|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
-
LỊCH SỬ CHÙA XÁ LỢI
VĂN HÓA VÀ TRUYỀN THỐNG
Thích Đồng Bổn
-
---oOo---
-
-
Chùa Xá Lợi là một
danh lam ở thành phố Hồ Chí Minh, có kiến trúc hiện đại mà vẫn
mang sắc thái văn hóa dân tộc, đây là một kiến trúc mang nét đặc
thù của đất Sài Gòn, và là một điểm thắng tích mang dấu ấn của
cuộc đấu tranh lịch sử của Phật giáo đồ chống chế độ độc tài Ngô
Đình Diệm kỳ thị và đàn áp tôn giáo. Hơn thế nữa, nơi đây là địa
điểm hình thành nên những cột mốc lịch sử của tiến trình thống
nhất Phật giáo Việt Nam, từ khi ngôi chùa mới được thành lập cho
đến sau ngày Phật giáo được thực sự thống nhất toàn diện.
-
LỊCH SỬ XÂY DỰNG CHÙA XÁ LỢI:
-
Năm 1952, phái đoàn
Phật giáo Tích Lan đi dự phiên hợp lần thứ II của Hội Liên Hữu
Phật giáo thế giới (World Fellowship of Buddhists) tổ chức tại
Tokyo – Nhật Bản, có phụng thỉnh theo một viên ngọc xá lợi của
đức Phật để tặng Phật giáo Phù Tang. Phái đoàn đáp tàu La
marseillaire phải ghé bến Sài Gòn 24 giờ. Tiến sĩ Malalasekeka,
chủ tịch hội Phật giáo thế giới đánh điện cho hội Phật học Nam
Việt tổ chức cung nghinh xá lợi lên bờ cho công chúng chiêm bái
trong khoảng thời gian tàu ghé lại Sài Gòn.
-
Được sự ủy nhiệm của
thượng tọa Tố Liên, đại diện của hội Phật giáo thế giới tại Việt
Nam và các tập đoàn trong Tổng hội Phật giáo Việt Nam ủy nhiệm,
hội Phật học Nam Việt đứng ra tổ chức một ủy ban liên phái gồm
11 đoàn thể cung nghinh xá lợi, số lượng tham dự lên đến nửa
triệu người (phỏng ước của báo chí) làm cho nhà cầm quyền Việt
Pháp lúc bấy giờ phải kinh ngạc trước tiềm lực tinh thần của
Phật giáo.
-
Xá lợi được cung
nghinh trên một kiệu hoa kết hình bạch tượng, từ bến Nhà Rồng
của hãng Messageries Maritimes về "nhà kiếng" (nay là trụ sở
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam) được trang trí làm nơi thờ tạm
để lấy chỗ rộng rãi cho công chúng đến chiêm bái. Từ 11 giờ trưa
đến 3 giờ sáng hôm sau, thiện nam tín nữ nối gót nhau đến dâng
hương đảnh lễ không lúc nào dứt. Đến 5 giờ sáng, 11 tập đoàn họp
trở lại để phụng thỉnh xá lợi xuống tàu đi đến Nhật Bản.
-
Với sự tha thiết của
Phật giáo đồ Việt Nam như thế, sang năm sau (1953) đại đức
Narada Mahathera, tọa chủ chùa Vajirarama ở Tích Lan sang Việt
Nam, phụng thỉnh theo 3 viên Xá lợi và 3 cây Bồ đề con, để dâng
cúng cho 3 nơi : Phật giáo Nguyên thủy (chùa Kỳ Viên), Phật giáo
Bắc tông và Phật giáo Cao Miên (theo lời tuyên bố của đại đức
lúc đến phi trường Tân Sơn Nhất).
-
Được ủy nhiệm, đạo
hữu Chánh Trí -Mai Thọ Truyền dẫn đầu một phái đoàn hợp cùng
phái đoàn cung nghinh do Phật giáo Nguyên thủy tổ chức, lên phi
trường Tân Sơn Nhất tiếp đón đại đức và các bảo vật. Về đến chùa
Kỳ Viên, đại đức lập lại lời tuyên bố ban đầu và dự định vào
sáng hôm sau sẽ trao cho đạo hữu Chánh Trí phần xá lợi và cây bồ
đề dành cho Phật giáo Bắc tông.
