự chuyển biến của nó, chủng tử đó ở một phía, và
chủng tử mà nó sinh khởi như một sự tự tri về chính nó, ở phía
kia, những cái này là hai cái mà Thế Tôn tuyên bố là ‘xứ của
mắt’ và ‘xứ của vật’.” Nay ta có thể so sánh câu nói này với hai
đoạn văn dẫn trên của An Huệ và Pháp Hộ. Một điều hiển nhiên là
cốt lõi quan niệm về sự chuyển biến của thức của hai người này
đều rút ra từ chính câu nói được trích dẫn trên. Cả hai đều đặt
quan niệm chuyển biến của mình trên sự tiến hóa của chủng tử hay
ấn tượng thành sự tự tri về chính nó và sự tự tri về chủng tử
hay ấn tượng. Tóm lại, dù trong Tam Thập Tụng, Thế Thân
đã không đưa ra một trần thuật rõ ràng quan điểm của ông về sự
chuyển biến của thức nhưng chúng ta tin tưởng vẫn có thể có một
khái niệm chính xác về ý nghĩa của nó nhờ vào Nhị Thập Tụng
và các luận thư của hai người ủng hộ ông là Pháp Hộ và An Huệ.
Thuyết chuyển biến của thức như được mô tả ở đây vì thế hoàn
toàn mới và khác hẳn với những gì Thế Thân quan niệm trong các
tác phẩm trước của ông. Chẳng hạn, trong Câu Xá Luận, sau
khi hỏi “Dòng thức là gì? Chuyển biến là gì? Điểm quyết định là
gì?”, ông đã trả lời như sau:
Dòng thức là dòng chảy liên tục của thức trước một hành động. Sự
dâng khởi của dòng chảy này và sự trở thành khác đi của nó là sự
chuyển biến. Và khi do tính chất đặc biệt của sự chuyển biến
cuối cùng mà nó có thể sinh khởi một quả ngay sau chuyển biến
cuối cùng đó, thì đó là điểm quyết định của sự chuyển biến.
Quan niệm được Câu Xá Luận định nghĩa như thế rõ ràng rất
thẳng thắn và đơn giản. Nó không liên quan gì đến quan niệm sự
chuyển biến của thức là sự chuyển biến của một ấn tượng thành sự
tự tri về chính nó và sự tự tri về ấn tượng mà Nhị Thập Tụng
nhấn mạnh và được Pháp Hộ và An Huệ lập lại trong các tác phẩm
của họ. Sự tương phản giữa hai luận thư này vì thế rất dễ thấy.
Tất nhiên, ta có thể hỏi tại sao một tương phản nổi bật như thế
lại xảy ra, một tính chất đã tách rời Nhị Thập Tụng với
quan niệm đơn giản ban đầu của Câu Xá Luận về thuyết
chuyển biến. Thế nhưng, ta không thể phủ nhận là tương phản đó
không tồn tại.
Thật vậy, ta có thể nói rằng tương phản đó không những đánh dấu
hai thời kỳ tư tưởng của Thế Thân, mà là toàn bộ tư tưởng ông
đối với tư tưởng của những người đương thời và đi trước ông, bởi
vì không có nơi nào có thể tìm thấy một quan niệm về chuyển biến
của thức như được trình bày trong Nhị Thập Tụng.
Dĩ
nhiên, quan niệm chuyển biến của thức dưới nhiều tên gọi khác
nhau đã có một lịch sử lâu đời và phức tạp. Có thể nói rằng quan
niệm này bắt nguồn cùng với các nhà văn phạm. Với đặc điểm về
biến cách của tiếng Phạn, họ đã tự hỏi tại sao một chữ có thể
biến cách mà không đánh mất nguyên nghĩa của nó. Lúc đầu, đó chỉ
là một sự thay đổi về luật phối âm do những lý do hài âm, chẳng
hạn
e
> a hay i > y
Trước một nguyên âm. Khi mô tả các biến cách ngữ học, các tác
giả của nhiều Prātisākhya khác nhau đã nói về trường hợp
một âm đổi thành một âm khác. Như
Ṛgvedaprātiśākhya
ghi lại quy tắc nói rằng “nhóm từ ‘cái này đến cái kia’ có nghĩa
là trở thành cái kia, liên quan đến âm đứng gần nó nhất”. Và
Taittirīyaprātiśākhya nói về việc “trực bổ cách đặt tên cho
một sản phẩm của sự chuyển biến”. Tuy nhiên, khi Aṣṭādhāyā
của Pānini xuất hiện, thay vì bàn về sự chuyển âm, nó đã dựa vào
thuyết thay thế một âm bằng một âm khác và vì thế đặt ra yêu cầu
chữ thay thế phải được xem như chữ gốc trừ khi nó chỉ thị cách
khác.
