|
TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
-
PHÂN BIỆT NGÔN NGỮ
-
&
TU CHỨNG
- Hồng Dương
- --o0o--
- (I)
-
Thông Minh Nhân Tạo.
- Chuyên gia
thông minh nhân tạo (AI; artificial intelli-gence) thường tìm
cách lập trình (program) các máy tính để chúng tác động như có
trí khôn. Đối với họ, thị giác, ngôn ngữ, người máy, hay toán
học, tất cả chỉ là vấn đề thảo chương (programming). Họ thấy
không cần biết thế nào là trí khôn và thế nào là thông hiểu. Họ
gạt ra ngoài máy thông minh phần quan trọng nhất của máy là trí
khôn hay trí thông minh! Thật ra, thông minh nhân tạo có thể chế
biến thành nhiều sản phẩm lợi ích, nhưng không thể nào tạo lập
được những máy thực sự thông minh.
- Não bộ không
thể ví như một máy tính vì máy tính và não bộ thành lập y trên
những nguyên lý khác nhau. Một đàng là do lập chương trình, một
đàng là tự học. Một đàng phải toàn hảo để hoàn tất công việc,
một đàng mềm dẻo, chấp nhận khuyết điểm và sai lầm. Một đàng có
trung tâm xử lý, một đàng không có sự điều khiển tập trung. Khác
biệt kể ra còn dài dài. Thông minh nhân tạo thành lập đồng thời
với các máy tính số tự (digital computer). Một trong những người
khởi xướng khái niệm thông minh nhân tạo có ảnh hưởng nhiều nhất
là Alan Turing, nhà toán học người Anh đã thuyết minh định lý kế
toán vạn năng: ‘Tất cả máy tính đều tương đương trên căn bản
luận lý dẫu được tạo lập theo bất cứ cách nào.’ Để chứng minh
quan điểm trên ông tưởng tượng mọi máy tính vạn năng cần có ít
nhất ba bộ phận thiết yếu: một hộp xử lý tương ứng với cái hiện
nay gọi là bộ xử lý trung tâm (CPU: Central Processing Unit),
một cuốn băng giấy làm bộ nhớ, và một thiết bị đọc và viết những
dấu trên băng giấy khi cuốn băng chạy qua chạy lại trên máy.
Turing dùng toán học chứng minh rằng nếu chọn một số tắc lệ
chính đáng cho bộ xử lý và cung cấp máy tính một cuốn băng giấy
dài vô tận thời máy có thể thực hiện bất kỳ tập hợp phép tính
nào có thể xác định trong vũ trụ. Một máy tính như vậy gọi là
máy vạn năng Turing. Định lý Turing về kế toán vạn năng đã dẫn
khởi cuộc cách mạng máy tính. Hết thảy máy tính số tự đều tương
đương trên phương diện luận lý.
- Sau đó Turing
xoay qua vấn đề làm thế nào để tạo lập một máy thông minh. Ông
cảm nhận máy tính có thể có trí khôn. Mặc dầu ông không bao giờ
định nghĩa rõ ràng “thông minh” hay “trí khôn” là gì, ông đề
xướng một cách chứng minh sự hiện hữu của thông minh, nổi danh
là phép thử nghiệm Turing: ‘Nếu một máy tính lừa được và khiến
người thẩm vấn nó tưởng rằng nó cũng là một người thời máy tính
ấy được định nghĩa là phải có trí khôn (thông minh).’ Từ đó, với
thử nghiệm Turing làm thước đo và máy Turing làm môi vật, Turing
giúp phát khởi ngành thông minh nhân tạo. Giáo điều chính yếu
của ngành: ‘Não bộ chỉ là một thứ máy tính.’ Trù hoạch tạo lập
một hệ trí khôn nhân tạo theo bất cứ cách nào là điều không quan
trọng. Điều quan trọng là phải tạo thành một hệ thống có tập
tính con người.
- Phe chủ
trương thông minh nhân tạo đối chiếu phép kế toán với sự suy
tưởng. Cả hai phía đều vận dụng biểu tượng. Turing cho rằng vận
dụng biểu tượng theo bất cứ cách nào, với một bộ máy răng cưa ăn
khớp nhau, với một hệ chuyển mạch điện tử, hay với mạng lưới tế
bào não, miễn môi vật tác dụng tương đương một máy vạn năng
Turing là được.
- Thêm vào đó,
vào năm 1943 nhà thần kinh sinh lý học Warren McCulloch và nhà
toán học Walter Pitts công bố kết quả nghiên cứu cho thấy các tế
bào trong mạng lưới não tác dụng giống như các cổng logic
(logical gates) trong các chip của máy tính. Theo hai ông,
neuron có thể kết nối với nhau một cách chính xác để thực hiện
những phép tính logic, chẳng hạn, các phép VÀ, BẤT, và HAY (and,
not, và or). Vin vào kết quả nghiên cứu, phe chủ trương thông
minh nhân tạo càng tin hơn vào giáo điều ‘não bộ chỉ là một thứ
máy tính’ mà không đòi hỏi bằng chứng thực nghiệm sinh học,
không thắc mắc các neuron kết nối nhau như thế nào để có thể
thực hiện những phép tính logic như vậy.
- Mặt khác, nửa
đầu thế kỷ 20, thuyết tập tính (behaviorism) chiếm ưu thế trong
ngành tâm lý học và góp phần hỗ trợ quan điểm triết học của
thông minh nhân tạo. Theo thuyết này, không tài nào biết được
những gì xảy ra trong não bộ. Não bộ được gọiù là một hộp đen.
Tuy nhiên, có thể quan sát và đo lường môi trường chung quanh
con thú và tập tính của nó. Tức là những sự vật nó nhận biết và
những hành vi nó tác động, những tín hiệu nó thu vào và những
tín hiệu nó phát ra. Thuyết này công nhận não có cơ chế phản xạ
(reflex mechanisms) có thể sử dụng như điều kiện buộc con thú
phải thay đổi tập tính bằng cách thưởng hay phạt. Hiểu biết
chừng ấy cũng đủ không cần nghiên cứu tìm hiểu thêm về não bộ,
nhất là những hiện tượng phức tạp liên quan tới đói khát, sợ
hãi, hay thế nào là thông hiểu (under-standing).
- Khi thế chiến
thứ hai chấm dứt, các máy tính số tự trở thành phổ dụng, các
chuyên gia thông minh nhân tạo lăn xả vào công việc thảo chương
(programming). Ban đầu, các chuyên gia thông minh nhân tạo rất
phấn khởi vì lập được một chương trình thành công tìm ra những
định lý toán học, nhưng xét kỹ thời toàn là những định lý đơn
giản và được phát minh từ lâu. Lại có những chương trình thiết
lập “hệ chuyên viên” (expert systems) tức cơ sở dữ liệu cất trữ
những sự kiện khả dĩ đáp ứng câu hỏi của những người sử dụng.
Chẳng hạn, một hệ chuyên viên y khoa có khả năng chẩn đoán nếu
cho biết một số triệu chứng, nhưng khả năng ấy rất giới hạn,
không nhu nhuyễn như trí khôn. Chương trình Deep Blue của IBM
đấu chess và thắng nhà vô địch thế giới nổi tiếng Gary Kasparov,
nhưng đó là do chuyển vận nhanh hơn nhiều triệu lần chứ không
phải thông minh hơn con người. Nó chơi chess nhưng không hiểu
chess là gì, giống như cái máy tính làm đủ phép toán mà không
hiểu toán là gì.
- Trong mọi
trường hợp, những chương trình AI nếu thành công thời chỉ thành
công hạn hẹp trong phạm vi riêng biệt nó được thiết lập. Giải
quyết nhiều vấn đề AI lúc đầu tưởng dễ nhưng đến nay vẫn không
thấy tiến bộ chút nào. Ngay bây giờ, không máy tính nào có thể
hiểu ngôn ngữ rành bằng đứa bé lên ba hay nhìn thấy cảnh vật
nhanh bằng một con chuột lắt. Sự thất bại của thông minh nhân
tạo trông thấy rõ qua tin tức các hãng công nghệ AI đóng cửa và
các khoa học gia chuyển sang nghiên cứu những ngành khác. Công
trình phát minh máy tính vạn năng của Alan Turing quả thật rất
hiển hách vì phát sinh cuộc cách mạng máy tính làm thay đổi thế
giới toàn diện, nhưng không phải qua ngã thông minh nhân tạo.
- Giáo sư
triết học John Searle, Đại học California tại Berkeley, xác
quyết máy tính không có và không thể có trí khôn. Vào năm 1980
ông nghĩ ra một thí nghiệm bằng trí tưởng tượng gọi là Phòng
tiếng Hoa (Chinese Room). Đó là một căn phòng với duy nhất một
đường hở trên một vách trong đó có một người nói tiếng Anh ngồi
trước một cái bàn. Trên bàn là một quyển sách chỉ dẫn to bự và
tất cả bút chì và giấy nháp có đủ cho người ấy cần đến. Lật các
trang sách, thấy các chỉ dẫn bằng Anh ngữ chỉ rõ cách sử dụng,
sắp xếp, và so sánh các chữ Hoa. Các chỉ dẫn không đả động đến ý
nghĩa mà chỉ cho biết làm thế nào sao chép, tẩy xóa, sắp xếp lại
thứ tự, chuyển dịch, vân vân các chữ Hoa.
- Một người từ
phía ngoài phòng nhét đẩy vào đường hở một mảnh giấy trên đó
viết một câu chuyện và những câu hỏi liên can đến câu chuyện
toàn bằng Hoa ngữ. Người ngồi trong phòng không nói và đọc được
một chữ Hoa nào, cầm lấy mảnh giấy, và dùng sách chỉ dẫn để thi
hành công việc. Áp dụng quy tắc này đến quy tắc khác, viết và
xóa các chữ, người ấy chỉ ngưng lại khi sách chỉ dẫn cho y biết
công việc đã hoàn tất. Cuối cùng y đã viết một trang giấy mới
đầy chữ Hoa trong đó là những câu trả lời y không hiểu mảy may
một chữ. Sách chỉ dẫn bảo y đưa trả lại trang giấy đó qua đường
hở. Y tuân theo lệnh và hoang mang không hiểu vừa làm xong việc
gì.
- Ở ngoài
phòng, một người Hoa đọc bản giấy và nhận xét các câu trả lời
hoàn toàn đúng, có ý nghĩa sâu sắc. Nếu ai hỏi có phải một trí
óc thông minh đã thông hiểu câu chuyện và trả lời các câu hỏi,
thời người Hoa này không ngần ngại trả lời ‘Đúng thế.’ Câu trả
lời của người Hoa này có đúng hay không? Ai là người thông hiểu
câu chuyện? Chắc chắn không phải người nói tiếng Anh ngồi trong
phòng. Cũng không phải quyển sách chỉ dẫn đặt trên bàn. Như thế
thời sự thông hiểu xảy ra từ đâu? Searle cho rằng không có sự
thông hiểu nào xảy ra. Đó chỉ là một số lần lật các trang sách
chỉ dẫn qua lại và quào quẹt những nét bút chì.
- Ông ví Phòng
tiếng Hoa với một máy tính số tự. Người nói tiếng Anh ngồi trong
phòng là bộ xử lý trung tâm và giấy nháp là bộ nhớ. Như vậy một
máy tính mô phỏng trí khôn bằng cách tạo ra những tập tính như
người được thành lập tài tình bao nhiêu đi nữa, máy đó vẫn không
có thông hiểu và không có trí khôn. Đáng lưu ý: Searle nói rõ
ông không biết trí khôn (thông minh) là gì; ông chỉ nói rằng trí
khôn có thể bất kỳ là thứ gì, máy tính không có nó. Lẽ cố
nhiên, thí nghiệm Phòng tiếng Hoa gây ra những cuộc tranh biện
sôi nổi. Điều phải chấp nhận là sự thông hiểu không xảy ra ở
bất cứ bộ phận nào của máy tính. Nhưng ‘thông hiểu’ là gì? Vấn
đề thiết yếu là phải tìm cách định nghĩa thông hiểu như thế nào
để có thể phân biệt được những khi một hệ thống có trí khôn (hệ
thông minh) và khi không có, khi hệ thống thông hiểu và khi
không thông hiểu. Tập tính của hệ thống không cho thấy biết
những điều ấy. Thật ra, khi đọc một câu chuyện, ta đâu cần vận
chuyển thi vi để thông hiểu. Ta có thể nằm yên đọc sách và mặc
dầu không bày tỏ tập tính ra ngoài, ta biết có sự thông hiểu rõ
ràng. Nếu ai hỏi có thông hiểu hay không thời sự thông hiểu của
ta thực sự xảy ra khi đọc chứ không phải khi trả lời câu hỏi.
Nói cách khác, không thể bằng vào tập tính bên ngoài mà đo lường
sự thông hiểu ở bên trong.
- Suốt nửa thế
kỷ qua, bao nhiêu tâm lực và tài lực đổ dồn vào việc lập chương
trình trí khôn đưa vào máy tính. Kết quả thực hiện là những bộ
xử lý từ (word processor), những cơ sở dữ liệu (database), những
trò chơi trên máy video (videogames), Internet, điện thoại di
động (mobile phones), ... ... Nhưng tất cả thứ máy đó không có
trí khôn. Con đường duy nhất để hiểu trí khôn là tìm trí khôn ở
ngay trong con người nói chung, trong não bộ nói riêng, chứ
không phải ở nơi máy tính.
-
Thông Tin và Biểu Tượng.
- Thông minh
nhân tạo là hiện thân của cái thuyết tánh biết gọi là thuyết “kế
toán - ký hiệu” (computationalist- symbolic; cognitivism).
Thuyết này giả thiết biết là xử lý các ký hiệu theo phương cách
của một máy tính số tự. Nói cách khác, tánh biết là tâm lý biểu
tượng (mental representation), nghĩa là, tâm thức vận hành bằng
cách xử lý các ký hiệu biểu thị những nét đặc thù của thế giới
hay biểu thị thế giới tồn tại theo một cách nào đó. Theo thuyết
kế toán – ký hiệu, khảo sát tánh biết qua những tâm lý biểu
tượng thời nhận ra được lĩnh vực đích thực của khoa học tánh
biết. Như vậy, lĩnh vực của khoa học tánh biết độc lập với cả
khoa sinh học thần kinh (neurobiology), lẫn khoa xã hội học và
khoa nhân loại học (anthropology).
- Hơn nữa, dùng
máy tính mô hình tánh biết vấp phải hai khuyết điểm quan trọng.
Khuyết điểm thứ nhất là “đường thắt nghẽn Von Neumann” (Von
Neumann bottleneck) tức xử lý ký hiệu thông tin bắt buộc phải áp
dụng một cách tuần tự các qui tắc kế toán, mỗi lúc một qui tắc
mà thôi. Như thế, trong trường hợp gặp phải công việc cần số lớn
kế toán theo trình tự như phân tích hình ảnh hay tiên đoán thời
tiết, đường thắt nghẽn Von Neumann quả là một hạn chế bi đát.