-
Nhưng ngay đêm hôm ấy
đã xảy ra sự tranh chấp, về việc đoàn thể Phật giáo nào có đủ tư
cách đại điện cho Phật giáo Bắc tông Việt Nam được phụng thờ
ngọc xá lợi. Đạo hữu Chánh Trí phải giải thích nhiều mới bênh
vực được tư thế của Tổng hội Phật giáo Việt Nam, là tập đoàn lớn
nhất thời bấy giờ gồm những Tăng già và cư sĩ đại diện 3 miền
đất nước. Do vì chưa nắm rõ tình hình nội bộ Phật giáo Việt Nam
và để tránh sự dị nghị, sau khi thảo luận với đạo hữu Chánh Trí,
đại đức Narada đã quyết định dâng ngọc xá lợi lên đức Đoan
Huy-Hoàng thái hậu (thường gọi là đức Từ Cung, thân mẫu quốc
trưởng Bảo Đại), để đức ngài tùy ý giao lại cho đoàn thể Phật
giáo nào mà đức ngài xét thấy đáng phụng thờ di tích của đức Thế
tôn.
-
Sau cuộc phân chia xá
lợi, phần của Phật giáo Bắc tông được hội Phật học cùng các đoàn
thể bạn hợp sức cung nghinh ra nhà kiếng cho công chúng chiêm
bái 3 ngày 3 đêm, và ngay tại đây, đại đức Narada làm lễ kính
trao cho ông Ưng An, khâm sai của Hoàng thái hậu. Ba ngày chiêm
bái đã xong, một phái đoàn gồm có đại đức Narada, đại đức Bửu
Chơn, ông Ưng An, ông Lê Văn Hoạch-Phó thủ tướng kiêm tổng
trưởng thông tin, ông Nguyễn Văn Hiểu-hội trưởng hội Phật giáo
Nguyên thủy và đạo hữu Chánh Trí-Mai Thọ Truyền, phụng thỉnh
tháp vàng (do gia quyến ông Võ Văn Trọng ở Nam Vang cúng) lên
Ban Mê Thuộc. Tại tư dinh, đức Đoan Huy-Hoàng thái hậu khăn áo
chỉnh tề trong cảnh trầm hương nghi ngút quỳ tiếp ngọc báu.
-
Gần hai năm sau, đức
Từ Cung quyết định giao cho Tổng hội Phật giáo Việt Nam trách
nhiệm phụng thờ ngọc xá lợi. Tổng hội xét công lao của hội Phật
học Nam Việt, đã ủy nhiệm cho hội nhiệm vụ thờ phụng, lúc ấy trụ
sở của hội còn đặt tại chùa Phước Hòa ở khu Bàn Cờ, cũ kỹ và
chật hẹp.
-
Đến năm 1955, hội
Phật học Nam Việt quyết định xây dựng chùa mới tại một vị trí
khác, để có nơi xứng đáng phụng thờ di bảo đức Thế tôn và đủ chổ
cho thiện tín đến lễ Phật chiêm bái xá lợi. Hội đã được tòa đại
biểu chính phủ tại Việt Nam ký giấy phép cho phép hội mở cuộc
lạc quyên với hạn mức số tiền tối đa là 5 triệu đồng để dùng vào
việc kiến trúc. Cuộc lạc quyên được bắt đầu từ ngày 14.01.1956
và khóa sổ vào ngày 27.12.1956, kết quả được hơn 3 triệu đồng.
Theo họa đồ xây dựng chùa, công trình được dự toán kinh phí
khoảng 7 triệu đồng bạc thời bấy giờ.