Trong trường hợp có hai thuyết đổi âm được sử dụng cùng lúc và
hình như có tính chất loại trừ nhau này, Patañjali đã đề nghị
một giải pháp thú vị. Ông nói rằng sự thay thế cũng là sự chuyển
biến. Tại sao? Bởi vì thay thế chỉ là một chuyển biến của quả.
Vậy, sự chuyển biến này của quả có nghĩa gì? Ông cho thí dụ rằng
theo Pānini II. 4. 52 thì động từ căn bhū là một thay thế
cho động từ căn as khi chữ này có tiếp vĩ ngữ thuộc loại
ārdhadhātuka. Theo ông, những gì xảy ra trong sự thay thế
này là với một tiếp vĩ ngữ mới thì động từ căn as cho
chúng ta một tình huống mới giống như khi người nói nói với
người nghe trước tiên về cây xoài và sau đó về những cây vả. Sự
chuyển biến của quả trong hai trường hợp này không phải là những
gì xảy ra cho động từ căn as hay cho cây cối, mà là xảy
ra cho hiểu biết của chúng ta về cả hai điều này. Vì thế, đối
với Patañjali, chuyển biến của quả là chuyển biến của tâm, một
buddhiviparināma.
Khái niệm kỳ lạ này về sự chuyển biến của tâm được đưa ra ở đây
làm chúng ta nhớ ngay đến thuyết chuyển biến của thức do Thế
Thân đề ra. Tất nhiên, chúng ta không biết chính xác Thế Thân đã
rút ra thuyết của ông từ thuyết của Patañjali ở mức độ nào.
Câu Xá Luận có ghi những trích dẫn từ Pānani và rất nhiều
luận giải về cấu trúc đúng văn phạm của một từ hay một câu. Thế
nhưng không có đề cập công khai nào đến tên của Patañjali. Một
điều cũng rất quan trọng là Thế Thân đã bắt đầu Tam Thập Tụng
với một luận đề liên quan đến vấn đề mô tả được biết đến dưới
tên “upacāra” nhưng không định nghĩa từ này là gì. Như sẽ
thấy ở chương kế tiếp của nghiên cứu này, ý nghĩa mà các nhà
bình giải luận thư trên đã gán cho từ này xuất phát từ chính
Patañjali. Vậy điều hiển nhiên là nếu Thế Thân đã quá quen với ý
nghĩa của từ upacāra thì ông hẳn đã dựa vào giải thích
của Patañjali và phải đồng ý với giải thích này. Với những chứng
cứ cụ thể này, ta không thể không kết luận rằng Thế Thân chắc
hẳn đã trình bày thuyết chuyển biến của thức trên cơ sở quan
niệm của Patañjali về chuyển biến của tâm. Thật không may, vấn
đề sự chuyển biến của tâm vận hành như thế nào đã không hề được
Patañjali bàn đến.
Vì
lẽ đó, chúng ta buộc phải kết luận rằng cho dù Thế Thân có rút
ra thuyết chuyển biến thức của ông từ quan niệm chuyển biến tâm
của Patañjali, nhưng chính Thế Thân là người đã hiểu đúng, đánh
giá đúng và phát triển quan niệm này thành một lý thuyết không
còn sự mơ hồ và mâu thuẩn nào cả. Và đó là điểm độc đáo của
thuyết chuyển biến thức của Thế Thân, một thuyết không tìm thấy
ở nơi nào khác và đã giúp phân biệt nó với tất cả các quan niệm
khác về sự chuyển biến mà nó thường được mang ra so sánh.
Chắc chắn không thể đem so quan niệm của Số luận về chuyển biến
cũng như lý thuyết về hiện hành của Vedānta với thuyết của Thế
Thân, vì một lý do đơn giản là thuyết của ông không được quan
niệm theo những điều kiện thuộc bản thể học. Đúng hơn, trong mọi
trường hợp, nó là một phát biểu về cơ cấu vận hành khả hữu của
khả năng nhận thức của chúng ta. Một lần nữa, do không nhận ra
nét đặc trưng này mà rất nhiều tác giả đã gọi Thế Thân là “nhà
duy tâm luận”, đồng thời khăng khăng rằng “theo các nhà thức học
(Vijñānāvādin) thì thức (vijñāna) là nguồn gốc (ālayavijñāna)
của tất cả, kể cả bảy thức tác dụng (pravṛttivijñāna),
mà bên ngoài nó không có gì thật sự hiện hữu”.