Khuyết điểm thứ hai là tính cách cục bộ của xử lý ký hiệu: sự
mất mát hay trục trặc của bất kỳ phần nào của hệ thống lập tức
gây trục trặc nghiêm trọng trong toàn bộ hệ thống. Hai khuyết
điểm này không thấy có trong các hệ thống sinh học. Có những
công việc tầm thường nhất đòi hỏi rất nhiều thời gian khi dùng
máy tính thời được thực hiện trong chớp nhoáng bởi các cơ quan
sinh học kể cả những côn trùng bé tí. Đặc biệt là tính đàn hồi
(resilience) của não bộ chịu đựng thương tích và tính dễ uốn nắn
của các giác quan điều chỉnh thích nghi với những thay đổi cấu
trúc thường xuyên của môi trường.
- Những khuyết
điểm quan trọng trên thúc đẩy các nhà sinh học chuyên về tánh
biết chuyển phương pháp nghiên cứu sang một hướng khác, thành
lập một thuyết mới gọi là thuyết “kết nối – động lực”
(connectionist-dynamic; connectionism). Thuyết này không bắt đầu
bằng những ký hiệu và qui tắc vận dụng ký hiệu, mà bằng một số
thành phần đơn được kết nối với nhau theo những định lý của
thuyết mạng lưới phi tuyến tính (nonlinear networks), với tánh
tự tổ chức (self-organization) và tánh xuất khởi (emergence).
Thay vì lập trình máy tính, các chuyên gia tánh biết dùng máy
tính mô phỏng các quan hệ tương tác của mạng lưới neuron biểu
tượng hệ thần kinh hay não bộ và tìm cách khám phá những tính
chất xuất khởi hay khả năng tổng hợp các cấu hình mới tùy theo
kinh nghiệm.
- Kế toán trên
ký hiệu được thay thế bởi kế toán trên số, như sử dụng các
phương trình vi phân trong các hệ động lực. Tâm thức trong
thuyết kết nối – động lực không còn là một thiết bị nhập kiện
xuất kiện (input-output device) xử lý thông tin mà là một mạng
lưới xuất khởi và tự trị. Tuy nhiên, các quan hệ kết nối của
mạng lưới vẫn biểu tượng hay tương ứng với những tính chất và
biến cố của một thế giới sẵn có bên ngoài, giống như tâm lý biểu
tượng trong thuyết kế toán - ký hiệu. Nói một cách dễ hiểu hơn
thời cả hai thuyết đều xem hệ thần kinh như một khí cụ dùng thu
nhận thông tin từ môi trường bên ngoài để thiết lập ở bên trong
một biểu tượng thế giới nhằm nương vào đó mà ước tính hành vi
thích đáng hầu tồn tại trong thế giới.
- Marvin
Minsky, một chuyên gia lỗi lạc về tánh biết, đã viết trong tập
sách Society of Mind của ông: “Bất cứ lúc nào chúng ta
nói đến tâm thức là chúng ta đang nói đến những quá trình chuyển
biến bộ não của chúng ta từ trạng thái này sang trạng thái
khác... quan thiệp đến tâm thức là thật sự quan thiệp đến những
quan hệ giữa những trạng thái, và điều này thực ra không liên
can gì đến chính bản chất của các trạng thái.” Như vậy, phải
hiểu các quan hệ ấy như thế nào? Chúng có cái gì khiến ta nghĩ
rằng chúng giống tâm thức?
- Thường câu
trả lời là chúng ta tri nhận các quan hệ ấy bao hàm hay giá đỡ
các biểu tượng môi trường. Tuy nhiên, nếu quan niệm tác dụng của
các quá trình ấy biểu tượng một môi trường độc lập thời chúng ta
quả đã chấp nhận rằng các quá trình ấy được điều động từ bên
ngoài, rằng chúng phải được định nghĩa bằng những cơ cấu điều
khiển từ bên ngoài. Thế là xem thông tin như một đại lượng có
sẵn trước, hiện hữu độc lập trong thế giới, và có thể tác dụng
truyền vào hệ thống tánh biết như nhập kiện. Nhập kiện này cung
cấp những tiền đề sơ khởi hệ thống căn cứ vào đó mà tính toán
xuất kiện, tính toán một hành vi. Nhưng làm thế nào định rõ được
nhập kiện và xuất kiện đối với các hệ thống phức hợp thường
xuyên tự tổ chức như não bộ? Quả có một dòng năng lượng tới lui,
nhưng thông tin chấm dứt và hành vi bắt đầu ở điểm nào trong
dòng?
- Về vấn đề
này, Minsky phát biểu rất chính xác: “Tại sao các quá trình khó
phân lớp? Trước đây, thông thường chúng ta có thể lượng đoán cơ
khí và quá trình bằng cách nhìn chúng biến đổi nguyên liệu thành
sản phẩm như thế nào. Nhưng bây giờ hoàn toàn vô nghĩa nếu nói
não sản xuất tư tưởng giống như nhà máy sản xuất xe hơi. Sự khác
biệt ở đây là não bộ sử dụng những quá trình biến cải chính
chúng, và như vậy có nghĩa là chúng ta không thể tách biệt những
quá trình đó với sản phẩm chúng sản xuất. Nói riêng, não bộ thi
thiết ký ức, điều này làm thay đổi đường lối suy tư kế khởi của
chúng ta. Hoạt dụng chủ yếu của não là thi thiết những biến cải
trong chính nó. Bởi tại toàn bộ khái niệm quá trình tự biến cải
(self-modifying processes) rất mới đối với kinh nghiệm thông
thường cho nên chúng ta không nên kỳ vọng vào sự hiểu biết
thường thức để lượng đoán.”
- Điểm đặc biệt
trong đoạn phát biểu trên là không đả động đến bất kỳ khái niệm
biểu tượng nào. Minsky không nói hoạt dụng chủ yếu của não là
biểu tượng thế giới bên ngoài. Ông chỉ nói não thường xuyên tự
biến cải. Như vậy, đâu là khái niệm biểu tượng?
- Đây là một
chỉ điểm về sự lìa bỏ ý tưởng có một thế giới độc lập ở bên
ngoài và chuyển sang ý tưởng về một thế giới bất tương ly với
cấu trúc của các quá trình tự biến cải. Sự thay đổi quan niệm
như vậy không biểu thị chỉ một sự lựa chọn lập trường triết học.
Nó phản ảnh sự cần thiết thông hiểu các hệ thống tánh biết không
đặt cơ sở trên những quan hệ nhập kiện và xuất kiện mà trên tánh
vận hành khép kín (operational closure). Một hệ thống vận hành
khép kín là hệ thống trong đó kết quả các quá trình của nó chính
là những quá trình đó. Vậy khái niệm vận hành khép kín là một
cách xác định những lớp quá trình vận hành quay ngược lại chúng
tạo thành những mạng lưới tự trị. Các mạng này không thuộc lớp
hệ thống do cơ cấu bên ngoài điều khiển. Chúng thuộc lớp hệ
thống do cơ cấu tự tổ chức bên trong xác định. Điểm quan trọng ở
đây là những hệ thống như vậy thay vì biểu tượng một thế giới
độc lập, chúng diễn xuất (enact) một thế giới như một cảnh giới
khu biệt bất tương ly với cấu trúc nằm trong hệ tánh biết.
- Ta
có thể tìm hiểu ý nghĩa của khái niệm ‘quá trình tự biến cải’,
‘tự qui chiếu’, hay ‘vận hành khép kín’ trong hình ‘Tay vẽ tay’
(Drawing hands) của họa sĩ Hòa Lan M. C. Escher: tay này vẽ tay
kia, thử hỏi tay nào là tay ‘thật’? đâu là nguồn gốc của quá
trình?
-
- (ảnh Tay vẽ Tay)
-
- Lý do nào
khiến nên lìa bỏ ý tưởng về sự hiện hữu một thế giới với những
nét đặc thù bản hữu hay thông tin sẵn có? Các nhà khoa học tánh
biết từ lâu lâm vào một tình trạng hết sức khó xử vì một mặt
nhất quyết tìm cho được một nền tảng cố định và bền vững làm căn
cứ sở y cho thuyết tánh biết, nhưng mặt khác bất lực không tìm
thấy một thế giới hoàn toàn độc lập, một nơi tánh biết phát sinh
và nương tựa. Thế giới không phải là vật thể, biến cố, hay quá
trình trong thế giới. Đúng hơn, thế giới có chiều giống như một
bối cảnh, một bố trí và vận động trường cho tất cả động tác thi
vi kinh nghiệm của chúng ta. Trong thực tế không thể nào tìm
thấy một thế giới riêng biệt tách khỏi cấu trúc, hành vi, và
tánh biết của chúng ta. Bởi vậy bất kỳ điều gì chúng ta nói biết
về thế giới cũng đồng thời nói cho chúng ta biết về chính chúng
ta.
- Theo logic
căn bản của biểu tượng luận thời nền tảng của nhận thức (tánh
biết) hoặc ở tại thế giới bên ngoài hoặc ở trong tâm thức. Phân
tâm thức và thế giới thành hai đối cực, các nhà khoa học tánh
biết thường xuyên băn khoăn đong đưa giữa hai cực chủ quan và
khách quan. Trong trường hợp nhận biết không thể thông hiểu thấu
suốt thế giới, tất nhiên phải chối bỏ ý tưởng tìm kiếm nền tảng
ở bên ngoài. Thuyết “kết nối – động lực” hướng về biểu tượng nội
tại để tìm một nền tảng bền vững trong đó. Đây là trường hợp tâm
thức được ví với mặt gương phản chiếu thiên nhiên và đối tượng
của cái biết là một thế giới độc lập, có sẵn. Như thế, phép biểu
tượng được sử dụng để phát hiện lại một thế giới có sẵn ở bên
ngoài. Trong trường hợp này tính chính xác của nhận thức tùy
thuộc tính chính xác của biểu tượng. Nếu không thể xác định tính
chính xác của biểu tượng, điều kiện này không thỏa mãn, và chỉ
còn cách trở về tìm một nền tảng nội tại ở ngay tự ngã của hệ
thống nhận thức. Trên quan điểm lấy tự ngã làm trung tâm, tánh
biết phóng chiếu thế giới của tự ngã, một thế giới có sẵn bên
trong. Thực tại biểu hiện của cái thế giới phóng chiếu này phản
ảnh những qui luật nội tại của hệ thống nhận thức. Tuy nhiên,
như đã trình bày trên, thuyết “kết nối – động lực” chứng minh
khái niệm tự ngã thật không cần thiết bằng cách khảo sát tánh
biết (nhận thức) như một hiện tượng xuất khởi từ các mạng lưới
tự tổ chức và phân bố.
- Thời đại Phật
giáo Nguyên thủy tuy chưa có các khái niệm khoa học như vòng hồi
dưỡng (feedback loops), tánh xuất khởi (emergence) và chưa có
khoa logic hình thức để biểu diễn tánh tự qui chiếu
(self-reference), tánh tự tổ chức (self-organization), nhưng đã
diễn tả tánh xuất khởi bằng cách sử dụng những quá trình vừa
nhân vừa quả. Chẳng hạn, “căn, cảnh, thức; ba sự hòa hiệp xúc”.
Xúc có thể xem như một quá trình nhân quả đồng thời. Thật vậy,
xúc là nhân hội tập ba thành phần: một trong sáu căn, cảnh tâm
hay vật là phần sở duyên, và thức tương ứng với căn cảnh là phần
năng duyên. Xúc cũng là quả do quá trình hội tập ấy phát sinh,
một duyên khởi do sự hòa hiệp hay sự tương hợp của ba thành phần
ấy. Sự tương hợp này không phải là tính chất của từng thành
phần, căn, cảnh, hay thức, mà là một tính chất của các quá trình
tương tác giữa ba thành phần ấy. Nói cách khác, nó là một tính
chất xuất khởi.
- Tính chất
xuất khởi “thức chuyển” cũng được Pháp tướng tông nêu ra trong
bài kệ: “Chủng tử sinh hiện hành. Hiện hành huân chủng tử. Tam
pháp triển chuyển. Nhân quả đồng thời.” Trên quan điểm đó, ngài
An Huệ giải thích thức chuyển là nhân chuyển và quả chuyển phát
sinh dị biệt và xảy ra đồng thời. Như thế, Phật giáo từ lâu đã
khai triển khái niệm xuất khởi ở cả hai tầm mức: tầm mức (tương
đối) toàn bộ của lý duyên khởi và tầm mức (tương đối) cục bộ của
tâm sở biến hành xúc, rất cần thiết trong phân tích tìm hiểu sự
phát khởi kinh nghiệm vô ngã.
- Theo thuật
ngữ Phật giáo, khăng khăng tìm kiếm nền tảng ở bên trong và ở
bên ngoài chính là thái độ chấp ngã và chấp pháp, căn nguyên
phát sinh hai trọng chướng, chướng phiền não và chướng sở tri.
“Do nhận thức chân chính mà hai trọng chướng được đoạn trừ. Bởi
vì, do chấp ngã và chấp pháp mà hai chướng cùng phát sinh. Nếu
chứng hai Không (ngã Không và pháp Không) các chướng ấy tùy theo
đó mà bị đoạn trừ. Do đoạn trừ các chướng mà đắc hai quả vị thù
thắng. Do đoạn phiền não chướng vốn dẫn đến tái sinh mà chứng
chân giải thoát. Do đoạn sở tri chướng vốn cản ngại nhận thức mà
đắc đại Bồ đề.” (Luận Thành Duy thức. Tuệ Sỹ dịch Việt)
- Như trình bày
trên, nhận thức chưa phải là chân chính nếu do chấp ngã chấp
pháp mà hiểu nhận thức theo thuyết kế toán – ký hiệu là xử lý
thông tin hay theo thuyết kết nối – động lực, là sự xuất khởi
những trạng thái toàn bộ trong một mạng lưới gồm những thành
phần đơn. Trong sách Nhận thức và Không tánh, tác giả đã
có dịp trình bày trong bài Sinh mệnh tức Không một thuyết thứ ba
về tánh biết tựa trên ý tưởng một thế giới bất tương ly với cấu
trúc các quá trình tự biến cải của hệ thần kinh và quan niệm tâm
thức là một mạng lưới các quan hệ, xuất khởi và tự trị. Thuyết
này xác quyết tánh biết hay quá trình nhận thức (process of
knowing) và quá trình sống (process of living) chỉ là một. Nay
xin nhắc lại dưới đây để có dịp bổ túc.
- Nhận Thức Là
Hóa Thân Tác Động.
- Mở đầu tập
Chánh lý nhất trích luận (Nyàya-bindu), để minh định mục
đích và phạm vi của khoa nhận thức và luận lý do Ngài chủ
trương, Pháp Xứng (Dharmakìrti) nói: “Mọi hành động thành công
là nhờ trước đó nhận thức chân chính. Vì vậy chúng ta bắt đầu
khảo sát điều đó.” Như vậy, nhận thức luận Phật giáo chú trọng
khảo sát những tác dụng và hành động phát hiện trong mối quan hệ
giữa nhận thức và đối tượng nhận thức. Trong chiều hướng đó,
Francisco J. Varela (1946-2001), nhà sinh học thần kinh lỗi lạc
rất thâm ngộ giáo lý Phật, định nghĩa tánh biết là tác động của
hóa thân (cognition as embodied action). Ông giải thích: “Khi
dùng từ “hóa thân” (embodied) chúng tôi muốn làm sáng tỏ hai
điểm: một, tánh biết tùy thuộc những kinh nghiệm đến từ sự sở
hữu một cái thân thể với nhiều khả năng cảm giác vận động
(sensorimotor capacities), và hai, những khả năng cảm giác vận
động cá biệt này kết nhập trong một tình huống (context) sinh
học, tâm lý học, và văn hóa bao dung hơn. Khi dùng từ “tác động”
(action) chúng tôi muốn nhấn mạnh một lần nữa rằng các quá trình
cấu phần của tánh biết, cảm giác và vận động, nhận thức và hành
động, trong căn bản không thể phân cách. Quả vậy, hai quá trình
ấy chẳng những bất tương ly trong cá thể, chúng còn cùng nhau
tiến hóa.”