-
ĐẶC ĐIỂM KIẾN TRÚC
-
1. Địa điểm : Chùa Xá
Lợi được khởi công xây dựng vào ngày 5 tháng 8 năm 1956, trên
thửa đất diện tích hơn 2500 m2, được nhượng lại của câu lạc bộ
Đông Dương với giá tượng trưng là một đồng bạc Việt Nam. Khu đất
tọa lạc tại góc đường Lê Văn Thạnh (nay là Sư Thiệ⮠Chiếu) và Bà
Huyện Thanh Quan. Công trình kiến trúc theo bản vẽ của hai kiến
trúc sư Trần Văn Đường và Đỗ Bá Vinh, công trường xây dựng được
điều khiển bởi hai kỹ sư Dư Ngọc Avà Hồ Tố Thuận. Chùa được
hoàn thành ngày 2 tháng 5 năm 1958.
-
2. Kiến trúc : đây là
một ngôi chùa có kiến trúc theo lối mới, là ngôi chùa lầu đầu
tiên của thành phố, mở đầu cho lối kiến trúc trên bái đường,
dưới giảng đường ở Việt Nam. Các hạng mục của chùa gồm có: 1-
Chính điện thờ Phật, 2- Giảng đường, 3- Tháp chuông 7 tầng, 4-
Thư viện – phòng đọc sách, 5- Cổng tam quan, 6- Khu tăng phòng,
7- Nhà trai đường, 8- Văn phòng ban Quản trị, 9- Đoàn quán Gia
đình Phật tử, 10- Phòng phát hành kinh sách, 11- Nhà khách tăng,
12- Khu trù phòng-cư sĩ, 13- Vãng sanh quán, 14- Các vườn cảnh.
-
ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA
-
A. Chùa Xá Lợi được
xây dựng với mục đích tôn thờ xá lợi Phật tổ và để làm hội quán
chính thức của hội Phật học Nam Việt. Ban đầu có tên là chùa thờ
Xá Lợi, trong quá trình xây dựng, dân chúng quen gọi tắt là chùa
Xá Lợi. Đến lúc khánh thành, hội Phật học đến thỉnh ý Hòa thượng
Khánh Anh, Pháp chủ giáo hội Tăng già Nam Việt và cũng là Chứng
minh Đạo sư của hội Phật học Nam Việt để xin đặt tên hiệu cho
chùa, Hòa thượng dạy: "Còn đặt tên gì nữa! công chúng đã gọi là
chùa Xá Lợi thì lấy tên ấy cho hợp lòng người", đó là duyên cớ
có tên là chùa Xá Lợi.
-
Chùa Xá Lợi có những
đặc điểm tự hào là di sản văn hóa quý báo như sau:
-
Phật bảo : là một
tháp bằng vàng, trong đựng báu vật là ngọc xá lợi Phật tổ, do
ngài Narada Mahathera, một danh Tăng Phật giáo Tích Lan đã mang
sang tặng để làm chứng tích Phật bảo thường trụ tại nơi quốc độ
Việt Nam.
Sự tích viên xá lợi này đã được nói rõ nơi phần nguyên do lập
chùa ở trên.
-
Pháp bảo : có một pho
kinh bối diệp cổ chép bằng chữ Pali trên lá Ô bôi (lá Muôn) cách
nay trên 1.000 năm, dài 45 cm, ngang 6 cm, hai đầu có dùi lổ để
xỏ chỉ xâu lại, bìa bằng gỗ sơn son thếp vàng hoa văn cầu kỳ,
được bọc trong một khăn lụa ngũ sắc. Bộ kinh này do giáo hội
Tăng già Tích Lan tặng cho ngài Thích Quảng Liên sau khi du học
hơn 5 năm tại xứ này, khi về nước Ngài tặng lại cho hội Phật học
Nam Việt để làm chứng tích Pháp bảo thường trụ tại quốc độ này.
Bộ kinh chép lại lời ngọc đức Thế tôn khi Ngài bắt đầu chuyển
pháp luân tại thành phố Ba La Nại (Bénarès) cho năm anh em Kiều
Trần Như nghe. Pháp tạng này được làm lễ cung thỉnh về chùa Xá
Lợi vào ngày 16. 06. 1957.