Thật ra, chính nét đặc trưng này đã thôi thúc chúng ta xem xét
và tìm ra nguồn gốc thuyết của Thế Thân trong khái niệm về
chuyển biến tâm được đề cập trong tác phẩm của Patañjali. Cả hai
đều đạt được kiến giải thâm áo của mình từ việc nghiên cứu các
vấn đề được đặt ra bởi công dụng của ngôn ngữ con người. Cả hai
đều đạt đến những kết luận như nhau, mặc dù chủ ý và phương pháp
của họ khác nhau. Với Patañjali, ông đã sử dụng khái niệm chuyển
biến tâm để có thể thiết định luận đề từ ngữ thì vĩnh hằng,
trong khi với Thế Thân một luận đề như thế không hề hiện hữu.
Ông hướng đến thuyết chuyển biến của thức bằng chính định nghĩa
của ông về tri nhận là gì và đó là kết quả trực tiếp của việc
ông nghiên tầm luận lý. Trong bất cứ trường hợp nào thì đó vẫn
là một lý thuyết độc đáo của ông về mặt qui mô cũng như những
trình bày chi li của nó.
Nó
phát biểu rằng chuyển biến của thức chỉ là sự chuyển đổi một ấn
tượng thành một sự tự tri về chính nó và sự tự tri về đối tượng,
và cả hai cùng đưa đến một tri thức toàn vẹn có thể được định
nghĩa qua ngôn ngữ mà nó được diễn tả. Tóm lại, nó là một cấu
trúc của ngôn ngữ. Trong tiến trình cấu trúc ngôn ngữ này, quan
niệm tự tri đóng một vai trò quan trọng mà không có nó ta không
thể nào mô tả sự chuyển biến đó, như đã thấy. Thật vậy, không có
nó sẽ không thể nhận ra nét đặc trưng nào trong thuyết của Thế
Thân, một thuyết không tìm thấy nơi nào khác trong số rất nhiều
luận sư đã dùng đến từ ngữ “chuyển biến”.
Trong chương trước, ta đã thấy rằng quan niệm tự tri được đưa
vào hệ thống Thế Thân như là kết quả những nỗ lực của ông nhằm
giải quyết vấn đề tri nhận. Ở các thời kỳ trước đó, tri nhận đã
được cho là bất khả thuyết. Nó chỉ là một “cảm thọ thuần túy”,
một kinh nghiệm nội tại không thể chia sẻ. Cách nghĩ này về tri
nhận đã tạo ra nhiều vấn đề hơn là giải quyết. Ngay cả đến thời
của Thế Thân, những vấn đề này dường như cũng không thể nào
quyết định được. Điểm mấu chốt của vấn đề dĩ nhiên là làm thế
nào để liên kết kinh nghiệm tri giác với nhận thức ngôn ngữ
trong đó nó được hiển bày. Và vấn đề chủ chốt này đã được Thế
Thân gỡ bỏ trước tiên bằng định nghĩa tri nhận không phải như
một cảm thọ đơn thuần mà là bằng vào ngôn ngữ qua đó, rốt cùng,
nó được diễn tả như đã thấy. Và rồi ông đã tiếp tục đưa ra lý do
tại sao một định nghĩa như thế phải được cần đến về mặt luận lý.
Ông chỉ ra như một sự thật tất yếu rằng mọi tri nhận, tự thể
tánh, đều là sự tự tri, có nghĩa là nếu ta biết cái gì đó thì
không chỉ ta biết nó, mà còn biết rằng ta biết nó. Đây là những
gì về sau Trần Na gọi là thuyết nhận thức có dạng kép. Một khi
khái niệm tự tri được thừa nhận như một sự thật hiển nhiên thì
điều còn lại là minh giải nó có tác dụng như thế nào trong tiến
trình tri nhận của một người. Điều này đã mang lại thuyết chuyển
biến nói trên của thức. Vậy, cái sinh khởi một yếu tố chủ chốt
có tên là tự tri như thế trong đời sống ý thức của chúng ta là
gì?