- Nói đến khả
năng cảm giác vận động tức nói đến chức năng của hệ thần kinh,
nói đến nét đặc thù của sự kết nối và tương tác giữa các tế bào
thần kinh (neuron). Xuyên qua các sợi trục (axon) duỗi dài và
lan rộng khắp thân thể, các xung động được neuron truyền hỏa tốc
đến các diện tiếp hợp (synapse), cấu trúc liên kết giữa hai
neuron hoặc giữa neuron với diện vận động (tên gọi chung tế bào
cơ), hoặc giữa neuron với diện cảm giác (tên gọi chung tế bào
cảm giác). Diện tiếp hợp là nơi các nhóm tế bào cách xa nhau
trao đổi ảnh hưởng của chúng qua lại hai chiều.
- Mỗi mẫu hình
hoạt tính của một số nhóm neuron vận động (motoneuron; neuron
kết nối với cơ) sản xuất một biến chuyển trạng thái vận động.
Mặt khác, hoạt tính vận động ấy phát sinh rất nhiều thay đổi
trong các tế bào cảm giác ở trong các bắp thịt, trong những phần
khác của thân thể, và trên những bề mặt tiếp xúc với môi trường,
cũng như trong các neuron vận động. Những diễn biến như vậy xảy
ra trong một quá trình bắt nguồn từ những thay đổi trong mạng
lưới kết nối các neuron trung gian (interneuron) với các diện
cảm giác và vận động. Vì mạng này có vô số khả hữu trạng thái
vận động cho nên sinh vật có vô số khả hữu tập tính. Do đó, các
diện cảm giác và vận động được hệ thần kinh liên tục móc nối qua
trung gian một mạng neuron có vô số mẫu hình hoạt tính.
- Thí dụ con
người, có chừng một trăm tỉ (số 1 đèo theo 11 zero) neuron trung
gian kết nối chừng một triệu neuron vận động, những neuron vận
động này kích động vài ngàn cơ (bắp thịt), với chừng mười triệu
tế bào cảm giác phân bố thành các diện nhận cảm khắp thân thể.
Đứng giữa các neuron vận động và cảm giác, bộ não giống như một
khối khổng lồ các neuron trung gian kết nối chúng lại (với tỉ lệ
10:100 000:1) thành một hệ động lực chuyển biến không ngừng.
- Hãy lưu ý đến
cái cách gọi là “kết nối tái nhập” (reentrant connections) hay
“tái nhập” (reentry) là cách não kết nối hai chiều các neuron và
tế bào các kiểu. Ta có thể xem tái nhập là một qui luật cấu tạo
não bộ: Nếu một vùng A nối kết với một vùng khác, B, thời B cũng
nối kết với A, nhưng bằng một con đường giải phẫu học khác.
Trong trường hợp con mắt chẳng hạn, các xung động được truyền từ
võng mạc đến vùng nhận cảm sơ cấp là đồi thị (thalamus; khâu
não), gọi đồi thị là A. Các xung động được A tiếp nhận và chuyển
đến vỏ thị giác (visual cortex), gọi đó là B, và đến những vùng
khác của vỏ não. Theo qui luật cấu tạo não bộ, ngược chiều với
những kết nối từ đồi thị A đến vỏ thị giác B, có những kết nối
từ vỏ thị giác B đến đồi thị A và số kết nối này nhiều hơn gấp
bội.
- Trong não,
những mạng gọi là vùng chức năng (functional areas) gồm nhiều
mạch dây thần kinh kết nối hai chiều ngắn đường hay dài đường
tạo thành một cơ sở truyền chuyển các thế tác động (action
potential). Các vùng chức năng đại để có hai dạng cấu trúc. Một
là cấu trúc tằng hệ chia nhánh (branching hierarchy), có nhiều
tầng, khai triển với thời gian thành những mạng lưới tương tức
theo bề dọc. Hai là cấu trúc song song (in parallel) liên hợp
các vùng ở trong chi nhánh các tầng và tạo thành những mạng lưới
hỗ tương nhiếp nhập triển khai rộng trong không gian theo bề
ngang.
- Tái nhập là
sự trao đổi thế tác động tái diễn giữa các vùng chức năng theo
cả hai bề, bề dọc qua những tầng lớp chồng chập và bề ngang qua
các vùng liên hợp song song. Tác dụng của tái nhập là phối hợp
hoạt dụng của những vùng chức năng khác nhau trong không gian và
thời gian. Khác với hồi tiếp (feedback), tái nhập không phải là
một sự truyền chuyển theo trình tự một tín hiệu báo sai trong
một vòng đơn. Tái nhập bao hàm rất nhiều lộ trình hai chiều ghép
song song qua các vùng liên hợp song song và không có nhiệm vụ
điều chỉnh sửa sai như các vòng hồi tiếp. Kết quả của quá trình
động lực tái nhập là đồng bộ hóa (synchro-nization) hết thảy mọi
hoạt dụng của các nhóm neuron phân bố lan rộng khắp thân thể.
Quá trình ấy liên kết những hoạt dụng tách rời thành những mạch
có khả năng phát khởi những biến cố nhất trí và đồng bộ.
- Do tái nhập,
quan hệ xoay quanh “tay vẽ tay” giữa nhận thức và hành động, cho
nên mặc dầu chúng ta biết rõ những quá trình tạo nhận thức can
hệ sự cấu thành con người chúng ta, hoạt tính và hành động của
chúng ta, chúng ta vẫn phải sử dụng chúng để tìm hiểu chúng ta
nhận thức như thế nào. Thật ra không có cách nào khác bởi vì mọi
hành vi của chúng ta đều bất tương ly với kinh nghiệm của chúng
ta về thế giới. Quan hệ xoay quanh giữa nhận thức và hành động,
tánh bất khả phân giữa cái thể trong đương thời và cách thức thế
giới hiện ra đối với đương thể khiến ta phải nghĩ rằng mọi hành
động nhận thức đều tác dụng dựng khởi (to bring forth) một thế
giới. Quan điểm nhận thức dựng khởi một thế giới, một thế giới
xuất khởi từ quá trình động lực tái nhập cảm giác vận động,
Varela gọi là quan điểm diễn xuất (enaction) và thuyết tánh biết
ông đề xướng gọi là thuyết diễn xuất. Cương yếu có thể tóm lược
trong hai điểm chính. Một, nhận thức là hành động được cảm giác
hướng dẫn. Hai, cấu trúc nhận thức xuất khởi từ những mẫu hình
cảm giác vận động tái diễn (recurrent sensorimotor patterns) từ
đó hành động được cảm giác hướng dẫn.
- Thế nào là
hành động được cảm giác hướng dẫn? Vấn đề ở đây là khảo sát làm
thế nào chủ thể nhận thức có thể hướng dẫn hành động trong hoàn
cảnh cục bộ của nó. Do hoạt tính của chủ thể hoàn cảnh cục bộ
thường xuyên biến chuyển, bởi vậy điểm quy chiếu để thông hiểu
nhận thức không còn là một thế giới có sẵn, độc lập với chủ thể
nhận thức, mà là cách thức hệ thần kinh kết nối các diện cảm
giác và vận động, tạo nên cái gọi là cấu trúc cảm giác vận động
của chủ thể nhận thức. Cấu trúc này tức là cái hình thù vật lý
hóa thân của chủ thể nhận thức, chứ không phải một thế giới nào
đó có sẵn, quyết định chủ thể nhận thức có thể tác động và bị
điều biến bởi biến cố ngoại cảnh như thế nào. Như vậy thuyết
diễn xuất tìm cách xác định những kết nối theo qui luật hai diện
cảm giác và vận động, rồi nương đó mà giải thích làm sao hành
động có thể được cảm giác hướng dẫn trong một thế giới tùy thuộc
chủ thể nhận thức.
- Về vấn đề
hành động cảm giác hướng dẫn, triết gia Merleau-Ponty đã viết
như sau trong tập sách Cấu trúc của Tập tính (The
Structure of Behavior) của ông:
- “Tính chất
của đối tượng và ý hướng của chủ thể... không chỉ trộn lẫn nhau,
chúng còn tạo thành một toàn thể mới. Khi mắt và tai theo dõi
một con vật đang bay, không thể nói ‘cái này bắt đầu trước’,
trong sự trao đổi kích thích và phản ứng. Vì hết thảy mọi vận
động của sinh vật đều luôn luôn bị chế ước bởi ảnh hưởng bên
ngoài, ta có thể, nếu ta muốn, xem vận động như hiệu quả của môi
trường. Ngược lại cũng vậy, vì các kích thích quấy nhiễu sinh
vật phải theo thứ tự đến sau những vận động của sinh vật cuối
cùng đưa ra những cơ quan cảm thọ đón nhận ảnh hưởng bên ngoài,
nên ta cũng có thể nói vận động là nhân đầu tiên của tất cả các
kích thích.
- Như vậy chính
sinh vật tạo nên cái dạng của tác nhân kích thích do đón nhận
tác động của bên ngoài theo cách thích đáng của nó. Muốn tồn tại
chắc chắn sinh vật phải đụng độ với một số tác nhân vật lý và
hóa học trong môi trường bao quanh. Nhưng tùy thuận bản chất đáp
ứng của các cơ quan nhận cảm, ngưỡng phản ứng của các trung tâm
thần kinh, và những vận chuyển của các cơ quan, sinh vật đích
thân chọn lọc những kích thích nào trong thế giới vật lý mà nó
nhạy cảm và phản ứng. Môi trường (Umwelt) xuất khởi từ thế giới
xuyên qua sự đương hiện của sinh vật. Lẽ cố nhiên sinh vật có
thể tồn tại chỉ nếu nó thành tựu tìm được trong thế giới một môi
trường tương thích.”
- Quá trình
nhận thức không chỉ kết nhập trong và ức chế bởi thế giới bao
quanh, mà còn dự phần dựng khởi cái thế giới bao quanh đó. Như
Merleau-Ponty đã nói, sinh vật vừa phát khởi vừa được nặn thành
bởi môi trường. Bởi thế sinh vật và môi trường ràng buộc với
nhau, xác định và chọn lọc lẫn nhau.
- Bây giờ hãy
bàn đến biến cố cấu trúc nhận thức xuất khởi từ những mẫu hình
cảm giác vận động tái diễn (recurrent sensorimotor patterns) từ
đó hành động được cảm giác hướng dẫn. Tiên phong nghiên cứu vấn
đề này là Jean Piaget, nhà tâm lý học nổi tiếng người Thụy Sĩ.
Ông đưa ra một chương trình gọi là ‘phát triển nhận thức luận’
(genetic epistemology) tìm cách giải thích sự phát triển của một
đứa bé từ khi mới sinh ra là một sinh vật non nớt cho đến khi
thành người lớn biết đắn đo suy nghĩ. Đứa bé bắt đầu với hệ cảm
giác vận động của nó, và Piaget muốn hiểu làm thế nào thông minh
cảm giác vận động tiến hóa trở thành ý thức một thế giới ở ngoài
đó với những vật thể thường tồn trong không gian và thời gian và
ý thức được nó vừa là một vật thể trong số các vật thể, vừa là
một tâm thức ở bên trong. Theo Piaget, đứa bé không chủ trương
khách quan, không quan niệm lý tưởng, nó chỉ có hoạt tính. Ngay
tác động đơn giản nhất của đứa bé để tri nhận một vật thể chỉ có
thể giải thích bằng hoạt tính của nó mà thôi. Nương trên hoạt
tính, đứa bé phải xây dựng toàn bộ cấu trúc với những qui luật
và logic của thế giới hiện tượng. Đó là một thí dụ rõ sáng cho
thấy cấu trúc nhận thức xuất khởi từ những mẫu hình tái diễn
(Piaget bảo đó là phản ứng xoay quanh; circular reactions) của
hoạt tính cảm giác vận động.
- Thuyết diễn
xuất bắt nguồn từ thuyết tự tổ chức (self-organization) của nhà
thần kinh sinh học Humberto R. Maturana, Đại học Chí Lợi
(University of Chile), Nam Mỹ. Ông khám phá hệ thần kinh không
chỉ tự tổ chức mà còn luôn luôn tự qui chiếu (self-reference).
Do đó nhận thức không thể xem như biểu tượng một thực tại ở bên
ngoài, mà phải hiểu nhận thức là sáng tạo liên tục những quan hệ
mới trong mạng thần kinh. Theo ông, nhận thức xác định (specify)
một thế giới xuyên qua tiến trình tự tổ chức của hệ thần kinh.
Tiến thêm một bước, ông xác quyết: “Các hệ thống sống là hệ
thống nhận thức, và sống xem như một quá trình thời là một quá
trình nhận thức. Phát biểu này đúng với hết thảy sinh vật, có
hay không có một hệ thần kinh.” (Autopoiesis and Cognition.
Maturana and Varela. 1980)
- Hợp tác với
học trò là Varela, Maturana quảng diễn khái niệm hệ thống tự tổ
chức và tự qui chiếu lập thành thuyết liên tục tự tạo tự sinh
(autopoiesis). Thuyết này không chú trọng đến tính chất các
thành phần mà chỉ chú trọng đến những quá trình và quan hệ giữa
các quá trình thực hiện xuyên qua các thành phần. Lần đầu tiên
trong khoa học hệ thống, hai khái niệm, tổ chức và cấu trúc,
được phân biệt minh bạch. Tổ chức của một hệ sống là tập hợp tất
cả quan hệ giữa các thành phần biểu trưng đặc tính của hệ, xác
định thuộc một lớp nào đó. Như là một vi khuẩn, một cây hướng
dương, một con mèo, hay một bộ não người. Mô tả tổ chức là mô tả
trừu tượng các quan hệ, không nói đến thành phần. Tánh tự tạo tự
sinh được xem là một mẫu hình tổ chức tổng quát, chung cho hết
thảy mọi hệ sống, bất cứ thể trạng các thành phần như thế nào.
- Cấu trúc của
một hệ sống, ngược lại, là gồm những quan hệ đương thời giữa các
thành phần vật lý. Nói cách khác, cấu trúc của hệ là hình thù
vật lý hóa thân của tổ chức của hệ. Tổ chức của hệ được nhấn
mạnh là độc lập với tính chất của các thành phần, do đó với
nhiều loại thành phần khác nhau bất kỳ một tổ chức nào cũng có
thể hóa thân nhiều cách khác nhau. Cấu trúc con người là một cấu
trúc tiêu tán (dissipative structure), bền vững xa vị trí cân
bằng. Quá trình liên tục hóa thân của mẫu hình tổ chức tự tạo tự
sinh trong một cấu trúc tiêu tán gọi là quá trình sống, được
đồng hóa với quá trình nhận thức tức tánh biết.