-
Tăng bảo : có một cây
bồ đề được chiết cành từ cây gốc ở Tích Lan, do Thái tử con vua
A Dục (Asoka) đem từ nơi đức Phật thành đạo sang trồng khi đến
truyền bá đạo Phật ở xứ này. Cây bồ đề cũng do Ngài Narada
Mahathera mang sang tặng để làm chứng tích Tăng bảo thường trụ
nơi thế gian. Cây bồ đề được hạ thổ nơi sân chùa bên hông chánh
điện, vào ngày vía đức A Di Đà (17 tháng 11 năm Mậu Tuất –
1958), cùng lúc với cây Bồ đề do Ngài Thích Minh Châu du học tại
Ấn Độ gởi về cúng.
-
Chùa có một tháp bạc
trong đựng viên xá lợi của đức Hoạt Phật Chương Gia Đồ do Pháp
sư Diễn Bồi từ Đài Loan mang sang tặng vào ngày 11. 12. 1960.
Đức Hoạt Phật (Phật sống) người gốc Thanh Hải -Mông Cổ thường
được người Trung Hoa biết dưới danh hiệu Thập Cửu Thế Chương Gia
Đại sư. Theo lịch sử, Ngài đã tái sinh 3 lần ở AᮠĐộ, 9 lần ở Tây
Tạng và 7 lần ở Thanh Hải, cộng 19 đời, mỗi đời tái sinh được
xác nhận bởi những bằng chứng hiển hiện như Đạt Lai Lạt Ma ở Tây
Tạng. Ngày sinh năm Canh Dần (Quang Tự thứ 16) tức năm 1890 và
xả báo thân ngày 04. 03. 1958 tại Đài Bắc, 11 ngày sau làm lễ
trà tỳ được trên một ngàn viên xá lợi.
-
Chùa thờ duy nhất một
tượng Phật Thích Ca lớn, trong tư thế ngồi kiết già trên tòa
sen. Ban đầu khi xây chùa, pho tượng được giáo sư Trương Đình Ý
thực hiện bằng xi măng và thạch cao, tiếc rằng pho tượng đúc
xong quá lớn không đưa lên chiđiện trên lầu được, nên nhượng
lại cho chùa khác (nay là tượng Phật cô đơn ở huyện Bình Chánh).
Sau đó, hội Phật học nhờ trường Mỹ nghệ Biên Hòa đắp tạo pho
tượng khác bằng bột đá màu hồng theo như kích thước của tòa sen
trên Phật đài. Tượng đúc xong được an vị vào ngày 24 tháng Chạp
năm Đinh Dậu -1958. Đến năm 1969, pho tượng được thếp lại toàn
thân bằng vàng như hình dáng ngày nay. Tượng Phật chùa Xá Lợi là
một tác phẩm mỹ thuật, đường nét hài hòa cân đối, mang tính cách
một vị Phật Việt Nam, không chịu ảnh hưởng các nền văn hóa khác,
là khuôn mẫu tiêu biểu cho nhiều tượng Phật được thực hiện sau
này.
-
Tại tháp chuông 7
tầng, cao 32 mét, tầng cao nhất là một cổ lầu có treo một đại
hồng chung cân nặng 2 tấn, đường kính 1,2 mét, cao 1,6 mét. Quả
chuông được rót đồng tại phường đúc làng Dương Biều -Huế vào
ngày mồng một tháng ba năm Tân Sửu -1961, theo mẫu của chuông
chùa Linh Mụ -Huế. Tiếng ngân của chuông rất nổi tiếng và từng
được nhiều thế hệ biết đến trong thời đấu tranh qua bài vọng cổ
"tiếng chuông chùa Xá Lợi" do sọan giả Viễn Châu sáng tác ca
ngợi. Tháp chuông chùa Xá Lợi được khánh thành vào ngày 16 tháng
11 năm Tân Sửu -1961 sau hơn 11 tháng thi công.