Để
trả lời câu hỏi này, ta nên lưu ý phát biểu vủa An Huệ được dẫn
trước đây. Ông nói rằng “do sự xử lý toàn bộ các ấn tượng thuộc
cấu trúc ngôn ngữ như sự vật, v.v., mà cấu trúc ngôn ngữ sinh
khởi như sự tự tri về chính nó và như sự tự tri về sự vật từ
thức-xử-lý”. Như vậy, theo ông, chính cấu trúc ngôn ngữ sinh
khởi như sự tự tri sau khi đã được xử lý, và chính cấu trúc ngôn
ngữ có tác dụng như một ấn tượng đang được xử lý. Tóm lại, tự
thân sự tự tri đến lượt nó chỉ là một cấu trúc ngôn ngữ. Tất
nhiên, một nhận xét như thế sẽ không làm ngạc nhiên nếu luận đề
tổng quát được Thế Thân phát biểu là: sự chuyển biến của thức là
một cấu trúc ngôn ngữ; có nghĩa là sự vận hành của toàn bộ đời
sống ý thức được quyết định hoàn toàn bởi, và phụ thuộc trọn vẹn
vào, ngôn ngữ, dù là ngôn ngữ nói hay ở dạng nào khác. Cái làm
chúng ta ngạc nhiên là quan niệm cho rằng ấn tượng có thể được
xem như một cấu trúc ngôn ngữ. Điều này có nghĩa gì? Có phải An
Huệ đang cho chúng ta một trần thuật về quan điểm của Thế Thân
hay đang lồng ghép quan điểm của riêng ông vào vấn đề này?
Để
giải đáp những nan đề này, chúng ta hãy tìm hiểu làm thế nào và
bằng cách nào một ấn tượng có thể được xem như một cấu trúc ngôn
ngữ. Phương cách hiển nhiên nhất là xem nó như đang chỉ cho một
ấn tượng ngôn ngữ mà ta có thể nhận được từ một người khác.
Trong trường hợp đó, dĩ nhiên ấn tượng thật sự là một cấu trúc
ngôn ngữ. Nếu có người nói với tôi điều gì đó, chắc chắn anh ta
sẽ gây cho tôi một ấn tượng ngôn ngữ. Không còn nghi ngờ gì cả
về điều này. Tuy nhiên, khi Thế Thân nói “chuyển biến của thức
là một cấu trúc ngôn ngữ” và An Huệ diễn giải “cấu trúc ngôn ngữ
sinh khởi từ thức-xử-lý như sự tự tri về chính nó và như sự tự
tri về ấn tượng do sự xử lý trọn vẹn ấn tượng thuộc cấu trúc
ngôn ngữ như ngã và pháp, v.v.,” thì ấn tượng được nói đến ở đây
không còn tự giới hạn trong ấn tượng ngôn ngữ được tạo ra bởi
lời lẽ của người khác khi mà những lời lẽ này được thốt ra trong
một số tình huống đặc biệt. Bởi vì sự chuyển biến của thức được
cho là có ba loại như đã nói và không chỉ bao gồm sự nhìn, sự
nghe, mà còn cả xúc chạm, suy nghĩ, nếm, v.v, và những tri giác
này chắc chắn không bao gồm bất kỳ ấn tượng ngôn ngữ có thật nào
nhận được từ bên ngoài, dù là ngôn ngữ nói hay các dạng khác.
Vậy, làm thế nào ta có thể nói rằng chuyển biến của thức là một
cấu trúc ngôn ngữ? Làm thế nào các ấn tượng có thể được xử lý
bởi cấu trúc ngôn ngữ để được xem là ấn tượng ngôn ngữ?
Trả lời câu hỏi này, Thế Thân đề nghị giải pháp sau. Ông lập
luận rằng mặc dù chuyển biến của thức là một cấu trúc ngôn ngữ,
nó chỉ có thể tiếp diễn qua “sự tác động hỗ tương”. “Tác động hỗ
tương” này là gì? An Huệ trả lời:
Bằng tác động hỗ tương, điều này có nghĩa khi sự vận hành của
việc xử lý các ấn tượng riêng của nó hoàn tất thì thức của mắt,
v.v., là hiện hành của sự chuyển biến của thức-xử-lý khi ấn
tượng của nó đạt đến điểm quyết định. Và sự chuyển biến của
thức-xử-lý đó là một hiện hành của thức của mắt, v.v. Như vậy,
qua tác động hỗ tương của chúng khi cả hai vẫn đang còn tác dụng
thì một cấu trúc ngôn ngữ như thế và như thế của nhiều loại sẽ
sinh khởi từ thức-xử-lý mà không có xen vào bất cứ vật gì khác.