- Mẫu hình tự
tạo tự sinh được định nghĩa là một mạng lưới gồm các quá trình
sản xuất trong đó chức năng của mỗi thành phần là tham gia sản
xuất hay biến chuyển các thành phần khác của hệ. Theo cách đó,
toàn thể mạng lưới liên tục tự tạo tự sinh. Mạng là do các thành
phần sản xuất và các thành phần ấy là sản phẩm của mạng. Như
vậy, trong một hệ sống, sản phẩm của sự vận hành của hệ chính là
tổ chức của hệ. Theo Maturana và Varela, khái niệm liên tục tự
tạo tự sinh là điều kiện cần và đủ để biểu trưng đặc tính tổ
chức của các hệ sống. Do tự tạo tự sinh mỗi sinh vật là một đơn
vị tự trị, một cá thể tự trị. Do những tương tác tái diễn
(recurrent interactions), những nhiễu loạn qua lại (reciprocal
perturbations) giữa cá thể và môi trường, cấu trúc của cá thể
thay đổi để thích nghi với cấu trúc của môi trường.
- Chừng nào một
đơn vị không bị hủy diệt bởi tương tác với môi trường, thời thế
nào ta cũng ghi nhận có một sự hỗ tương thích nghi giữa cấu trúc
của môi trường và cấu trúc của đơn vị. Chừng nào có một sự hỗ
tương thích nghi như vậy, thời môi trường và đơn vị tương tác
như những nguồn quấy nhiễu lẫn nhau, phía này kích khởi phía kia
thay đổi trạng thái. Kết quả là một lịch sử tương tác tái diễn
nhằm điều hợp cấu trúc của cá thể với cấu trúc của môi trường.
Một quá trình tiến hành như vậy gọi là móc nối cấu trúc
(structural coupling) và lịch sử thay đổi cấu trúc mà giữ nguyên
vẹn tổ chức của một cá thể gọi là sự phát triển cá thể
(ontogeny). Tánh thích nghi của sinh vật với môi trường là một
kết quả của móc nối cấu trúc của sinh vật với môi trường. Như
vậy, sự bảo trì tánh tự tạo tự sinh và tánh thích nghi là điều
kiện cần để sinh vật tồn tại.
- Đứng về phía
sinh vật, một cá thể tự trị, môi trường chỉ châm mồi kích khởi
biến đổi cấu trúc của cá thể chứ không chỉ định yếu tố nào phải
biến đổi hay chỉ huy điều khiển sự biến đổi. Nói cách khác,
những biến đổi cấu trúc của cá thể phát sinh là do nhiễu loạn
đến từ những tương tác tái diễn, nhưng được xác định bởi cấu
trúc của chính cá thể bị quấy nhiễu. Như vậy, cá thể không những
xác định các thay đổi cấu trúc mà còn xác định những nhiễu loạn
nào đến từ môi trường kích khởi những thay đổi cấu trúc đó. Đấy
là điểm then chốt của thuyết diễn xuất. Chính những thay đổi cấu
trúc của sinh vật cấu thành tác động nhận thức. Do xác định
những nhiễu loạn đến từ bên ngoài kích khởi những thay đổi cấu
trúc của nó, sinh vật ‘dựng khởi một thế giới’. Tánh biết như
thế không phải là một biểu tượng của một thế giới độc lập có
sẵn, mà là một sự dựng khởi liên tục một thế giới xuyên qua quá
trình sống. Tương tác giữa một sinh vật và môi trường là những
tương tác nhận thức, và ngay quá trình sống cũng là một quá
trình nhận thức. Bởi vậy Maturana và Varela bảo: “Sống là biết”.
- Tánh biết
trong thuyết diễn xuất bao hàm toàn thể quá trình sống, bao gồm
nhận thức, cảm xúc, và hành động, và không đòi hỏi phải có một
bộ não và một hệ thần kinh. Ngay cả vi khuẩn cũng tri nhận một
số đặc tính của môi trường. Chúng cảm giác các dòng hóa chất sai
khác trong môi trường bao quanh, tìm tới chất đường và lìa xa
acit. Chúng cảm giác và lánh xa nhiệt, chuyển tới gần hay lẩn
tránh ánh sáng. Lại có một số vi khuẩn nhận ra từ trường. Như
thế, ngay một vi khuẩn cũng dựng khởi một thế giới, một thế giới
của ấm và lạnh, của các từ trường, và của các dòng hóa chất.
Trong tất cả quá trình nhận thức ấy, không thể phân cách nhận
thức và hành động. Vì các biến đổi cấu trúc và hành động liên
hợp tùy thuộc cấu trúc của sinh vật cho nên Varela mô tả nhận
thức là ‘hóa thân tác động’.
- Thật vậy,
nhận thức bao gồm hai hoạt dụng kết liên chặt chẽ với nhau: sự
bảo trì liên tục tự tạo tự sinh và sự dựng khởi một thế giới.
Mạng lưới sống với tánh lưu động và dễ uốn đáp ứng các nhiễu
loạn hay ‘kích thích’ đến từ môi trường một cách rất đặc biệt.
Toàn mạng lưới đáp ứng nhiễu loạn mà nó chọn lọc bằng cách bố
trí lại mẫu hình kết nối của nó. Do đó, sinh vật chỉ đáp ứng một
số rất bé kích thích. Hẳn chúng ta biết rằng chúng ta chỉ thấy
hay nghe trong một dải tần số giới hạn, chúng ta thường không
thấy biết những sự vật và biến cố ở chung quanh mà chúng ta
không để ý, và mọi điều chúng ta biết đều bị chế ước bởi khung ý
niệm và tình huống văn hóa của chúng ta.
- Nói cách
khác, có rất nhiều nhiễu loạn không làm thay đổi cấu trúc bởi
tại chúng “lạ” đối với hệ thống. Do đó mỗi hệ sống dựng khởi thế
giới riêng biệt của nó tùy thuộc cấu trúc riêng biệt của nó, như
Varela phát biểu: “Tâm và thế giới đồng thời câu khởi.” Tâm đây
là tánh biết. Tâm đây là quá trình sống. Tuy nhiên, xuyên qua sự
hỗ tương móc nối cấu trúc, mỗi hệ sống cá biệt là thành phần của
thế giới của các hệ sống cá biệt khác. Chúng hỗ tương giao thiệp
và điều hợp hành động của nhau.
- Tầm tương tác
của một hệ sống với môi trường gọi là lãnh vực nhận thức
(cognitive domain) của hệ. Các nghiên cứu mới nhất cho biết cảm
xúc là một phần trọng yếu của lãnh vực này. Tỷ dụ: Khi phản ứng
nổi giận thời toàn bộ mẫu hình của quá trình sinh lý, mặt đỏ,
thở nhanh, rung lên, ..., thuộc lãnh vực nhận thức. Khi tánh
phức hợp của hệ sống gia tăng thời lãnh vực nhận thức cũng gia
tăng. Đặc biệt bộ não và hệ thần kinh gia tăng tầm hoạt dụng và
sự biệt hóa của các móc nối cấu trúc là một sự bành trướng đầy ý
nghĩa của lãnh vực nhận thức của sinh vật. Đến một mức phức hợp
nào đó, sinh vật móc nối cấu trúc không chỉ với môi trường của
nó, mà ngay cả với chính nó, và như thế, sinh vật dựng khởi
không chỉ một thế giới ở bên ngoài, mà còn dựng khởi một thế
giới ở bên trong. Trong con người sự dựng khởi một thế giới nội
tại như vậy liên hệ mật thiết với ngôn ngữ, tư duy, và ý thức.
- Theo thuyết
diễn xuất, cái thế giới do quá trình sống của một sinh vật dựng
khởi là một thế giới tùy thuộc cấu trúc của sinh vật. Vì các
sinh vật cá biệt cùng một loài có cấu trúc ít nhiều giống nhau
cho nên chúng dựng khởi những thế giới giống nhau. Hơn nữa, là
người, chúng ta cùng chia xẻ một cảnh giới trừu tượng ngôn ngữ
và tư tưởng xuyên qua đó chúng ta cùng nhau dựng khởi thế giới
của chúng ta. Thuyết diễn xuất không chủ trương ngoài kia là hư
vô từ đó vật chất được sáng tạo. Có một thế giới vật lý ngoài đó
nhưng thế giới này không có nét đặc thù nào tiên thiên cả. Theo
thuyết diễn xuất, không vật gì hiện hữu mà không tùy thuộc quá
trình nhận thức. Không cấu trúc nào tồn tại một cách khách quan,
không một khu vực nào có sẵn để ta vẽ một bản đồ. Bản đồ tự tạo
tự sinh dựng khởi những nét đặc thù của khu vực.
- Ta biết rằng
chim và mèo nhìn cây khác với cách ta nhìn bởi ánh sáng chúng
nhận thấy có dải tần số khác. Do đó, hình thù và cấu tạo của
“cây” chúng dựng khởi khác với của “cây” ta dựng khởi. Khi ta
nhìn một cây, ta không sáng chế thực tại. Nhưng cách ta miêu tả
sự vật và nhận ra những mẫu hình từ vô số nhập kiện qua giác
quan tùy thuộc thể chất của ta. Nói theo thuật ngữ của Maturana
và Varela, cách ta móc nối cấu trúc với môi trường và từ đó cái
thế giới ta dựng khởi tùy thuộc cấu trúc của ta.
- Hằng ngày
quen sử dụng hai khái niệm quen thuộc, biểu tượng và thông tin,
ta khó chấp nhận chủ trương của thuyết diễn xuất bác bỏ hai khái
niệm ấy cho là không thích hợp để giải thích quá trình nhận
thức. Ký hiệu ngôn ngữ, nói hay viết, đều là biểu tượng của sự
vật và ý tưởng. Ta thường xem những sự kiện như thời giờ trong
ngày, báo cáo thời tiết, hay số điện thoại của một người thân là
những mẩu thông tin thiết thực. Thời đại ta đang sống gọi là
thời đại thông tin. Thế tại sao Maturana và Varela bảo là không
có thông tin trong quá trình nhận thức? Sau đây là lời giải
thích của Varela.
- Trong mọi
loài chỉ có người là nhận thức xuyên qua ngôn ngữ, suy tư trừu
tượng, và ký hiệu khái niệm. Do khả năng trừu tượng hóa, một đặc
tính của tâm thức, con người có thể và thường xuyên sử dụng
những tâm lý biểu tượng, ký hiệu, và thông tin. Nhưng những thứ
đó không biểu trưng đặc tính của quá trình nhận thức tổng quát
chung cho hết thảy mọi loài sinh vật. Mặc dầu con người thường
xuyên sử dụng tâm lý biểu tượng và thông tin, quá trình nhận
thức của chúng ta không đặt cơ sở trên chúng.
- Để thấy rõ
vấn đề, hãy cứu xét ý nghĩa của từ ‘thông tin’. Theo hiểu biết
thông thường, thông tin bề nào cũng sẵn có ở ngoài ấy chỉ cần
não thu nhận chúng mà thôi. Thật ra, một mẩu thông tin thu nhận
là một đại lượng, một tên gọi, hay một phát biểu ngắn được ta
trừu xuất từ một toàn bộ mạng lưới các quan hệ, từ một tình
huống khá ổn định, gán một ý nghĩa rút ra từ tình huống, và gọi
đó là ‘thông tin’. Ta quá quen thuộc với những sự vật trừu tượng
đó đến nổi tưởng rằng ý nghĩa của chúng ở ngay trong chúng chứ
không phải kéo ra từ tình huống chúng được trừu xuất. Ví như ánh
đèn màu đỏ có ý nghĩa ‘dừng lại’ chỉ đối với những tài xế có văn
hóa và trình độ hiểu biết sống trong những cộng đồng quen sử
dụng đèn lưu thông xanh đỏ ở các ngã ba đường, chứ đối với một
người sinh sống ở núi rừng khi thấy đèn lưu thông màu đỏ trong
thành phố họ không hiểu đó là dấu hiệu bảo phải dừng lại.
- Sinh vật
không thể tách rời môi trường vì chúng tương quan liên hệ xuyên
qua sự hỗ tương xác định và chọn lọc. Sinh vật và môi trường
đồng thời thu nhiếp và phóng khai lẫn nhau. Hay nói theo ngài
Pháp Tạng, “Ở đây co rút là giản nở, giản nở chính là co rút. Vì
sao vậy? Vì đồng nhất duyên khởi, không có tướng hai, nhị nguyên
tính.” (Hoa nghiêm Nhất thừa giáo nghĩa phân tề chương. Tuệ Sỹ
dịch) Môi trường của một sinh vật không phải là một cảnh giới
vốn có mà do lịch sử móc nối cấu trúc của sinh vật ấy dựng khởi.
Xây dựng tánh biết trên lịch sử móc nối cấu trúc, thuyết diễn
xuất là Trung đạo, không chủ trương nhất nguyên hay nhị nguyên.
-
- (II)
- Biết Ta Biết.
- Phái cổ điển
của nhận thức luận tin tưởng rằng thực tại là đối tượng khách
quan nhận thức có thể nắm bắt và ngôn ngữ có thể chỉ thị và biểu
hiệu. Đối với phái này, “tri giác chân chính” phải thỏa mãn hai
điều kiện, độc lập đối với chủ thể nhận thức và biểu tượng một
thế giới “vật tự thân” một cách trung thực. Mặc dầu từ xưa đến
nay rất nhiều kiến giải dùng luận lý chứng minh rằng hai điều
kiện ấy không thể thực hiện, phần đông khoanh tay tự giới hạn
trong sự quan sát tri giác tuyệt đối là bất khả đắc. Chỉ có một
số rất ít khoa học gia và triết gia tìm cách giải tỏa khái niệm
tri giác khỏi những ràng buộc ấy để có thể áp dụng nó cho những
gì có thể tri nhận trong cảnh giới kinh nghiệm của chủ thể nhận
thức. Số này thiết lập những mô hình tánh biết giải thích tri
giác của sinh vật tùy thuộc sinh vật và hơn nữa là sản phẩm của
các mạch biến dịch khép kín trong cấu trúc của sinh vật.
- Trong sự tìm
hiểu ta biết như thế nào, Maturana và Varela kể một thí nghiệmï
cho thấy ta không thể tách rời lịch sử các hoạt dụng của ta và
cách thế thế giới hiện ra theo lối ta nhìn. Hãy cho hai nguồn
sáng khác màu, một trắng (dùng bỏng đèn điện cực sáng) và một đỏ
(dùng giấy bóng kính đỏ làm kính lọc), chiếu hai chùm tia sáng
xuyên qua nhau. Đặt một vật, bàn tay của ta chẳng hạn, trong
vùng chung của hai chùm và nhìn bóng của nó trên vách. Điều gây
ngạc nhiên là màu của cái bóng ấy không trắng, không đỏ, không
trộn lẫn trắng đỏ thành hồng như ta tưởng, mà xanh lục! Nếu bảo
rằng màu là một phẩm tính của vật và của ánh sáng vật phản
chiếu, thời khi thấy màu xanh tất nhiên ta nghĩ đó là do một tia
sáng xanh xuyên qua mắt ta, một tia sáng có một độ dài sóng ta
đo được. Nhưng khi đo các độ dài sóng trong quang phổ nhìn thấy
trên vách, thời không thấy sự nổi bật nào của độ dài sóng màu
xanh hay màu lục, mà chỉ thấy sự phân bố thường ứng với ánh sáng
trắng. Nếu hỏi một nhà chuyên môn tại sao như vậy thời được biết
rằng kinh nghiệm bóng màu xanh lục là một ảo sắc (chromatic
illusion) vì thực tình không có bóng xanh lục mặc dầu ta thấy nó
rõ ràng trước mắt.