-
Nơi giảng đường ở
tầng trệt với 400 chỗ ngồi, có một tấm hoành cổ niên đại trên
150 năm, được treo trước cửa chính của giảng đường từ cổng tam
quan nhìn vào. Trong bức hoành có 4 chữ Hán đại tự : "Đông Thùy
Pháp Vũ" do chính tay Từ Hy Thái Hậu (đời Mãn Thanh -Trung Hoa)
viết trên gấm, có đóng dấu ấn triện. Tấm hoành này do ông Bùi
Văn Thương, nguyên đại sứ Việt Nam tại Tokyo đã mua được trên
đất Nhật, gởi về biếu cho chùa Xá Lợi vào tháng 3 năm 1963. Sau
này để tưởng nhớ công lao của đạo hữu cố hội trưởng, hội Phật
học quyết định đặt tên là giảng đường Chánh Trí và bức hoành
được đưa vào treo ở trai đường vào năm 1974.
-
Chung quanh chính
điện ở tầng lầu, được trang trí bằng một bộ tranh lớn bằng sơn
bột màu gắn trên tường. Bộ tranh gồm 15 bức khổ lớn, được giáo
sư Nguyễn Văn Long ở trường Mỹ thuật Gia Định thực hiện năm
1958, mô tả lịch sử đức Phật Thích Ca từ sơ sinh cho đến khi
thành đạo - nhập niết bàn. Tranh vẽ rất sinh động trong như đắp
nổi, đây là một bộ tác phẩm hoành tráng có giá trị nghệ thuật về
phong cách họa tiết.
-
Thư viện và phòng đọc
sách là nơi lưu trữ rất nhiều tư liệu quý báu, có các tạng kinh
điển Phật giáo và sách tư liệu bằng những ngôn ngữ : Việt, Hoa,
Anh, Pháp, Nhật … Ngoài những sách, báo Phật giáo, thư viện còn
có những sách về văn hóa, xã hội, triết học, tôn giáo khác. Tổng
số đầu sách hiện nay khoảng 5.500 quyển. Thư viện mở cửa vào
buổi sáng hằng ngày, mỗi tuần 5 buổi.
-
ĐẶC ĐIỂM LỊCH SỬ
-
Chùa Xá Lợi ngoài các
giá trị vật chất, còn là nơi lưu giữ các giá trị tinh thần, trải
qua bao năm tháng từ ngày thành lập cho đến nay, để lại bao
chứng tích lịch sử không phai mờ bởi dấu ấn thời gian. Các đặc
điểm ấy được sắp xếp theo thứ tự thời gian như sau :
-
Địa chỉ lịch sử:
-
Là trụ sở Trung ương
của hội Phật học Nam Việt, một tổ chức Phật giáo có uy tín hoạt
động từ năm 1951 cho đến năm 1981, có tất cả 74 chi hội với gần
25.000 hội viên khắp các địa phương ở miền Đông và Tây Nam bộ.
Hội Phật học Nam Việt là đoàn thể Phật giáo có mặt ở:
-
Một trong 6 tập đoàn
Phật giáo đứng tên thành lập Tổng hội Phật giáo Việt Nam năm
1952.
-
Một trong 11 tập đoàn
đứng tên thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất năm
1964.
-
Một trong 9 tập đoàn
Phật giáo đứng tên thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam năm
1981.
-
Là tòa soạn của tờ
bán nguyệt san Từ Quang, tiếng nói chính thức của hội Phật học
Nam Việt, hoạt động liên tục từ năm 1952 đến 1974.
-
Là trụ sở của Ủy ban
Liên hiệp Phật giáo Hoa Việt. Ủy ban này được thành lập vào
tháng 6 năm 1959, từ 23 đoàn thể Phật giáo Hoa - Việt hợp nhất
để cùng đón tiếp Pháp sư Diễn Bồi, một danh tăng Phật giáo Trung
Hoa và các phái đoàn Phật giáo, tôn giáo khác đến thăm viếng và
làm việc tại Việt Nam.Ủy ban này họat động đến năm 1964.
-
Là trụ sở của Ủy ban
Liên phái Bảo vệ Phật giáo trong cuộc đấu tranh đòi bình đẳng
tôn giáo, chống chế độ kỳ thị tôn giáo, độc tài gia đình trị Ngô
Đình Diệm. Ủy ban Liên phái được thành lập vào ngày 25. 05. 1963
và hoạt động đến tháng 01. 1964 thì chấm dứt vai trò lịch sử.