Vì
thế, theo ông, nếu tiến trình chuyển biến vận hành qua sự tác
động hỗ tương thì chính tác động hỗ tương giữa thức-xử-lý và
thức-tri-nhận là điều Thế Thân muốn nói đến ở đây chứ không phải
điều gì khác. Dĩ nhiên, đây là một diễn dịch hoàn toàn thông
thường của từ này. Tuy nhiên, đây không nhất thiết phải là diễn
dịch duy nhất có thể có về từ này nhất là khi nhìn từ trường hợp
nó được sử dụng. Tam Thập Tụng nói:
Chuyển biến của thức là một cấu trúc ngôn ngữ; những gì được nó
cấu trúc bằng ngôn ngữ thì không hiện hữu; vì vậy, bất cứ cái gì
hiện hữu chỉ là cái khiến ta biết. Vì thức có mọi chủng tử, sự
chuyển biến của nó tiếp diễn theo những cách như thế và như thế
qua sự tác động hỗ tương để cho cấu trúc ngôn ngữ như thế và như
thế được tạo ra. Khi sự xử lý trước đó hoàn tất, ấn tượng của
hành động cùng với các ấn tượng của nhận thức có dạng kép tạo ra
một xử lý khác với xử lý trước.
Những gì được nói ở đây quá hiển nhiên. Dù chuyển biến của thức
vận hành qua sự tác động hỗ tương để cho một cấu trúc ngôn ngữ
có thể xảy ra, nhưng tác động hỗ tương này không nhất thiết chỉ
cho tác động hỗ tương giữa thức-xử-lý và thức-tri-nhận. Cả hai
phải tùy thuộc vào “ấn tượng của hành động” và “các ấn tượng của
nhận thức có dạng kép” thì trước tiên mới có tác dụng. Chính sự
tùy thuộc vào các ấn tượng này tạo thành cái gọi là các chủng tử
của thức-xử-lý, cái đã đặt ra vấn đề tác động hỗ tương giữa
thức-xử-lý và thức-tri-nhận trong dạng rõ ràng nhất của nó. Chắc
chắn, thức-xử-lý có thể tác động đến thức-tri-nhận vì chính nó
xử lý một ấn tượng thành một tri nhận nhờ vào sự chuyển biến.
Nhưng thức-tri-nhận chỉ có thể tác động đến thức-xử-lý khi được
cung cấp các ấn tượng, và không có gì khác. Chính các ấn tượng
này, hoặc khởi từ hành động của chúng ta hoặc từ dạng kép của
nhận thức, tác động trực tiếp đến vận động tiếp theo của tiến
trình. Vì thế, chính tác động hỗ tương giữa các ấn tượng quyết
định sự chuyển hóa của thức hơn là tác động giữa thức-xử-lý và
thức-tri-nhận, như An Huệ đã chủ trương. Nếu đúng như vậy, kết
luận hiển nhiên phải là không những các ấn tượng tác động lẫn
nhau mà thức của mỗi cá thể cũng thế. Bởi vì nếu toàn bộ đời
sống của một thức là một cấu trúc ngôn ngữ và tự thân cấu trúc
ngôn ngữ lại tùy thuộc phần lớn vào tiến trình nhận biết, thì
tác động của các thức khác lên thức của chính chúng ta phải xảy
ra.
Nay ta không biết Thế Thân có thật sự biết đến các hậu quả tai
hại, đặc biệt trong lãnh vực hoạt động tri thức, đối với những
người đã bị mất đi, ngay trong thời thơ ấu của họ, những kích
hoạt tình cảm và tri thức chủ yếu đến từ những người khác hay
không. Thế nhưng, chúng ta biết rằng trong các trường hợp đó,
các kết quả tai hại thật sự xảy ra, và đôi khi làm họ bị tổn
thương. Vì thế, khi định nghĩa chuyển biến của thức như một cấu
trúc ngôn ngữ, ta dứt khoát phải thừa nhận rằng thức của ta có
thể bị tác động dễ dàng bởi thức của người khác và ngược lại.
Khái niệm tác động hỗ tương được Thế Thân nói đến trước đây vì
thế cũng nên được xem như có hàm ý đến giả định vừa nói.
