|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
-
KHÓA HƯ LỤC
Một Kiệt Tác Phẩm Của
-
Nền Văn Hóa Dân Tộc Việt THẾ KỶ XIII.
-
-
Riêng đối với đạo Phật và dòng sử Việt, công nghiệp của Vua Trần
Thái Tông thật là to lớn. Ngoài việc in kinh, xây chùa, tô
tượng, đúc chuông; về diện văn hóa, Vua đã viết khóa Hư Lục, một
kiệt tác phẩm của nền văn học Phật giáo dân tộc, thế kỷ XIII.
Sách gồm ba quyển Thượng, Trung, Hạ, viết theo thể văn biền ngẫu
bằng Hán tự, một lối văn rất khó viết, ở người cầm bút phải có
một trình độ học vấn uyên bác mới dám sử dụng tới. Về nội dung
cuốn sách tác giả trình bày những tư tưởng triết lý đại thừa
Phật giáo nhằm mục đích tự thức tỉnh và đồng thời có tính cách
giáo dục quần chúng, nói lên niềm thao thức khổ đau cùng sự giác
ngộ của một người có trách nhiệm với mình, với đời và với đồng
bào, nhân loại.
-
Tác giả, sau bao năm đối diện với những dằn vặt khổ đau ray rứt
của tự thân. Năm Vua lên hai mươi tuổi, Hoàng Hậu là Chiêu Thánh
( Lý Chiêu Hoàng) mới mười chín tuổi, chỉ vì muộn có con, Trần
Thủ Ðộ bắt ép Vua phải bỏ Chiêu Thánh để lấy người chị dâu đã có
mang ba tháng là Thuận Thiên, vợ của anh mình, tức Trần Liễu. Có
lẽ Trần Thủ Ðộ muốn Vua có con ngay để sau này nối nghiệp nhà
Trần. Hiển nhiên là Vua đã kịch liệt phản đối việc làm trái lễ
giáo này của Trần Thủ Ðộ. Nhưng uy quyền của ông ta quá lớn. Vua
đành nhẫn nhục đau khổ, chịu đựng. Người con trai hai mươi tuổi
mới lớn lên, lòng mang nặng một nổi buồn u ẩn, Vua đã nhất quyết
bỏ ngai vàng ra đi, tìm lên núi Yên Tử, và xin ở lại đó để tu
học Phật pháp hầu tìm ra một lối thoát cho tâm tư uất nghẹn, khổ
đau; mặt khác, đứng trước tình cảnh rối bời của đất nước lúc bấy
giờ, tuy tâm tư Vua chưa nguôi nỗi đau buồn, do người chú họ
Trần Thủ Ðộ gây ra, nhưng trên cương vị một người lãnh đạo quốc
gia, Vua không thể nhất đán phủi tay, buông xuôi, bỏ mặc cho vận
nước nổi trôi... Và nhất là van nài trước sự khẩn thiết của Trần
Thủ Ðộ: “ Xin Bệ hạ nghĩ đến trăm họ. Lòng dân như hoa hướng
dương, luôn hướng về nẻo mặt trời mọc, là Bệ hạ. Vậy xin Bệ hạ
gấp hồi loan”. Vua cảm động, rươm rướm nước mắt rồi cùng các
quan trở về kinh sư, gượng lên ngôi báu. Trong 33 năm trị vì Vua
đã làm tròn sứ mệnh của một đấng quân vương, hết lòng lo sửa
sang việc nước; bên trong, bình trị nội loạn; phía ngoài, dẹp
yên xâm lăng. Nhờ vậy mà toàn dân được sống an vui hạnh phúc.
-
Với trí sáng như mặt trời và với lòng thì rộng như biển cả, Vua
quả là một vị A la hán, một vị đại Bồ tát thị hiện ở Việt Nam để
cứu nước Việt Nam. Nên sau khi đã hoàn thành sự nghiệp cứu nước,
Vua nhường ngôi cho con là Trần Hoảng tức là Trần Thánh Tông.
Chắc chắn sau đấy vua có nhiều thì giờ rảnh rỗi để dành hết tâm
tư vào việc tu niệm, và viết sách truyền lại cho đời.
-
Tất cả nổi thao thức khổ đau đối với bản thân, đối với cuộc đời,
và với lòng từ bi thương xót chúng sanh, vì u mê tạo nghiệp xấu
ác, nên phải luân hồi chìm đắm trong ba cõi, sáu ngã. Do những ý
nghĩa ấy, tác giả đã viết khóa Hư lục, trước hết là để tự thức
tỉnh mình trên đường tu niệm và thực hành, nhằm thanh lọc sáu
quan năng, mong đạt đến chỗ “ lục căn viên thông”, tức là chứng
thánh quả, đồng thời khuyên mọi người hướng tâm lên đức Phật từ
bi cao cả và hãy học hỏi giáo lý vô thượng của Ngài, và lấy đó
làm chiếc bè đưa ta qua sông mê, tới bờ giác.
-
Trước hết ta tìm về hai chữ “ Khóa Hư”. Chữ Khóa ( trong khóa Hư
Lục), theo Hán tự, có nghĩa là bài học dạy về cách thức tu trì
đúng chính Pháp. Chữ Hư, nghĩa là rỗng lặng, tâm luôn luôn thức
tỉnh, không chấp vào hình tướng, sự vật một cách giáo điều, cố
định. Khóa tượng trưng tinh thần hữu vi, minh chánh, quả quyết.