-
Là nơi đặt lớp học
đầu tiên của Viện Cao đẳng Phật học Sài Gòn khi viện mới được
thành lập vào ngày 13. 03. 1964, trụ sở đặt tại chùa Pháp Hội và
hai lớp học tại chùa Xá Lợi. Lớp học họat động đến năm 1966 thì
dời về Viện Đại học Vạn Hạnh mới được xây dựng ở chân cầu Trương
Minh Giảng (Lê Văn Sỹ ngày nay).
-
Là trụ sở văn phòng
II Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, văn phòng hoạt động
từ khi Giáo hội Phật giáo Việt
Nam
được thành lập tháng 11 năm 1981. Đến năm 1993 văn phòng được
dời sang Thiền viện Quảng Đức.
-
Sự kiện lịch sử:
-
Từ ngày 4 đến ngày
08. 09. 1959 đã diễn ra đại hội Tổng hội Phật giáo Việt Nam kỳ
III.
-
Từ ngày 1 đến ngày
04. 12. 1962 đã diễn ra đại hội Tổng hội Phật giáo Việt Nam kỳ
IV.
-
Ngày 16. 05. 1963
Phái đoàn Tổng hội Phật giáo Việt Nam mở cuộc họﰠbáo
tại chùa Xá Lợi, công bố bản tuyên ngôn 5 nguyện vọng Phật giáo
đồ ngày 10. 05. 1963 và các bản phụ đính, phụ trương đồng thời
tố cáo trước dư luận những vụ đàn áp, giam cầm và giết chóc mà
Phật giáo phải chịu trong nhiều năm qua. Sau đó, một tài liệu
dày 45 trang được gởi tới chính quyền, trong đó có liệt kê những
vụ đàn áp, bắt bớ và thủ tiêu nói trên.
-
Ngày 21. 05. 1963 một
cuộc lễ kỳ siêu và rước linh vị các nạn nhân bị giết do cuộc đàn
áp Phật giáo từ chùa Ấn Quang đi về chùa Xá Lợi. Cùng lúc đó,
một đoàn Tăng ni khác gồm 350 vị xuất gia xuất phát từ chùa Xá
Lợi bắt đầu một cuộc diễu hành khác, trang nghiêm và lặng lẽ,
hướng về trụ sở Quốc hội.
-
Ngày 25. 05. 1963 một
hội nghị giữa các tập đoàn thuộc Tổng hội Phật giáo và đại diện
các tổ chức, môn phái Phật giáo khác để thảo luận về kế hoạch
đấu tranh. Một Ủy Ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo được thành lập
tại chùa Xá Lợi để chỉ đạo cho cuộc vận động của Phật giáo đồ,
là tập hợp tiếng nói thống nhất ý chí và hành động của Phật giáo
đồ toàn quốc.
-
Ngày 30. 05. 1963 các
lượng cảnh sát, công an và mật vụ được dàn ra phong tỏa các nẻo
đường bao quanh chùa Xá Lợi để trấn áp cuộc tuyệt thực của gần
400 Tăng ni tại đây. Cư sĩ Chánh Trí-Mai Thọ Truyền, hội trưởng
hội Phật học Nam Việt trong ngày này đã gởi văn thư cho toàn thể
Phật tử trong hội Phật học kêu gọi mọi người tham gia cuộc đấu
tranh.
-
Ngày 11. 06. 1963 tức
ngày 24 tháng 3 năm Quý Mão, một cuộc tuần hành xuất phát từ
chùa Phật Bửu đi đến ngả tư Lê Văn Duyệt - Phan Đình Phùng và
dừng lại đây. Hòa thượng Thích Quảng Đức đã thắp lên ngọn đuốc
tự thiêu thân, cầu nguyện cho đạo pháp trường tồn và chính quyền
nhà Ngô thức tỉnh. Nhục thân của Ngài được đưa trở về chùa Xá
Lợi quàn tại đây một tuần trước khi đưa đi hỏa táng, còn lại quả
tim bất diệt ấy được đưa về thờ phụng tại chùa Xá Lợi trong suốt
cuộc đấu tranh cho đến lúc thành công.