Một diễn dịch như thế về khái niệm tác động hỗ tương chắc chắn
không phải là điều mới lạ đáng ngạc nhiên. Thật vậy, ta còn có
thể tìm thấy điều đó hàm chứa trong quan điểm trên của An Huệ về
chính sự chuyển biến của thức. Khi ông nói, “do sự xử lý toàn bộ
các ấn tượng của cấu trúc ngôn ngữ như ngã, v.v., và do sự xử lý
toàn bộ các ấn tượng của cấu trúc ngôn ngữ như pháp, v.v., mà
cấu trúc ngôn ngữ sinh khởi từ thức-xử-lý như sự tự tri về chính
nó và như sự tự tri về ấn tượng”, thì rất rõ ràng là ông đã cẩn
thận nhắc đến hai lần các ấn tượng này là “các ấn tượng của cấu
trúc ngôn ngữ”. Có nghĩa là ngay trước khi hiện khởi như một sự
tự tri thì ấn tượng đã được mặc nhiên thừa nhận là một cấu trúc
ngôn ngữ. Một quan niệm như thế còn dễ thấy hơn trong luận giải
của Pháp Hộ. Sau khi nói rằng “tác động hỗ tương là tác động
giữa tám thức-hiện-hành và các phần thấy và được thấy kèm theo
của chúng, bởi vì chúng có năng lực tác động lẫn nhau”, ông tiếp
tục kể ra bốn điều kiện làm nhân giúp hiểu rõ về tác động hỗ
tương này. Ông nói:
Như thế, bốn điều kiện làm nhân này nương vào mười lăm xứ. Do sự
sai biệt khách quan giữa các xứ này nên phải lập thành mười điều
kiện làm nhân. Vậy, mười lăm xứ làm chỗ nương tựa đó là gì? Thứ
nhất là xứ nương tựa của ngôn ngữ, tức sự thật thuộc về ngôn
ngữ: một ý tưởng sinh khởi khi một vật được đặt tên. Có nghĩa
rằng nếu ta nương vào xứ này thì ta lập thành điều kiện làm nhân
phù hợp với những gì được nói, bởi vì dựa vào chỗ nương tựa đó,
ngôn ngữ mô tả được các đối tượng phù hợp với những gì ta thấy
và nghe. Đây là cái được gọi là sự nói ra là nhân của cái được
nói ra. Có luận thư nói đó là quan niệm xem tên gọi là ý tưởng,
bởi vì giống như nương vào chữ để nói ra một cách đúng đắn những
gì ta nắm bắt. Nếu nương vào quan niệm này thì hoàn toàn hiển
nhiên rằng điều kiện làm nhân chính là xứ nương tựa của ngôn
ngữ.
Đọc hết đoạn trên, ta có thể thấy ngay rằng đối với Pháp Hộ, một
chữ có thể được xem như một ý tưởng bất cứ khi nào nó sinh khởi
một ý tưởng, tức bất cứ khi nào sự nói ra là những gì được nói
ra. Nói cách khác, nếu tôi nói “tờ giấy này trắng” thì lời nói
này có thể đúng hoặc sai. Nếu thật sự tờ giấy là trắng thì lời
nói của tôi “tờ giấy này trắng” chính xác là cái được nói ra. Lý
thuyết thú vị về sự thật này của Pháp Hộ làm chúng ta nhớ đến
thuyết của Frege về sự thật là sự tương đương trong cố gắng của
ông nhằm phê phán quan niệm sự thật là sự phù hợp vào thời Trung
cổ. Tuy nhiên chúng ta không cần thiết biện luận về tư tưởng của
Pháp Hộ ở đây. Điều làm cho chúng ta hứng thú là việc ông nối
kết thuyết đó với những gì ta thấy và nghe, có nghĩa là sự thật
có thể được tìm kiếm không chỉ nhờ thấy, mà còn nhờ nghe. Như
vậy, khi thuyết minh thuyết về sự thật trong phạm vi của khái
niệm tác động hỗ tương, Pháp Hộ chỉ rõ quan điểm của ông là tác
động hỗ tương không những là tác động giữa nhiều tiến trình
chuyển biến khác nhau của thức mà còn là tác động giữa nhiều
thức khác nhau.