- Khi một quan
sát viên nhìn một sinh vật tương tác với môi trường của nó, quan
sát viên nhận thấy hành động của nó thích đáng hầu đáp ứng những
nhiễu loạn môi trường áp đặt trên nó qua mỗi tương tác. Quan sát
viên mô tả tánh thích đáng của hành động như là kết quả sinh vật
thu nhiếp vài đặc sắc của môi trường, như thông tin chẳng hạn,
rồi nương vào mà tính toán những thay đổi thích đáng hầu bảo trì
tánh tự tạo tự sinh. Một quá trình như vậy quan sát viên gọi là
quá trình nhận thức. Trên phương diện vận hành khép kín của một
tổ chức tự trị, mô tả như vậy là không đúng và thông hiểu nhận
thức như thế là sai lạc, bởi vì sinh vật là một mạng lưới tự
trị, tương tác với môi trường không có tính cách nhận chỉ thị
thay đổi từ bên ngoài. Trên quan điểm nhận thức sai lầm đó, khi
các hành động của sinh vật được nhận thấy diễn ra trong tình
huống không có nhiễu loạn hữu lực của môi trường, thời quan sát
viên cho rằng những hành động nhận thấy là kết quả của một ảo
giác.
- Thực ra, sinh
vật và hệ thần kinh của nó trong quá trình vận hành không thể có
sự phân biệt giữa ảo giác và nhận thức. Bởi tại một mạng lưới
neuron khép kín không thể phân biệt những thay đổi nào trong
hoạt động tương đối của các neuron là do kích khởi từ bên ngoài
hay từ bên trong. Sự phân biệt đó hoàn toàn thuộc cảnh giới mô
tả trong đó quan sát viên định nghĩa một ngoại giới và một nội
giới đối với sinh vật và hệ thần kinh của nó. Trong thực tế, đối
với một động vật, hình trạng cấu trúc của môi trường có thể cấu
thành những nhiễu loạn cảm giác và quá trình biến chuyển nội tại
của các trạng thái được xác định như là kết quả của một tương
tác riêng biệt giữa nó với môi trường, không phải bởi cấu trúc
của môi trường mà chính bởi cấu trúc hệ thần kinh của nó và cấu
trúc của nó xem như một cơ thể hoàn chỉnh.
- Hơn nữa, vì
những cấu trúc ấy là kết quả của móc nối cấu trúc giữa động vật
và môi trường, sự vận hành khép kín của tổ chức của hệ thần kinh
và của động vật phát sinh nhận thức, một xuất khởi biểu
hiện sự móc nối cấu trúc giữa động vật và môi trường. Không phân
biệt được những khái niệm qui ước xã hội mệnh danh là nhận thức
hay ảo giác là do tánh bất lực bản hữu của tổ chức vận hành khép
kín chứ không phải do trạng thái tri giác của ta hiện nay bị
giới hạn. Do đó sự phân biệt giữa nhận thức và ảo giác chỉ có
thể thực hiện trong cảnh giới các hiện tượng xã hội mà thôi. Bởi
vậy luôn luôn nên đặt câu hỏi về tánh xác thực của bất kỳ tri
nhận nào.
- Mỗi lần mô
tả, minh bạch hay ngầm kín trỏ vào một sự vật tức là
chỉ định một tiêu chuẩn phân biệt, thực hành một ngôn ngữ
phân biệt (linguistic distinction). Ngôn ngữ phân biệt tách
riêng cái được trỏ vào với bối cảnh của nó. Nói cách khác, ngôn
ngữ phân biệt khu biệt một đơn vị A với cái không-A và định
nghĩa A là khiển trừ không-A. Vật A được dựng khởi (định nghĩa
A) khi thực hiện một ngôn ngữ phân biệt (khiển trừ không-A) của
một ngôn ngữ phân biệt (khu biệt A với không-A). Như vậy, một
đơn vị là do một ngôn ngữ phân biệt của một ngôn ngữ phân biệt
dựng khởi. Ngược lại, mọi khi mô tả, một quan sát viên trỏ vào
một đơn vị, thời sự trỏ vào có nghĩa là thực hành một ngôn ngữ
phân biệt của một ngôn ngữ phân biệt nhằm dựng khởi và định
nghĩa đơn vị đó. Tưởng nên nhắc lại đây sự cần thiết đừng lẫn
lộn sự vận hành của sinh vật với sự mô tả tập tính của nó.
- Quan sát viên
có thể tri nhận một đơn vị trong nhiều cảnh giới khác nhau tùy
theo cách phân biệt. Một mặt, nếu chú trọng đến cảnh giới vận
hành của các thành phần của một đơn vị, cảnh giới các trạng thái
nội tại và thay đổi cấu trúc, thời môi trường xem như không có.
Mặt khác, nếu chú trọng đến cảnh giới vận hành của đơn vị tương
tác với môi trường và mô tả lịch sử tương tác của nó, thời quan
sát viên có thể thi thiết những quan hệ giữa một số tính chất
của môi trường và tập tính của đơn vị và bỏ lơ nội động lực của
đơn vị. Hai diện mô tả hai cảnh giới không tương ứng nhau, nhưng
bổ sung nhau đưa đến một sự thông hiểu đầy đủ về đơn vị. Đứng ở
ngoài, quan sát viên tìm cách kết nối hai diện ấy lại.
-
-
- Nếu đơn vị là
một sinh vật có hệ thần kinh, thời nói đến tập tính tức nói đến
những thay đổi vị trí hay thái độ của sinh vật mà một quan sát
viên mô tả như là những chuyển động hay hành động trong một môi
trường nào đó. Quan sát viên có thể mô tả bất kỳ tập tính hay
hành động nào cũng có mục đích, hoặc tác dụng hoặc hàm nghĩa, do
quan sát viên gán ghép tương hợp với tánh tự tạo tự sinh của
sinh vật. Nhưng vì hệ thần kinh vận hành khép kín, nên quan sát
viên nhìn nhận cấu trúc của sinh vật xác định những tương tác
bằng cách chỉ định hình dạng nào của môi trường kích khởi sự
thay đổi cấu trúc của nó. Chính quan sát viên nhìn nhận môi
trường không chỉ định hay điều khiển những thay đổi cấu trúc của
sinh vật. Vì vậy tác dụng hay ý nghĩa mà quan sát viên qui cho
tập tính không liên can gì đến sự thay đổi cấu trúc của sinh
vật.
- Để biện minh
không ý nghĩa nào ẩn tàng trong những thay đổi cấu trúc kích
khởi bởi tương tác, Maturana đưa ra thí dụ quá trình chế tạo một
cặp thấu kính, một lồi một lõm, bằng cách sử dụng một phép quay
thích đáng mài hai mẫu thủy tinh với nhau. Ta có thể bảo hai
thấu kính ấy hoặc hợp thích nhau hoặc cái lõm là để chứa cái
lồi.
- Tuy nhiên, sự
qui ý nghĩa hay mục đích như vậy không phải là một đặc tính của
sự tương ưng hình học. Sự kiện cụ thể là những thay đổi cấu trúc
tùy thuận những tương tác liên tục tái diễn. Sở dĩ Maturana nhất
thiết bằng vào sự thay đổi cấu trúc để mô tả tánh tự tạo tự sinh
là vì ông muốn gạt bỏ mọi kiến giải sử dụng khái niệm thông tin
hay biểu tượng. Lập trường cứng rắn của ông về sau được Varela
bổ túc cho rằng khả năng nhận thức của con người chưa thỏa mãn
cho đến khi nào kiến giải của Maturana được bổ sung bởi những
lời giải thích sử dụng thông tin và biểu tượng một cách cẩn
trọng.
- Động vật và
môi trường tương hợp biến chuyển. Cả hai thay đổi cấu trúc và
hình dạng để hợp thích lẫn nhau, cùng nhau trôi giạt. Chữ trôi
giạt dùng ở đây là để ví với sự trôi giạt của một chiếc thuyền
trên biển cả, không bánh lái, không tay chèo. Hành trình trôi
giạt được xác định từng lúc, từng lúc, tùy thuộc sự tương tác
liên tục tái diễn giữa thuyền với sóng và gió. Hành trình này
diễn biến không có lựa chọn, trôi giạt chừng nào thuyền còn trôi
nổi trên mặt nước (bảo trì tánh thích nghi) và còn giữ nguyên
hình dạng (bảo toàn tổ chức). Giống như thuyền trôi giạt, sự
phát triển cá thể (ontogeny) tức lịch sử thay đổi cấu trúc
với sự bảo toàn tổ chức và tánh thích nghi cùng với sự đổi chỗ
của động vật trong môi trường là quá trình cấu trúc trôi giạt
của động vật.
-
- Bây giờ thay
vì quan sát một hệ sống có hệ thần kinh móc nối cấu trúc với môi
trường, hãy tìm hiểu những gì xảy ra khi hệ sống này móc nối cấu
trúc với những hệ sống khác. Maturana thường dùng cụm từ ‘tánh
gắn bó sinh học’ (biological stickiness) để mô tả tình trạng hai
hệ sống tồn tại gần nhau, hợp thích nhau, và tương tác liên tục
tái diễn.
- Nhìn từ hệ
sống này, hệ sống kia là một nguồn nhiễu loạn không phân biệt
được với những nhiễu loạn đến từ môi trường không sống. Do tánh
gắn bó sinh học, hệ sống này chia xẻ một môi trường chung với hệ
sống kia, hệ này trở thành một phần của cảnh giới tồn tại của hệ
kia. Những tương tác liên tục tái diễn giữa hai hệ gắn bó
nhau tạo điều kiện hiện thành một hợp tác phát triển cá thể
(co-ontogeny). Trong hợp tác phát triển cá thể các hệ sống hợp
thích nhau cùng vận hành theo một quá trình cấu trúc trôi giạt,
hệ nào bảo toàn tổ chức và tánh thích nghi của hệ nấy. Các hệ
sống đồng trôi giạt phát khởi một cảnh giới hiện tượng mới,
hiện tượng xã hội, và tạo ra một đơn vị xã hội trong
đó chúng trở thành những thành viên.
- Với tư cách
quan sát viên, ta có thể mô tả các hỗ tương móc nối cấu trúc
trong quá trình cấu trúc trôi giạt như là một thỏa hiệp phối
hợp tập tính giữa những thành viên của một đơn vị xã hội.
Những thỏa hiệp phối hợp tập tính hỗ tương kích khởi giữa những
thành viên xã hội được gọi là ‘truyền thông’
(communication). Như vậy theo Maturana, ‘truyền thông’ không có
nghĩa là một sự vận chuyển thông tin mà là những thỏa hiệp phối
hợp tập tính giữa các thành viên xuyên qua hỗ tương móc nối cấu
trúc trong một đơn vị xã hội. Thỏa hiệp phối hợp tập tính là đặc
tính then chốt của truyền thông đối với hết thảy mọi sinh vật,
có hay không có hệ thần kinh. Tuy nhiên, hệ thần kinh càng phức
hợp thời thỏa hiệp phối hợp tập tính trở nên càng tinh tế và
càng phức tạp.
- Thỏa hiệp
phối hợp tập tính có thể tự nhiên (natural behavior) hay hoạch
đắc (acquired behavior). Tự nhiên nếu tập tính là kết quả của
những thay đổi cấu trúc độc lập với sự phát triển cá thể riêng
của sinh vật. Hoạch đắc nếu tùy thuộc sự phát triển cá thể riêng
của sinh vật và ngẫu duyên phụ thuộc lịch sử tương tác giữa sinh
vật với các thành viên khác trong đơn vị xã hội. Trong trường
hợp này, quan sát viên có thể qui ý nghĩa cho các thỏa hiệp phối
hợp tập tính và giải thích ý nghĩa đó hiện khởi trong sự phát
triển cá thể và ngẫu duyên phụ thuộc lịch sử cộng tồn của các
thành viên trong đơn vị xã hội. Maturana gọi thỏa hiệp phối hợp
tập tính hoạch đắc là ngôn ngữ tập tính (linguistic
behavior). Ngôn ngữ tập tính rất dễ nhận thấy giữa người với
chó, mèo nuôi trong nhà. Chẳng hạn, con mèo thường cào cửa đòi
chủ mở cửa để ra ngoài, con chó vẫy đuôi mừng chủ đi xa về.
Những ngôn ngữ tập tính ấy xuất hiện bởi tại hợp tác phát triển
cá thể, bởi tại sống gần nhau.
- Một quan sát
viên có thể mô tả những ngôn ngữ tập tính như là một sự trao đổi
thông tin có ý nghĩa. Thí dụ nói “con mèo đang nói với chủ rằng
nó muốn ra ngoài”. Nhưng theo Maturana, đó chỉ là một phóng
chiếu từ quan sát viên chứ ngôn ngữ tập tính không bao hàm ý
nghĩa nào cả. Sự cố chỉ là tác dụng kích khởi lẫn nhau những
thay đổi cấu trúc hợp thích giữa hai hệ sống, người và mèo.
- Ngôn ngữ tập
tính chưa phải là ngôn ngữ. Theo Maturana, ngôn ngữ
(language) là một hiện tượng sinh học phát khởi từ sự vận hành
của các sinh vật liên tục tái diễn tương tác bảo toàn tổ chức và
tánh thích nghi theo quá trình cấu trúc trôi giạt trong hợp tác
phát triển cá thể. Hiện tượng ngôn ngữ sinh khởi khi có “truyền
thông về truyền thông”. Hay: Quá trình sinh khởi ngôn ngữ,
còn gọi là ‘cấu trúc ngôn ngữ’ (languaging), diễn ra khi
một phản thân tác động (reflexive action) thực hiện một ngôn ngữ
phân biệt của ngôn ngữ phân biệt trong tương quan với môi
trường, hay thỏa hiệp phối hợp các thỏa hiệp phối hợp tập tính
trong tương quan với các thành viên xã hội khác.
- Thí dụ sau
đây sẽ giúp hiểu thế nào là cấu trúc ngôn ngữ. Giả thử mỗi buổi
sáng con mèo của tôi kêu meo meo và chạy về phía tủ lạnh. Tôi
theo nó, mở tủ lấy sữa đổ vào một cái chén, và đưa nó hớp hết.
Đó là truyền thông, một phối hợp tập tính xuyên qua những tái
diễn tương tác, hay hỗ tương móc nối cấu trúc. Bây giờ giả thử
một buỗi sáng nọ, tôi không đi theo nó vì tôi biết không còn sữa
cho nó. Nếu con mèo có cách gì đó biết truyền thông cho tôi hay
đại khái như “Ông chủ ơi, tôi đã meo meo ba lần rồi; sữa của tôi
đâu?” thời đó là ngôn ngữ. Mèo không biết sử dụng ngôn ngữ theo
nghĩa của Maturana nhưng theo kết quả nghiên cứu của nhiều nhà
tâm lý học Hoa kỳ, giống tinh tinh (chimpanzee) chẳng những có
khả năng học hỏi một số ký hiệu ngôn ngữ mà còn biết tổ hợp dấu
hiệu thành nhiều cách diễn đạt mới.