-
Ngày 15. 07. 1963 chư
Tăng chùa Xá Lợi và các vị lãnh đạo phong trào trong Ủy ban Liên
phái Bảo vệ Phật giáo bắt đầu một cuộc tuyệt thực, mở đầu cho
giai đoạn đấu tranh đòi thực thi bản thông cáo chung mà chính
quyền đã ký với Phật giáo.
-
Ngày 17. 07. 1963
khoảng 400 Tăng ni đến tập hợp tại chùa Xá Lợi. Sau khi lễ Phật
và mặc niệm tại chính điện họ xếp hàng diễu hành đến chợ Bến
Thành giương biểu ngữ yêu cầu chính phủ thực thi bản thông cáo
chung. Đoàn diễu hành đã bị cảnh sát đàn áp bắt lên xe chở đi
giam giữ ở An Dưỡng Địa Phú Lâm. Đến ngày 20. 07 mới được thả ra
trở về chùa Xá Lợi với rất nhiều vị bị trọng thương.
-
Ngày 23. 07. 1963 Ni
sư Diệu Huệ mở cuộc họp báo tại chùa Xá Lợi cho biết bà sẽ thiêu
thân để chống lại chính sách kỳ thị tôn giáo của chính quyền Ngô
Đình Diệm. Ni sư Diệu Huệ là thân mẫu của ông Bửu Hội, một nhà
bác học hiện đang làm đại sứ cho chính quyền Diệm tại nhiều nước
thuộc Tây Phi Châu. Cùng ngày này, trung tá Trần Thanh Chiêu tác
giả cuộc biểu tình của thương phế binh trước chùa Xá Lợi vào
buổi sáng đã bị chính quyền cách chức và phạt 40 ngày trọng cấm.
-
Ngày 01. 08 .1963
khoảng 300 anh em thương phế binh đã tự động tập hợp tại chùa Xá
Lợi làm lễ chính điện. Đại diện của họ đã gặp chư vị lãnh đạo Ủy
ban Liên phái phát nguyện ủng hộ cuộc đấu tranh. Cùng ngày, Hòa
thượng Hội chủ Thích Tịnh Khiết đã gởi một điện văn cho Tổng
thống Hoa Kỳ J.F. Kennedy phản đối sự dối trá của đại sứ Mỹ F.
Nolting khi tuyên bố với hãng thông tấn UPI rằng không có chuyện
kỳ thị tôn giáo và ngược đãi Phật giáo đồ tại Việt Nam.
-
Ngày 05. 08. 1963 lễ
cầu siêu thánh tử đạo Thích Nguyên Hương được tổ chức tại chùa
Xá Lợi, số lượng Tăng ni và các đoàn thể Phật tử tham dự lên đến
hai mươi ngàn người.
-
Ngày 12. 08. 1963 nữ
sinh Mai Tuyết An đến chùa Xá Lợi chặt bàn tay trái của mình để
cảnh cáo chính quyền. Trước khi chặt tay cô đã viết 3 lá thư :
một cho chư Tăng và Phật giáo đồ, một cho Tổng thống Diệm và một
cho bà Ngô Đình Nhu.
-
Ngày 18. 08. 1963 lễ
cầu siêu cho tất cả những vị thiêu thân vì bảo vệ Phật giáo diễn
ra tại chùa Xá Lợi, trên ba mươi ngàn người đã đến tham dự. Sau
đó là một cuộc tuyệt thực tại chỗ của mười ngàn người, chủ lực
là các đoàn thể sinh viên Phật tử, học sinh Phật tử và đoàn
Thanh niên bảo vệ Phật giáo.