Cần lưu ý một lần nữa là sự diễn dịch này về khái niệm tác động
hỗ tương không phải không được biết đến trong các tác phẩm của
Thế Thân. Thật ra, nếu An Huệ không công nhiên thừa nhận điều
đó, ta vẫn có thể nói rằng Pháp Hộ đã rút ra quan điểm của ông
từ chính các tác phẩm này. Chẳng hạn, trong Nhị Thập Tụng,
Thế Thân đã đặt ra và giải quyết vấn đề tác động hỗ tương qua
các lời lẽ sau:
Nếu chính sự chuyển biến của dòng chảy của chính nó, khi đạt đến
giai đoạn quyết định, sinh khởi sự tự tri về một đối tượng như
là cái khiến ta biết, và nếu không phải chính đối tượng, khi đạt
đến giai đoạn quyết định của nó, đã làm vậy đối với chúng sinh,
thì làm sao ta có thể chứng thực rằng đối với chúng sinh, việc
quan hệ xã hội với bạn bè tốt hoặc xấu, hay việc lắng nghe các
giáo thuyết tốt hoặc xấu nhất định quyết định đến cái khiến ta
biết, vì trong cả hai trường hợp không có quan hệ xã hội tốt hay
xấu cũng không có giáo thuyết tốt hay xấu?
Đó
là do một tác động hỗ tương mà những gì khiến ta biết thì được
quyết định một cách hỗ tương.
Đó
là do tác động hỗ tương của những gì khiến ta biết mà những gì
khiến ta biết được quyết định một cách hỗ tương tùy theo các
trường hợp dành cho mọi chúng sinh. Hỗ tương có nghĩa là “cái
này lên cái kia”. Như vậy, chính do cái khiến ta biết được cho
trong một dòng thức riêng biệt sinh khởi cái khiến ta biết trong
một dòng thức riêng biệt khác, và điều này xảy ra mà không có
bất kỳ đối tượng riêng biệt nào cả.
Vậy thì rõ ràng, nói rằng “chính do cái khiến ta biết được cho
trong một dòng thức riêng biệt sinh khởi cái khiến ta biết trong
một dòng thức riêng biệt khác” cũng có nghĩa là trong sự chuyển
biến của thức, không chỉ có nhiều tiến trình chuyển biến khác
nhau tác động lẫn nhau mà nhiều thức khác nhau cũng tác động như
thế. Dĩ nhiên điều này không có gì kinh ngạc, vì điều đơn giản
là mỗi người phải học ngôn ngữ của mẹ mình, ở dạng nói hay ở các
dạng khác, để có thể thành công trong việc phát triển khả năng
tri thức và các khả năng khác trong cuộc sống sau này. Điều làm
kinh ngạc là quan niệm trên còn hàm ý rằng sự chuyển biến của
thức có thể được kích khởi bởi tác động của sự chuyển biến của
một thức khác, và vì thế sự tự tri, vốn đóng vai trò không thể
thiếu trong sự chuyển biến đó, thật sự sinh khởi do sự tương tác
giữa nhiều thức khác nhau. Nói cách khác, tự tri là một sản phẩm
của đời sống xã hội trong một cộng đồng ngôn ngữ được cho. Quan
niệm này mới lạ đến độ kinh ngạc bởi vì lần đầu tiên nó cho
chúng ta một giải thích trọn vẹn tại sao và làm thế nào ý thức
con người lại hoạt dụng theo cách và theo kiểu như chúng ta
biết. Cũng là lần đầu tiên nó giả định rằng để cho một thức có
tác dụng thì hai yêu cầu cơ bản phải được đáp ứng, đó là ngôn
ngữ và đời sống xã hội. Giả định này đúng hay sai thì chúng ta
phải cần nhiều chứng cứ hơn để quyết định. Thế nhưng, không còn
chút nghi ngờ nào nữa để thừa nhận là nó mới lạ đến kinh ngạc,
ngay cả khi xét đến các nghiên cứu ngày nay về vấn đề này.
Tất nhiên, không phải Thế Thân không biết đến vai trò của hành
động của con người trong tiến trình chuyển biến của một thức và
trong sự sinh khởi sự tự tri trong tiến trình đó. Trong trích
dẫn trên từ Tam Thập Tụng, chúng ta đã thấy ông nhấn mạnh
đến vai trò của hành động con người qua câu nói “khi sự xử lý
trước đó hoàn tất, thì các ấn tượng của hành động cùng với các
ấn tượng của nhận thức dạng kép tạo ra một sự xử lý khác với sự
xử lý trước đó”. Nói cách khác, chính các ấn tượng nhận được qua
nhiều hành động khác nhau của một người đã khởi đầu và tân tạo
tiến trình liên tục của sự chuyển biến mà thức trải qua. Hoặc
đơn giản hơn, chính những hành động của con người được biểu hiện
qua sự làm việc hay các phương diện khác đã kích khởi tiến trình
chuyển biến của ý thức con người trước tiên. Chúng là nội dung
chủ đạo (leit-motif) duy trì tiến trình đó mà không phải cái gì
khác. Tuy nhiên, để cho tiến trình đó vận hành, hai yêu cầu cơ
bản nói trên phải được làm tròn. Tóm lại, ta có thể nói rằng đối
với Thế Thân chuyển biến là một cấu trúc ngôn ngữ chỉ chừng nào
nó là một nỗ lực liên kết của hành động con người, của ngôn ngữ
con người và đời sống xã hội con người. Và đây có lẽ là những gì
được diễn tả bởi khái niệm tác động hỗ tương trong phát biểu
trước đây: “sự chuyển biến của thức tiếp diễn theo những cách
như thế và như thế thông qua tác động hỗ tương để cho cấu trúc
ngôn ngữ như thế và như thế được tạo ra”.