- Một thí dụ
khác về ngôn ngữ: Khi đứng bên lề đường ta khoa tay làm dấu nhằm
kích khởi sự lưu ý của một tài xế taxi, thời đó là một phối hợp
tập tính. Khi ta lấy tay vẽ một vòng tròn hàm ý muốn ông tài xế
quay xe một vòng chữ U, thời đó là phối hợp sự phối hợp. Và như
vậy là phát khởi truyền thông bằng ngôn ngữ mức sơ cấp. Vòng
tròn trở thành một dấu hiệu, hiển thị một tâm lý biểu tượng về
quỹ đạo của chiếc taxi. Thí dụ này cho thấy ngôn ngữ là một hệ
thống truyền thông bằng dấu hiệu. Những dấu hiệu như tiếng, chữ,
hay cử chỉ biểu hiệu ngôn ngữ tập tính hay phân biệt. Ngôn ngữ
phân biệt của ngôn ngữ phân biệt dựng khởi các đối tượng (A là
khiển trừ không-A) và dấu hiệu (tên gọi A) trở thành liên hợp
với tâm lý biểu tượng của các đối tượng ấy.
- Nhà nhân
chủng học Gordon Hewes vào thập niên 70 xướng lên thuyết ngôn
ngữ sinh khởi từ khi giống linh trưởng (primates; người khỉ cổ
đại) biết sử dụng tay một cách chính xác để làm dấu hiệu truyền
thông và tạo dụng cụ. Sau một thời gian tiến hóa, chúng có khả
năng theo dõi những chuỗi mẫu hình phức hợp khi tạo dụng cụ, làm
điệu bộ, và ra dấu hiệu và từ đó phát sinh nói thành tiếng.
Roger Fouts trong tập sách Next to Kin (Tối cận thân) của ông
quảng diễn thuyết của Hewes sau khi khảo sát cách truyền thông
của giống tinh tinh. Giống này biết sử dụng những dấu hiệu và tỷ
dụ, nắm bắt được cách xếp loại, và hiểu biết những qui tắc văn
phạm đơn giản. Chúng có khả năng kết hợp các dấu hiệu theo thứ
tự trước sau để gợi ý nghĩa. Chúng sáng tạo thêm nhiều chữ mới
bằng cách kết hợp các dấu hiệu theo kiểu mới.
- Ý tưởng ngôn
ngữ bắt nguồn từ cử chỉ và điệu bộ thật ra không có gì mới mẻ vì
từ xưa ai cũng biết trẻ thơ trải qua một thời gian làm điệu bộ
và cử chỉ trước khi bắt đầu nói. Những người không rành ngôn ngữ
của địa phương mình thăm viếng thường phải ‘nói’ bằng tay. Vấn
đề khoa học tìm hiểu là làm thế nào tiếng nói phát sinh từ cử
chỉ. Làm thế nào tổ tiên người khỉ chúng ta bắc được nhịp cầu
vượt qua cái hố ngăn cách cử động của tay và dòng tiếng nói phát
ra từ miệng?
- Vấn đề này
được nhà thần kinh học Doreen Kimura giải quyết do sự khám phá
tiếng nói và chuyển động chính xác của tay đều do cùng chung một
vùng vận động của não chi phối. Do đó Fouts mới nghĩ ra rằng thủ
ngữ (sign language) hay tiếng nói (spoken language) cả hai đều
là cử động: “Thủ ngữ là cử động của tay; tiếng nói là cử động
của lưỡi. Lưỡi cử động chính xác, ngưng lại những nơi xác định
trong miệng để chúng ta phát ra tiếng nói. Tay và ngón tay ngưng
lại đúng những nơi chung quanh thân thể để tạo ra những dấu
hiệu.” Những cử động chính xác của tay tiến hóa đến độ kích khởi
cử động chính xác của lưỡi và sự tiến hóa cử chỉ phát sinh hai
hậu quả: một, khả năng tạo ra và sử dụng những dụng cụ càng lúc
càng phức tạp và hai, khả năng phát âm thành tiếng nói càng lúc
càng khó hiểu. Sau hàng trăm ngàn năm tiến hóa tiếng nói được sử
dụng nhiều hơn thủ ngữ và trở nên hình thức truyền thông phổ
dụng hiện nay. Tuy thế, theo Fouts, “cử chỉ vẫn còn được sử dụng
như ‘ngôn ngữ thứ hai’ (second language) của mọi văn hóa.”
- Khi đối tượng
được tác thành bởi ngôn ngữ phân biệt của những ngôn ngữ phân
biệt, chúng trở thành cơ sở của những phối hợp khác tạo thêm
nhiều khái niệm trừu tượng về tính chất của chúng, và về những
tương quan giữa các đối tượng. Chẳng hạn, nếu đối tượng là cái
bàn, những khái niệm tạo thêm có thể là chiều cao hay vị trí của
cái bàn, bằng cách tác động phân biệt những phân biệt của những
phân biệt. Quá trình quan sát, theo Maturana, bao gồm những phân
biệt của phân biệt như vậy. Quan sát viên, một đối tượng như
những đối tượng khác, hiện khởi khi ta phân biệt những tác động
quan sát, và cuối cùng tự tri (self-awareness) là quan sát quan
sát viên khi ta sử dụng khái niệm đối tượng và những khái niệm
trừu tượng liên hợp để mô tả chính ta.
- Thật vậy,
quan sát viên và cấu trúc ngôn ngữ đồng thời câu khởi. Mọi hoạt
dụng diễn đạt hay cấu trúc ngôn ngữ đều phát sinh trong kinh
nghiệm sống. Cấu trúc ngôn ngữ không có nghĩa là chuyển đạt tin
tức hay bất kỳ ‘thông tin’ nào, mà trỏ vào một hoạt dụng xã hội
sinh khởi từ những phối hợp hành động về phối hợp hành động.
Không có phối hợp hành động như vậy thời không có cấu trúc ngôn
ngữ để mô tả, và tác động phân biệt của quan sát viên không làm
sao được ý thức.
- Quan sát là
nhận biết phân biệt. Do đó, tự quan sát thấy mình là tác viên
phân biệt tức là phân biệt được tự thân. Maturana diễn tả vòng
kín ấy như sau: “... nếu chúng ta chấp nhận những gì chúng ta
phân biệt tùy thuận những gì chúng ta làm, như khoa học vật lý
hiện đại chấp nhận, thời chúng ta, quan sát viên, hoạt động với
giả thiết ngầm là, chúng ta bẩm thụ lý trí, và điều này không
cần hay không thể giải thích. Tuy vậy, nếu chúng ta, quan sát
viên, suy gẫm về kinh nghiệm của chúng ta thời chúng ta khám phá
ra kinh nghiệm của chúng ta là tìm thấy chúng ta đang quan sát,
đang nói, hay đang tác động, và bất kỳ giải thích hay mô tả nào
về những gì chúng ta làm đều suy ra từ kinh nghiệm chúng ta tìm
thấy chúng ta đang làm những gì chúng ta làm.” (... if we
accept that what we distinguish depends on what we do, as modern
physics does, we operate under the implicit assumption that, as
observers, we are endowed with rationality, and that this need
not or cannot be explained. Yet, if we reflect upon our
experience as observers, we discover that our experience is that
we find ourselves observing, talking, or acting, and that any
explanation or description of what we do is secondary to our
experience of finding ourselves in the doing of what we do.)
- Điểm nổi bật
trong cái vòng kín ấy là đối tượng quan sát không phải là sự
vật, tính chất, hay những mối tương quan của một thế giới ‘như
thị’, mà là những kết quả của những phân biệt do chính quan sát
viên tác thành. Bởi vậy, không làm sao có được những kết quả của
phân biệt nếu không có ai đó tác động phân biệt. Như thế, quan
sát viên sinh khởi từ cách thức và phương tiện mô tả của chính
nó, nghĩa là bằng cách phân biệt chính nó. Tác dụng căn bản của
phân biệt dẫn đến sự phân biệt ly cách quan sát viên với đối
tượng quan sát.
- Hãy nhìn lại
bức hình Tay vẽ tay của họa sĩ M. C. Escher. Ta nhận ngay
ra ẩn núp đằng sau là bàn tay của họa sĩ vẽ cả hai tay, trái và
phải. Cũng vậy, ta có thể giải thích tay vẽ tay là vòng kín tác
động phân biệt của tác động phân biệt, và đằng sau là quan sát
viên phân biệt với cái vòng kín ấy.
- Những điều
trình bày trên làm tưởng nhớ đến Descartes. Nhằm bác bỏ chủ
nghĩa hoài nghi (skepticism), Descartes sử dụng hoài nghi như
một lợi khí để tách riêng tất cả những gì khả nghi với những sự
thật còn lại. Cuối cùng điều duy nhất ông nhận thấy và có thể
tin chắc là điều chính ông đang trầm tư trong hoài nghi. Vì sự
trầm tư của ông nhằm thấu đạt một thực thể, trái ngược với chủ
trương của chủ nghĩa hoài nghi, cho nên ông phát biểu sự tin
chắc về tư tưởng hoài nghi của ông như một nguyên lý thực thể
học: cogito ergo sum (Tôi suy nghĩ, như vậy là tôi thực hữu).
Maturana không chấp nhận lời phát biểu ấy vì chữ ‘sum’ xác nhận
một bản thể có thật. Thật ra, tư tưởng hoài nghi mà ông tin
chắc, Descartes không thấy rõ nó phải y cứ trên những phân biệt
mà ông là tác viên trong cái thế giới kinh nghiệm của chính ông
chứ không trên bất kỳ một thực thể nào cả. Nếu thấy rõ thời chắc
ông đã hô lớn: “Do phân biệt, tôi tạo tôi thành quan sát viên.”
- Ngôn ngữ phân
biệt không cô lập mà ở trong mạng lưới móc nối cấu trúc, mạng
lưới ta không ngừng đan kết bằng cấu trúc ngôn ngữ. Ý nghĩa phát
khởi như một mẫu hình các quan hệ giữa các ngôn ngữ phân biệt.
Như thế, chúng ta tồn tại trong một ‘cảnh giới ý nghĩa’ do chúng
ta sử dụng ngôn ngữ dựng thành. Khi ta sử dụng khái niệm đối
tượng và những khái niệm trừu tượng liên hợp để mô tả chính ta
thời tự tri sinh khởi. Maturana nhận xét: “Vì biết (nhận thức)
là hành động có hiệu quả cho nên biết không liên can đến đối
tượng và khi biết chúng ta biết như thế nào, chúng ta dựng khởi
ngay chính chúng ta”. Cảnh giới ngôn ngữ của con người mở rộng
để bao hàm suy tưởng và tự tri.
- Theo trên, tự
tri (self-awareness) dính liền ngôn ngữ phân biệt và vấn đề
thông hiểu ngôn ngữ phân biệt được tiếp cận xuyên qua một sự
phân tích kỹ lưỡng về vấn đề truyền thông. Kết quả cho thấy cá
thể tồn tại chỉ trong ngôn ngữ, tự ngã tồn tại chỉ trong ngôn
ngữ, và tự ý thức (self-consciousness) xem như một hiện tượng tự
phân biệt phát sinh chỉ trong ngôn ngữ. Hơn nữa, vì ngôn ngữ,
cảnh giới các thỏa hiệp phối hợp hành động, là một hiện tượng xã
hội, cho nên tự ý thức là một hiện tượng xã hội.
- Là người,
chúng ta tồn tại trong ngôn ngữ. Duy nhất con người mới có khả
năng liên tục đan kết mạng lưới ngôn ngữ mà nó trầm mình trong
đó. Bằng ngôn ngữ chúng ta phối hợp tập tính của chúng ta và
cùng nhau dựng khởi thế giới của chúng ta. Thế giới này bao hàm
thế giới nội tâm của chúng ta, gồm những tư tưởng, khái niệm,
tín ngưỡng, tâm lý biểu tượng, ý hướng, và tự tri. Như vậy, tâm
hành phát sinh trong ngôn ngữ, do đó chỉ phát sinh trong cảnh
giới xã hội. Thuyết diễn xuất của Maturana và Varela khác xa các
thuyết tánh biết khác vì đặt trọng tâm vào ngôn ngữ và truyền
thông. Theo Maturana, các hiện tượng tâm ý là hiện tượng xã hội
nên chỉ thông đạt được qua ngôn ngữ và qua toàn thể cảnh huống
xã hội bao hàm chúng trong đó.
- Nhìn lại từ
đầu, ta thấy thuyết diễn xuất giải thích nhận thức như một hiện
tượng sinh học, và nhân đó thuyết minh sự sinh khởi của ngôn
ngữ. Tuy là một thuyết khoa học căn cứ trên sinh học, nhưng
thuyết diễn xuất giải thích những kinh nghiệm sống có ý thức
thay vì một thế giới hiện thực như nhiều thuyết về tánh biết
hiện nay. Maturana và Varela sử dụng tánh biết và ngôn ngữ
thường ngày vẽ một vòng kín kết nối hành động và kinh nghiệm
nhằm cắt nghĩa biết là biết như thế nào và đâu là căn nguyên của
ngôn ngữ. Những trật tự có qui củ được dẫn ra theo thứ lớp từ tổ
chức tự tạo tự sinh, quá trình cấu trúc trôi giạt, hợp tác phát
triển cá thể, đến cảnh giới các hiện tượng xã hội, truyền thông,
ngôn ngữ tập tính hay ngôn ngữ phân biệt.
- Giống như cơ
chế móc nối cấu trúc của loại côn trùng xã hội, loài kiến chẳng
hạn, phát sinh xuyên qua sự liên tục trao đổi hóa chất
(trophallaxis), cơ chế móc nối cấu trúc giữa người với người
phát sinh xuyên qua ngôn ngữ. Ngôn ngữ không phải là một lợi khí
để hiển thị một thế giới bên ngoài mà thật ra bằng cấu trúc ngôn
ngữ, nhận thức tác dụng dựng khởi một thế giới. Cuộc sống của
chúng ta diễn ra qua hỗ tương móc nối ngôn ngữ không phải vì
ngôn ngữ để chúng ta tự xuất hiện mà bởi tại thể trạng của chúng
ta bằng ngôn ngữ thường xuyên đang được chính ta và đồng loại
dựng thành. Những nét đặc trưng hoạt tính của con người nêu ra
trong thuyết diễn xuất áp dụng vào hết thảy mọi mặt trong đời
sống hằng ngày.
- Một điều khá
lý thú là những gì trên đây tác giả cố gắng đem sở học trình bày
thuyết diễn xuất của Maturana và Varela tuồng như tìm thấy được
trong lời văn có tính triết lý tôn giáo và đôi khi văn nghệ của
bài “Mười huyền môn: Trật tự của thế giới trong tương quan vô
tận”, của Thầy Tuệ Sỹ. Tác giả chỉ trích dẫn ra đây một số ít
đoạn chứ thật ra toàn bài hầu như không có đoạn nào là không
liên can đến thuyết diễn xuất của Maturana và Varela. Đối với
tác giả, cụm từ ‘sự phản chiếu’ Thầy dùng trong bài có ý nghĩa
tương đương với cụm từ ‘sự tương tác liên tục tái diễn’ mà tác
giả sử dụng mô tả quan hệ giữa các hệ sống với nhau và với môi
trường bao quanh chúng. Trong ngành khảo cứu khoa học những quan
hệ đó được mô tả chính xác bằng các hệ thống động lực, toán học
về các hệ thống phức hợp hay mạng lưới tự tổ chức. Sau phần
trích dẫn, tác giả sẽ lược trình khái niệm tự quy chiếu
(self-reference) và phép đệ qui (recursion) là thứ ngôn ngữ diễn
tả ‘sự phản chiếu’ hay ‘sự tương tác liên tục tái diễn’ rất cần
thiết trong vấn đề tìm hiểu bản chất trùng trùng duyên khởi của
mọi sự vật trong vũ trụ.