Hư, tượng trưng tinh thần vô vi, lồng trong một ý nghĩa: Vạn hữu
chuyển biến, khổ, không, vô thường, vô ngã, hiểu được lẽ sanh
hóa của vũ trụ vạn hữu, là đi vào cõi niết bàn, bất sanh bất
diệt, là chứng đạo, đạt tới trạng thái chân lý tối cao: Phật đà.
-
Bây giờ chúng ta hãy đi vào nội dung tác phẩm quyển Thượng:
-
-
Lời tựa.
-
-
Tứ Sơn kệ, và những bài bình giải về cảnh sanh, già, ốm, chết.
-
-
Phổ thuyết Sắc thân, tức nói về thân phận con người trước cuộc
đời.
-
-
Khuyến phát bồ đề tâm( khuyên mọi người phát lòng bồ đề).
-
-
Lời Tựa
-
“Xét đến ngọn nguồn thì tứ đại vốn không, ngũ uẩn( cũng) chẳng
có. Do không khởi vọng, vọng thành sắc; sắc có vốn tự không. Bởi
vọng theo không, không hiển vọng; vọng sanh các sắc. (Một khí)
Ðã trái với lẽ không sanh không hóa, nên vạn hữu mới có hóa có
sanh- nếu không sanh hóa thời không hóa, không sanh. Vì có hóa
sanh nên có sanh, có hóa- hoặc sanh thánh, hiền khôn, dại, hoặc
sanh lông, cánh, vảy, sừng đắm ở bến mê hoài, lênh đênh trong bể
khổ mãi. Lờ mờ mù mịt, nào có biết chi; Luống cuống luồng cuồng,
không sao tỉnh được. Thảy đều do phóng túng cái tâm đi, không
một ai hay quay đầu trở lại. Mặc kệ(cho) đi lại sáu đường; lên
xuống bốn núi. Bốn núi là gì? Tức là sanh, già, bệnh, chết vậy.
-
Hãy xin bàn rõ bốn núi, để cho sau này cùng noi”
-
Bài kệ bốn núi
-
Tứ
sơn kiêu bích vạn thanh tùng
-
Liễu ngộ đô vô vạn vật không
-
Hỹ
đắc lư nhi tam cước tại
-
Mạch kỵ đã sấn thượng cao phong
-
Rừng cây bốn núi xanh xanh biếc
-
Vạn vật nhìn chung chẳng thực nào
-
Vui tạm “ lừa con ba vó gác”
-
Gắng lên thẳng tới đỉnh non cao.
-
Bài kệ trên ngụ ý diễn tả bốn núi ví với bốn tướng ( Sanh, Già,
Ốm, Chết) mà mọi sanh vật đều không tránh khỏi. Khi một sanh vật
sanh ra đời có nghĩa là sanh vật đó đã thoát được một tướng
sanh,(nói cách khác; Nếu không sanh, làm gì có già, ốm, và chết,
ví như con lừa lúc nằm giấu kín một chân); nhưng còn ba tướng
kia, tức già, ốm, chết, nó luôn luôn rình rập, định cướp đoạt
sanh mệnh của mỗi loài... biết rằng; Mỗi loài hiện hữu trên cõi
đời này là do nhân duyên sinh, nên ch1ng lu6n mang trong mình
cái lẽ dời đổi, khổ đau, vô thường, vô ngã. Sự tu của con người
ta vốn thường hay lười biếng, khác nào con lừa bản tính nó chậm
chạp- muốn cho nó leo núi thì phải thúc dục nó đi mau. Cũng
như người tu hành phải tử công phu lắm mới mong chứng được đạo
quả....( Lược).
-
Tác giả sách khóa Hư Lục đã thống thiết nói cho ta rõ về bốn nỗi
khổ; Sanh, Già, Ốm, Chết của một kiếp người. Thật vậy, không một
đứa trẻ nào lúc mới ra chào đời mà không khóc. Khóc là sự báo
hiệu một sự nhận chịu nỗi khổ đau ở đời, một khi con người đã
mang lấy nghiệp vào thân. Con người từ khi sanh ra, lớn lên và
sống trong một khoảng thời gian dài ngắn không nhất định; cuối
cùng bao giờ cũng đi đến cái chết, dù( người ấy) là trai hay
gái, da vàng, da trắng, da đen, thông minh hay ngu tối, đẹp,
xấu, sang hèn, giàu, nghèo... tuy có khác nhau về hình thể nhưng
trên danh nghĩa mọi con người đều gọi chung bằng một chữ “
Người”. Ðức Phật dạy:” Con người vốn có Phật tánh và có khả năng
thành Phật”. Có điều Phật tánh ấy hiển lộ- khi con người nghĩ và
làm điều thiện- hay bị mờ- khi con người nghĩ và làm việc ác-
chỉ khác nhau giữa hai tuyến Mê và Ngộ. Con người, theo đạo
Phật, thường được đề cao một cách toàn triệt, vì con người có
năng lực trí tuệ bén nhạy hơn hẳn muôn loài vạn vật; mà các sanh
vật khác chúng thường sống theo bản năng. Do đó, con người có
thể tiến hóa để trở nên những nhà bác học, vĩ nhân, hiền triết,
bậc thánh, và cũng rất dễ thụt lùi, sa ngã, đắm chìm trong ba
ngã, sáu đường để nhận lấy cái nghiệp hoặc “thiện” hoặc” ác” do
chính mỗi người đã tạo từ kiếp trước hay kiếp này và liên hệ ở
kiếp mai sau. Nói cách khác, “ loài người có thể tiến hóa đi
lên, nhưng cũng rất có nguy cơ bị đào thải, vì không có gì bảo
đảm rằng loài người tất yếu tiến hóa tốt”.
--o0o--
|
|