Với chính quan điểm này trong đầu mà chúng tôi đã dịch từ
“vipāka” là “xử lý” (processing) thay cho những gì thường
được chuyển ngữ là “hoàn báo” (retributory), như một điều
rất hiển nhiên từ những gì đã nói. Cách dịch sau, đối với chúng
tôi, hình như không bảo đảm mặc dù chính xác về mặt ngữ nguyên
học, bởi vì nếu chuyển biến của thức là một cấu trúc ngôn ngữ
thì không có gì trong chuyển biến đó được xem là “hoàn báo” hay
“tích chứa” (store). Hơn nữa, vipāka có nghĩa là
“chín” (ripening), hiển thị một tiến trình qua đó một sự
vật tự chuyển từ một trạng thái này sang một trạng thái khác. Và
vì chuyển biến của thức là một cấu trúc ngôn ngữ cho nên sự
“chín” của một ấn tượng ngôn ngữ không thể được chuyển ngữ thành
từ nào hay hơn từ “xử lý”, nhất là khi từ này được hiểu theo
cách dùng hiện nay trong khoa học thông tin.
Về
chữ “tích chứa”, nó là một chuyển ngữ đúng chỉ khi nào nguyên
gốc Phạn văn của nó được viết là ālaya. Tuy nhiên,
ālaya không phải là nguyên gốc Phạn văn độc nhất. Từ thời
Chân Đế, chúng ta biết rằng nó có thể viết là alaya, có
nghĩa là “không để mất”, “không bị chìm”. Như vậy, trong cách
đọc này, không có gì bảo đảm việc dịch nó là “tích chứa”, bất kể
là các thủ bản Tam Thập Tụng được khám phá ngày nay đọc
nó như thế nào, vì chúng có thể chỉ đại biểu cho một trong nhiều
cách đọc khác nhau. Tuy nhiên, là ālaya hay alaya,
thì ý nghĩa của nó vẫn rất rõ ràng chừng nào hình dung từ của nó
là “vipāka” vẫn còn được dùng đến. Nó có nghĩa là khi một
ấn tượng ở trong tiến trình xử lý thì nó ở đó, không bị mất, tức
nó được tích chứa ở đó mà không bị mất. Vì thế, dù nó có nghĩa
là “tích chứa” hay “không bị mất” thì nó vẫn tạo cho hình dung
từ của nó một thuộc tính hoàn toàn có ý nghĩa. Kết quả, chúng ta
nghĩ rằng cái gọi là thức ‘hoàn báo’ hay ‘tích chứa’ chỉ là một
thức xử lý theo nghĩa đầy đủ nhất của nó. Vì lẽ đó, chúng tôi đã
dịch nó theo cách như thế.
Nếu ý thức con người được quan niệm là một thức xử lý, chủ yếu
nhằm xử lý nhiều thông tin khác nhau được cho trong một dạng
thuộc ngôn ngữ, thì câu hỏi đặt ra là làm thế nào những thông
tin ngôn ngữ này được liên kết với những sự vật mà chúng được dự
định thông báo. Nói cách khác, nếu chuyển biến của thức là một
cấu trúc ngôn ngữ và cái được cấu trúc theo ngôn ngữ bởi cấu
trúc ngôn ngữ đó không hiện hữu thì làm thế nào cái phi hữu được
“cấu trúc theo ngôn ngữ” này có thể liên kết với ngoại vật để
cho chúng ta có thể nói rằng “tất cả bất cứ cái gì hiện hữu chỉ
là cái khiến ta biết” hay có thể định nghĩa tri nhận qua ngôn
ngữ mà nó được diễn tả? Đây là vấn đề chúng ta sẽ bàn đến ở
chương sau
dịch Việt:
Đạo Sinh.
--o0o--
|