- Trước hết, về
nhân quả đồng thời, có đoạn:
- “Trong khi
lập thuyết, người ta phải tuân theo một trật tự cố định. Nhưng ý
nghĩa đạt được thì luôn luôn vượt ngoài trật tự này. Thí dụ, khi
diễn tả bằng văn tự, người ta phải tuân theo một qui ước: hoặc
viết theo hàng ngang hoặc viết theo hàng dọc, và trong đó các
chữ phải được sắp theo một thứ tự nào đó. Nhưng ở lãnh hội, tất
cả những qui ước và hình thức diễn tả của văn tự đều biến mất.
Chúng biến mất bởi vì cái ý nghĩa mà chúng ta đạt được nó xuất
hiện trong tác dụng đồng thời của tất cả các phương tiện diễn
đạt. Dù vậy, mọi sự thể vẫn giữ nguyên vị trí của nó trong trật
tự cọng đồng.
- Tính cách
đồng thời vừa nói chính là nhân quả đồng thời, nhưng không xét
theo tự thể mà chỉ xét theo tác động. Không xét theo tự thể, tức
là không nói sự thể này đã sinh ra sự thể kia như thế nào. Nói
tác động là nói sự phản chiếu, và là phản chiếu trong toàn diện.
Trong cái chủ động, phản chiếu toàn diện cái bị tác động, và
ngược lại. Sự phản chiếu ấy lập nên nhân quả đồng thời.
- Từ lý luận trên, người ta nói,
khi một sự thể tự biểu lộ toàn diện của nó, đồng thời biểu lộ
toàn diện tất cả sự thể khác. Đến lượt mỗi sự thể trong cũng tự
biểu lộ và biểu lộ tất cả. Như vậy mọi sự thể xuất hiện trong
tương quan, và vì tương quan ấy là tương tại và tương thị nên
trở thành tương quan vô tận; trật tự nhân quả vẫn không rối
loạn.”
- Tương tại
được giải thích: “Thế nào là tương tại? Đó là sự phản chiếu lẫn
nhau của các sự thể, trong thế giới cộng đồng. Nói một cách giản
lược, đó là sự phản chiếu của cá biệt và toàn thể, giống như
hình ảnh của một biển lớn được phản chiếu trọn vẹn trong một làn
sóng và ngược lại. Theo nghĩa đó, cái lớn ở trong cái nhỏ và cái
nhỏ ở trong cái lớn. Bởi vì, trong tức là phản chiếu toàn diện,
do đó nói rằng cái này ở trong cái kia có nghĩa rằng cái này
chính là cái kia: tương tại tức là tương thị.”
- Những hình
ảnh tương tợ là những thí dụ rất quan trọng trong việc diễn tả
các quá trình, chẳng hạn như quá trình cấu trúc trôi giạt hay
hợp tác phát triển cá thể được định nghĩa tương tợ như sự trôi
giạt của một chiếc thuyền trên biển cả, không bánh lái, không
tay chèo. Thầy Tuệ Sỹ đề cập một cách rất khoa học đến giá trị
ước lệ của thí dụ như sau: “Tạo ra một thí dụ, người ta chỉ cần
biết thế nào là những cái tương đồng, theo cách loại suy. Sau
đó, phải làm thế nào mà xóa được thí dụ một cách dễ dàng, thì sự
diễn đạt mới được thấu đáo. Như vậy, giữa cái được ám chỉ bằng
thí dụ và bản thân của thí dụ cần có một khoảng trống. Tiên
khởi, vì có khoảng trống nên mới có thể bỏ qua thí dụ để nhân ra
cái được thí dụ. Cũng như khi đặt một ngón tay lên môi mà nói:
"giống cái này"; nói thế, khó phân biệt cái này là cái nào, là
ngón tay hay môi miệng. Cũng vậy, sự thí dụ phải diễn tiến từ
chỗ tạp loạn, cái này cũng giống cái kia, rồi đi đến chỗ phân
biệt nghiêm xác. Giống nhau tức là đồng loại, đồng hành. Nghĩa
là, trên tổng quát thì người ta nói: "cái này cũng vậy", chúng
đồng loại, vì cũng xuất hiện trong một môi trường. Chúng đồng
hành,vì cùng vận chyển trong môi trường đó. Cùng xuất hiện và
vận chuyển trong một môi trường chung, nhưng mỗi cái có một vị
trí riêng biệt; vì thế, cái này đối với cái kia chỉ giống như
chứ không thực sự như vậy.
- Người ta
thường nói, thí dụ chỉ có giá trị rất ước lệ. Bởi vì những cái
mà người ta dùng để thí dụ phải giới hạn trong phạm vi thông tục
của kinh nghiệm thường thức. Lấy cái đã biết để đẫn khởi cái
chưa biết. Nếu cái chưa biết vĩnh viễn không xuất hiện thì thí
dụ sẽ bao hàm tính chất độc đoán.”
- Nói về những
tương tác liên tục tái diễn, tánh xuất khởi, và sự sinh khỏi của
ngôn ngữ, xin trích dẫn toàn đoạn giải thích huyền môn thứ ba:
Bí mật ẩn hiển câu thành:
- “Phản chiếu
là tác dụng của định luật duyên khởi. Từ trên định luật này,
người ta suy diễn được hai khả năng thành tựu: sự thành tựu của
cá thể và sự thành tựu của toàn thể. Đối với cá thể, sự thành
tựu đó có nghĩa sự xuất hiện của nó trong một vị trí cố định.
Người ta sẽ qui định mọi thể cách tương quan hiện hữu bằng vị
trí này. Định được một vị trí là định được tất cả vị trí khác.
Như vậy, khi khởi lên tác dụng trong một thế giới cộng đồng,
người ta thấy ngay đã có ở đó một trật tự an bài. Bởi vì trật tự
được đặt trên nền tảng duyên khởi, do đó sự thiết lập là tác
dụng của chính mỗi sự thể cá biệt. Khái niệm về lý duyên khởi
vẫn là: "Không có tác giả, không thọ giả, chỉ có tác nghiệp".
Không có một thế lực biên khởi, không có một tự thể quyết định
thúc đẩy mọi tác dụng. Tự thể được coi như xuất hiện và tồn tại
bằng tác dụng; nghĩa là, không có tự thể ờ đằng sau tác dụng.
Nói rằng cá thể cố thủ lấy vị trí cố định của nó, không phải vì
vậy mà cá thể ấy tự hữu như một tự thể tuyệt đối. Tuy nhiên, đã
nói là cố định trong một vị trí, thế thì bằng cách nào mà khởi
lên được tác dụng? Ở đây, chỉ có một tác dụng căn bản là sự phản
chiếu. Toàn thể được phản chiếu trong cá biệt; do phản chiếu như
vậy, sự thể cá biệt được coi như có vị trí cố định.
- Thế nào là ý
nghĩa của một lời nói? Đó là khởi điểm của Hoa nghiêm tông. Nó
khởi lên từ cái đống hỗn mang mờ mịt của vạn hữu. Một khi lời
nói đã thành hình, người ta muốn cho ý nghĩa của nó phải kéo lôi
mớ bòng bong của vạn hữu ra khỏi sự tạp loạn của chúng để trở
thành một trật tự có qui củ. Tiên khởi, chắc chắn là người ta
không thể tìm thấy trật tự này trong chính bản thân của vạn hữu.
Nhưng bản thân của vạn hữu lại chính là Pháp thân của Phật. Như
vậy, thay vì lần dò theo lời nói phát ra từ chính mình, người ta
phải bắt đầu bằng cách nghe lại từ lời nói của Phật. Chính lời
nói ấy nói rằng những gì được nói lên, đều nói theo sự phản
chiếu của vạn hữu. Vạn hữu phản chiếu lẫn nhau để trở thành
những biểu tượng danh ngôn như vậy. Đây là lời nói của kinh Hoa
Nghiêm: "Pháp như vậy là như vậy: không có tác giả, không có
thành giả. Như vậy, bậc Ứng cúng, Đẳng chánh giác cũng như vậy".
Nơi khác kinh nói: "Phật không có xuất hiện thế gian, cũng
không có nhập niết bàn. Vì sức mạnh của đại nguyện mà hiển hiện
pháp tự tại".
- Những lời ấy
muốn nói gì? Nghe được lời của Phật là nghe tiếng nói thầm lặng
của vạn hữu. Nhưng làm sao để nghe? Vậy trước hết, hiểu cách nói
của Phật. Cách nói ấy được coi như tùy tiện, và tùy thuận theo
cơ cảm. Cách nói phản chiếu từ cách nghe. Cách nghe phản chiếu
lại cách nói. Nói và nghe ràng buộc với nhau như trong thế giới
cộng đồng của tác dụng. Sự ràng buộc ấy trở nên chặt chẽ, giống
như bóng tối ràng buộc lẫn nhau trong thầm kín sâu xa. Đó là bên
trong. Mặt ngoài chúng vẫn hiện ra trên một trật tự có qui củ.
Từ đó suy diễn ra, vạn hữu phản chiếu lẫn nhau sẽ được coi như
có hai phần, điển hình bằng thí dụ: sự phản chiếu của bóng tối
với bóng tối. Đó là phản chiếu trong một trật tự không có trật
tự. Kế đến, sự phản chiếu của ánh sáng với ánh sáng. Điển hình
thứ ba và thứ tư: phản chiếu giữa ánh sáng và bóng tối. Qui định
và phân phối tính cách phản chiếu này trong thế giới cộng đồng,
ta sẽ tìm thấy vị trí cố định của cá thể.
- Lời nói sẽ
được coi như là sự phản chiếu của ý nghĩa; và ngược lại. Ở đây,
ý nghĩa cũng được coi như là sự phản chiếu của vạn hữu; và ngược
lại. Vậy trật tự của vạn hữu sẽ được phối trí một cách tùy tiện,
và tùy thuận với lời nói. Chúng ta tự phối trí lấy trật tự lời
nói của chính mình. Người nói và người nghe là một. Bởi thế, chỉ
có tác dụng của nghe và nói mà không có tác giả. Khi được nói,
ta đẩy lui những lời khác vào cõi miền u tịch thầm lặng. Toàn
thể được hiển hiện. Khi toàn thể hiển hiện, cá biệt tự lẫn vào
căn cơ thầm kín. Căn cơ này ở nơi chính nó và ở trong cảø toàn
thể. Ta nói để riêng ta nghe. Tự nghe những lời tự nói. Như thế,
thế giới tự tác thành thế giới, bởi vì vạn hữu được tác thành
bởi chính ta. Ta là thế giới. Nhưng thế giới không tự hủy bản
sắc của nó để trở thành thế giới là ta. Ta và thế giới vừa có
giới hạn phân biệt, vừa bao dung lẫn nhau bằng phản chiếu vô
tận. Bấy giờ, tự thành lại có nghĩa là tương thành, cùng đồng
với thành tựu.
- Nếu nghe ra
được những chiều hướng tác động của lời nói từ ta nói lên, ta sẽ
thấy niềm tương ứng, trong đó cả thế giới loài người, loài vật,
cây cỏ, cùng nói và cùng nghe. Nghe một lời và nói lên trong sự
hiển hiện của âm thanh và ánh sáng, là cùng lúc nghe ra những
lời thầm lặng không nói trong sự ẩn mật tương ứng.
- Chúng ta đi
từ trật tự lý trí phân biệt, ở đó phân biệt giới hạn nghiêm khốc
của những cá biệt, rồi tiến tới căn cơ của chúng, là niềm tương
ứng được mệnh danh là chân tánh hư không. Nghĩa là từ duyên khởi
mà suy diễn ra Tánh Không. Bởi vì, đó là niềm tương ứng nên
chúng ta phát hiện được sự phản chiếu vô tận. Sau đó là sự thành
tựu của ngôn ngữ, thành tựu từ phân biệt ở trong cái không phân
biệt. Nói và không nói, chúng tự thành. Ẩn và hiển là tính cách
tự thành và tương thành của vạn hữu.”
- Sau đây là
phần giải thích huyền môn thứ tư: Vi tế tương dung an lập, dùng
phép đệ qui (recursion) ‘tác dụng kết hợp tự kết hợp lấy chính
nó’ diễn tả khả năng tự thành và tương thành của vạn hữu. Đoạn
này cũng bàn đến bản tính phân biệt của tâm thức và ngôn ngữ, sự
vận hành khép kín (phân biệt bằng kết hợp) của cá thể, và ngôn
ngữ tập tính (phân biệt bằng mô tả).
- “Phản chiếu
vô tận; đấy là một lối diễn tả gợi hình. Khả năng của thí dụ là
gợi hình. Khả năng tự thành và tương thành của vạn hữu lại là
khả năng phản chiếu. Vì là sự phản chiếu đồng thời; vì là sự
tương ứng đồng khởi vừa ẩn hiện; do đó, tất cả những cái rời
rạc, vụn vặt, nhỏ nhiệm được kết hợp bằng chính tác dụng cá
biệt. Chúng ta vẫn có thể nhắc lại một lần nữa, rằng: không có
tác giả; chỉ có tác nghiệp. Không có tác giả, như một chủ thể
tuyệt đối, của sự kết hợp. Cũng không có thọ giả, cái thừa hưởng
hậu quả của sự kết hợp. Tác dụng kết hợp tự kết họp lấy chính
nó. Bằng một lối diễn tả tương tợ, người ta nói không có tác giả
của tác giả đời sống, không có cái thừa hưởng hậu quả của đời
sống. Đời sống tự tác thành bằng chính tác dụng của nó. Như vậy,
chúng ta phải nỗ lực để trực nhận bản tính hiện hữu và tồn tại
của vạn hữu bằng chính tác dụng kết hợp. Chúng ta hãy quảng diễn
về tác dụng kết hợp này. Nếu nói một cách giản lược, chúng ta có
thể có câu hỏi: những cái rời rạc và vụn vặt của vạn hữu đã được
ràng buộc với nhau như thế nào để thêu dệt thành mộ tthế giới?
Nói như thế tức là ám chỉ rằng mỗi sự thể là một nút thắt được
phân phối có trật tự trong một màng lưới không giới hạn của thế
giới. Khi một nút thắt được tháo ra, toàn thể màng lưới cũng tan
rã theo. Và khi một nút thắt di chuyển, toàn thể màng lưới cũng
di chuyển theo. Lối diễn tả như vậy là chỉ nói về sự kết hợp
theo chiều ngang, và hàm ý rằng chiều ngang là ngoại tại và
chiều dọc sẽ là nội tại. Ngoại tại là thế giới của cộng đồng tác
dụng; nội tại là thế giới của tự hữu. Kết quả, sự phản chiếu chỉ
là tác dụng liên khởi, và chỉ diễn ra ở mặt ngoài. Cũng như tấm
gương này phải ở ngoài tấm gương kia mới phản chiếu lẫn nhau
được. Kết quả này quả quyết rằng phản chiếu không phải là tự
chiếu. Thí dụ, nói đối diện tức là đối diện với một hình bóng
trong gương. Từ đây lại nảy ra một kết quả khác, ngược với những
gì mà ta mong muốn từ đầu, theo đó vạn hữu vừa tự thành vừa
tương thành. Bởi vì phản chiếu thì có mà tự chiếu thì không, do
đó có tương thành nhưng không có tự thành.
- Thực sự, ngay
từ khởi đầu, chúng ta chỉ muốn rằng cái bản tính phân biệt của
tâm thức và ngôn ngữ hằng gây nên một ảnh hưởng quyết định trong
đời sống của mình, để cho đời sống ấy được mở rộng như hư không.
Thế nhưng, luôn luôn chúng ta lại phải khởi đầu bằng bản tính
phân biệt. Để đối trị bản tính đó mà chúng ta nỗ lực, bằng mọi
phương tiện vốn có theo căn cơ, đẩy cái bản tính phân biệt đi
vào cõi vô phân biệt. Vì vậy, chúng ta đã nỗ lực chiêm ngưỡng
thế giới như là một thế giới của phản chiếu vô tận; không phải
chỉ phản chiếu trong chiều ngang mà còn là phản chiếu cả trong
chiều dọc, tức là tự chiếu.
- Trước ý định
ấy, ta phải thực hiện như thế nào, bằng bản tính cố hữu là phân
biệt? Chúng ta sẽ có hai chiều hướng phân biệt: trong chiều
ngang, phân biệt bằng mô tả; trong chiều dọc, phân biệt bằng kết
hợp.
- Đối với phân
biệt bằng mô tả trong chiều ngang, chúng ta nói rằng thế giới
xuất hiện như một trật tự đã an bài ở đó. Với tư cách là một chủ
thể di động, ta thực hiện một lữ hành trên trật tự này. Những gì
chúng ta bắt gặp, chúng phản chiếu thành trật tự của tâm thức.
Bởi vì trật tự của tâm thức không trải dài thành chiều ngang, do
đó khi thế giới được phản chiếu trong tâm thức, bấy giờ trật tự
của thế giới không an bài như bất động mà liên tục biến động
theo dòng thác đổ của tâm thức. Trật tự của dòng vận chuyển này
được qui định bằng tương quan nhân quả. Khởi lên và biến mất một
cách liên tục, đó là tương quan nhân quả, được chứng thật bằng
tác động của tâm thức. Có trật tự vận chuyển của tâm thức cho
nên có tương quan nhân quả, có tương quan nhân quả cho nên ta
nhận ra trật tự an bài của thế giới. Như vậy, khi nắm vững được
mối quan hệ nhân quả của vạn hữu, ta có thể mô tả bản sắc và bản
tính hiện hữu của toàn thể thế giới: ở nơi này hay ở nơi khác,
vạn hữu đã khởi lên như thế nào, tồn tại như thế nào và sẽ hủy
diệt như thế nào. Từ sự mô tả được coi như là trung thành ấy mà
khởi lên hoạt động thì có thể tiên liệu được chiều hướng và hậu
quả sẽ đạt được. Tuy nhiên, cái hậu quả đạt đựợc ấy trái với
mong muốn của ta. Thực vậy, chúng ta muốn gì? Nói một cách văn
nghệ, chúng ta muốn sống trong kinh nghiệm về sự chết và chết
trong kinh nghiệm về sự sống, sao cho sống và chết thêu dệt
thành định mệnh lịch sử của mình. Rồi lấy cái định mệnh lịch sử
ấy làm cõi miền tương ứng. Như thế là ta sẽ sống và chết với
loài người, loài vật, với cả trời đất trong một cảnh giới an
nhiên vĩnh viễn. Cho tới lúc ta cảm giác một cách sâu xa là đạt
đến chỗ đó, rồi qua trung gian của ngôn ngữ trong thế giới sinh
hoạt cộng đồng, bất chợt thấy ra rằng đấy không phải là tương
ứng, mà là tương nhượng. Vì tương nhượng, ta chỉ có thể hé mở
một nửa cái tàng ẩn, che kín lại một nửa cái biểu lộ, ẩn và hiển
vĩnh viễn ly xa cách, không bao giờ tương ứng.
- Chúng ta thử
xoay sang một chiều hướng khác. Trong chiều này, chúng ta không
mong mô tả một thế giới tương ứng; mà tiên khởi, cho rằng cái
trật tự an bài của thế giới chẳng khác nào trật tự của hoa đốm
giữa hư không. Như vậy, mở đầu trong chiều dọc phân biệt bằng
kết hợp, chúng ta khai triển khả năng phủ định; tức là mở đầu
bằng công tác hủy diệt. Hủy diệt thế giới thành hư kh6ng; hủy
diệt hư không thành hư vô hoảng hốt. Làm thế để từ chối trách
nhiệm về những cái ta nói ra, tức là qui chiếu trách nhiệm ấy
vào hư vô: chính hư vô đã nói vậy, đã làm như vậy; vân vân. Từ
chối trách nhiệm, chúng ta cố tình không nhận bất cứ một hậu quả
sẽ đến nào cả. Tuy nhiên, chính hư vô đã làm nảy ra một ý tưởng
phi lý như vậy; không phải do ta.
- Thực hiện sự
hủy diệt kể trên như thế nào? Trong tiết II, ở đoạn nói về khả
tính và khả năng của thí dụ, chúng ta đả dẫn dụng thí dụ của
Hiền Thủ quốc sư, toát yếu mười chủ điểm của Hoa Nghiêm tông.
Nơi đây, có thể bắt đầu lại từ điểm một đến điểm nười. Nghĩa là
bắt đầu từ điểm một bằng cách phân biệt duyên khởi để qui chiếu
tất cả trách nhiệm về tác thành và hủy diệt thế giới cho hư
không. Đến điểm thứ mười, ta qui định rằng thể tánh của trí tuệ
là Như, là Đại Niết Bàn: Ngôn ngử đạo đoạn, tâm hành diệc
ngật, bất sinh bất diệt, Pháp như Niết bàn. Phân tán vạn hữu
thành muôn mảnh vụn vặt là do tánh không; và kết hợp chúng cũng
do tánh không. Nói một cách tượng hình, tánh không tức là hư
không: chư Pháp vô biến dịch, tánh không vô tác cố, ly cấu vô
nhiệm ô, kỳ tánh như hư không. Như thế, chân tánh của vạn
hữu là chân không, chân không không có giới hạn, không có phần
vị sai biệt. Vạn hữu là muôn mảnh vụn vặt. Bởi tánh không tán
vụn chúng ra như vậy. Chúng ta tìm thấy tánh không ngay ở từng
mảnh vụn sai biệt này. Mỗi mảnh vụn, dù nhỏ nhặt vẫn dung chứa
toàn vẹn cái tánh không vô hạn. Tánh không là một. Các mảnh vụn
thì nhiều vô số. Cái Một thì vô hạn nên Lớn. Cái vô số thì hữu
hạn nên Nhỏ. Như thế, cái thật Lơn được chứa đựng không dư không
thiếu trong cái thật Nhỏ.
- Chúng ta suy
luận tiếp. Tánh không là Lý tánh tuyệt đối; vạn hữu là những Sự
thể cụ thể. Lý tánh không ở ngoài sự thể. Bởi vì đó là Lý của
Sự. Giới từ "của" không phát biểu một ý niệm sở hữu, mà được
hiểu theo nghĩa "bao dung lẫn nhau"; như nói: "mây" của trời,
hay nói rõ hơn: "màu xanh của trời"; vì màu của trời là màu
xanh. Vậy "của" diễn tả sự bao dung theo nghĩa tương tại và
tương thị. Từ chỗ tương dung của Lý và Sự, của cái Lớn vô hạn và
cái Nhỏ hữu hạn, bởi vì Lý Tức Sự và Sự tức Lý, do đó chúng ta
tiến đến chỗ tương dung của vạn hữu. Nhìn theo chiều ngang, sự
tương dung ấy được diễn tả như là tương thị: cái này đích thị là
cái kia vì phản chiếu nội tại. Như vậy, tánh không phân tán vạn
hữu thành từng mảnh vụn nhỏ nhặt, vì trong sự phân tán đó nó làm
bộc lộ tánh cách vừa tự nhiên vừa phản chiếu lẫn nhau của vạn
hữu. Chúng ta gặp ý tưởng được nêu lên từ đầu: không có tác giả,
không có thọ giả, chỉ có tác nghiệp.
- Thế là chúng
ta đạt được viễn tượng tương dung của vạn hữu. Chính vạn hữu tự
kết hợp thành niềm tương ứng. Ta lấy đó làm lý tưởng cứu cánh
của mình và qui chiếu tất cả mọi hoạt động vào chiều hướng duy
nhất đó. Như vậy chỉ có một con đường độc nhất phải đi. Kinh
Pháp Hoa nói: “Tất cả các bậc giác ngộ trong mười phương thế
giới, suốt từ quá khứ, hiện tại đến vị lai, công bố chỉ có một
con đường duy nhất. Nhưng ta – Phật Thích ca – lại nói với các
ngươi là có ba con đường. Vậy ta có lừa dối các ngươi không?
Thưa không. Vì sao?” Trả lời gián tiếp bằng trích dẫn từ
đoạn khác: “Các đấng Giác ngộ, đã thành tựu trọn vẹn trí tuệ
và công hạnh tối thượng, biết rằng bản tính của vạn hữu là vô
tính; hạt giống Giác ngộ được nảy mầm do tương quan. Bởi vậy,
các ngài công bố chỉ có con đường độc nhất.”
- Cuối cùng,
phần giải thích huyền môn thứ mười: Thác sự hiển pháp sanh giải,
nhấn mạnh đến khát vọng thúc đẩy nỗ lực thiết lập trật tự của
ngôn ngữ, của tâm hành, và của thế giới, thiết lập mối quan hệ
mật thiết giữa chúng, mặc dầu biết tất cả kinh nghiệm sống thực
của chúng ta chỉ là những thí dụ điển hình: không có sự thực và
biên tế của sự thực nào ở trong đó cả.
- “Tất cả những
phân biệt của chúng ta chỉ có tính cách tượng trưng. Trước một
yêu sách tuyệt đối; chúng ta phải nỗ lực đi cho tận cùng biên tế
của ngôn ngữ, của tâm hành và của thế giới. Càng lúc ta càng bị
lôi cuốn vào một nơi đầy những chi tiết vụn vặt. Dù không muốn
sự phân tích trở thành tạp loạn và rời rạc; tất cả những hình
ảnh đạt được không biểu lộ cho một ý nghĩa nào hết, ngoài sự
biểu lộ một ước vọng, một chủ đích đã được nêu lên từ trước. Chủ
đích đó la muốn thấy và hiểu những gì thầm kín nhất tàng ẩn
trong ta. Gọi chúng là những năng lực tiềm tàng; năng lực biến
hư vô thành tựu sự hữu; thành tựu tất cả sự hữu từ hư vô. Ảo
tưởng và sự thật không còn một giới hạn phân biệt nào nữa. Ảo
tưởng và sự thật được phân phối có điều độ, và được sử dụng như
là phương tiện xảo diệu: nỗ lực để thấy và hiểu ý nghĩa cứu cánh
ngay trong giới hạn thông tục của sự thật.
- Từ lúc khởi
đầu, những gì ta muốn thấy và hiểu đều mang đầy tính chất dự
tưởng, và nhất định là ảo tưởng. Bởi vì không một sự thật nào
trong tri kiến thông tục của chúng ta khả dĩ minh chứng. Nói
năng và suy nghĩ như đếm dấu chân của một đàn chim vừa bay ngang
qua hư không. Quả thật, chúng ta đã tạo ra một hình ảnh của thế
giới, rồi sau đó phân tích, phân loại, phân phối trật tự, với
cảm tưởng rằng thế giới đó như vậy, trong giới hạn thực tế của
nó. Về sau, lại kiểm chứng hiệu lực của những điều đã thực hiện
được. Tất cả mọi việc xảy ra đối với ta có vẻ sự thực hiển nhiên
là như vậy.
- Dù vậy, ít ra
chúng ta cũng hiểu từ đâu thôi thúc. Đây là sự quyến rủ của mặt
biển mênh mông vô hạn: Làm thế nào để thấy trọn vẹn cái vô hạn
này như thấy một trái xoài trong tay? Đây là tiếng đổ ầm trong
những đêm tối: nó mang ẩn nghĩa nào của thế giới? Trên những
ngàn cao, cọng cỏ non đang ra sức chống trả nạn bão: đâu là giới
hạn của sức mạnh?
- Thấy và hiểu
là bước khởi đầu của khát vọng thầm kín trong ta. Những bước kế
tiếp là thực hiện tất cả sự thấy và hiểu đó; thực hiện trong nỗ
lực thiết lập trật tự của ngôn ngữ, của tâm hành, và của thế
giới; thiết lập mối quan hệ mật thiết giữa chúng. Ta hy vọng là
tìm thấy khát vọng nào đó trong những thiết lập như vậy. Tìm
thấy để đối trị hoặc thỏa mãn. Như thế, tất cả kinh nghiệm sống
thực của chúng ta chỉ là những thí dụ điển hình: không có sự
thực và biên tế của sự thực nào ở trong đó cả. Mặt biển là thí
dụ điển hình của vô hạn. Ngọn thác từ trên cao đổ xuống là thí
dụ điển hình cho sự suy sụp của thế giới.
- Như vậy, căn
cứ trên dị thể và đồng thể, tác dụng của tâm hành lấy thực tại
kinh nghiệm làm nội dung cụ thể, rồi từ đó thiết lập trật tự của
ngôn ngữ. Trật tự này phản chiếu trên các tác dụng của tâm hành.
Trật tự của thế giới được ghi nhận theo các tác dụng này. Đó là
khả tính, khả năng của thí dụ. Ta có thí dụ, sự diễn tả của ngôn
ngữ càng có thế lực. Nơi đây là chỗ thiết lập qui ước cho mọi
tác dụng trong thế giới sinh hoạt cộng đồng.
- Sa môn Tịnh
Nguyên, trong bản giải thích Kim sư tử chương của Hiền
Thủ quốc sư, mở đầu viết: “Chánh pháp mà không có thí dụ thì
không tỏ rõ. Thí dụ không y theo Chánh pháp thì không thể có. Vì
vậy bậc chí nhân thấy rạng bản tánh Nhất chân không có chút nào
sai khác; ngài đem con sư tử bằng vàng ra mà mô tả. Thấy phẩm
chất của quần sinh không đồng đều, ngài lập chương mục của chánh
pháp để hướng dẫn.”
- Kinh nói: “Hết
thảy mọi pháp giới trong vô số thế giới như hư không, thảy đều
dùng đầu của một sợi lông mà đo lường khắp. Mỗi một đầu của sợi
lông ở ngay trong một niệm, hóa ra vô số thân nhiều như vi trần
bất khả thuyết bất khả thuyết…”
- Đoạn kinh này
mô tả năng lực thiết lập Chánh pháp của Phật. Chánh pháp được
biểu lộ ngay nơi các sự vật như trên đầu sợi lông, trong mỗi hạt
bụi. Tùy theo căn tánh, sự tiếp thu của chúng sanh trở nên bất
đồng.
- Hình ảnh của
một thế giới như đã mô tả chỉ có thể mô tả và bằng vào dự tưởng,
được gợi hứng từ khát vọng nào? Người ta phải trở lại thế giới
thường nhật để tìm thấy sự thúc đẩy của nó.
-
Một cánh nhạn đang bay giữa bầu trời bát ngát:
- Hứa đa cảnh
giới hà lai khứ
- Vạn lý thiên
biên nhất nhạn phi.
- (Phật Quốc
Thiền Sư).
--o0o--
|
|