-
Ngày 20. 08. 1963
chính quyền Diệm ra đòn ác liệt cuối cùng nhằm triệt tiêu Phật
giáo trong trận tấn công vào chùa Xá Lợi vào lúc nửa đêm rạng
sáng ngày 21. 08. Khoảng 200 người thuộc lực lượng đặc biệt đã
tấn công vào chùa trong sự chống cự quyết liệt của Tăng ni cố
thủ bảo vệ những vị lãnh đạo tối cao của Ủy ban Liên phái, chúng
lật đổ bàn thờ Bồ tát Quảng Đức, đập phá tất cả và tấn công lên
chính điện, bị ngăn chặn bởi chướng ngại vật, chúng đã liệng
nhiều lựu đạn cay, đánh đập dã man Tăng chúng. Sau một giờ ngăn
cản, nhiều vị bất tỉnh, chư Tăng kiệt sức không còn đủ sức chống
cự, chúng phá cửa lục soát các tăng phòng bắt còng tay chư tôn
đức lãnh đạo và tất cả Tăng chúng. Trong đêm đẫm máu ấy có
khoảng 250 vị Tăng ni đã bị bắt. Chùa Xá Lợi bị tàn phá tan
hoang. Tượng Phật Thích Ca tại chính điện cũng bị xâm phạm. Cuộc
tấn công này xảy ra đồng thời và toàn diện khắp nơi, có hơn
1.400 Tăng ni đã bị bắt trong đêm ấy. Sáng hôm sau, chính quyền
ban bố thiết quân luật và vu cáo cho giới Phật giáo nổi loạn,
Tăng ni bị bắt là phần tử phản động. Sự kiện này đã dấy lên một
làn sóng phản đối quyết liệt của tất cả các tầng lớp trong xã
hội, đã biến thành cuộc phản kháng mạnh mẽ, đưa đến sự sụp đổ
của chính quyền Ngô Đình Diệm trong cuộc chính biến ngày 01 11.
1963, chấm dứt một chế độ mất lòng dân, coi thường đạo lý.
-
Từ ngày 31. 12. 1963
đến ngày 04. 01. 1964 khai mạc đại hội tại chùa Xá Lợi để soạn
thảo ra Hiến chương Phật giáo và thành lập Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống nhất.
-
V. CÁC ĐỜI LÃNH ĐẠO VÀ ĐIỀU HÀNH:
-
Xá Lợi là một ngôi
chùa Phật học, nên sự quản lý được thiết lập thành hai hệ thống,
giới tu sĩ xuất gia giữ vai trò lãnh đạo tinh thần và giới cư sĩ
tại gia giữ nhiệm vụ điều hành Phật sự. Giới xuất gia có hai cấp
: cấp lãnh đạo là phẩm vị Chứng minh đạo sư, cấp điều hành là
phẩm vị Trụ trì. Giới tại gia cũng có hai cấp : cấp lãnh đạo là
chức vị Hội trưởng, cấp điều hành là chức vị Tổng thư ký.
-
Do tiền thân của chùa
Xá Lợi là hội Phật học Nam Việt hoạt động liên tục từ năm 1950,
nên việc liệt kê lịch sử các đời lãnh đạo và điều hành được bắt
đầu từ khởi nguồn.
-
Các đời Chứng minh đạo sư:
-
Hòa thượng Thích Liễu
Thiền
-
1950 – 1956
-
Hòa thượng Thích Như
Ý
-
1950 – 1954
-
Hòa thượng Thích Đạt
Thanh
-
1950 – 1954
-
Hòa thượng Thích Huệ
Quang
-
1955 – 1956
-
Hòa thượng Thích
Khánh Anh
-
1957 – 1961
-
Hòa thượng Thích
Thiện Hòa
-
1957 – 1963
-
Hòa thượng Thích Hành
Trụ
-
1957 – 1984
-
Hòa thượng Thích
Thiện Hào
-
1984 – 1997
-
Các đời Trụ trì:
-
Hòa thượng Thích
Trường Lạc (1957)
-
Hòa thượng Thích
Huyền Quý(1958)
-
Hòa thượng Thích Vĩnh
Chơn (1959)
-
Hòa thượng Thích
Thiện Thắng(1962)
-
Hòa thượng Thích
Thiện Phước (1973)
-
Thượng tọa Thích Minh
Hạnh(1977)
-
Thượng tọa Thích Minh
Trí (1978)
-
Hòa thượng Thích Hiển
Tu (1979)
-
Các đời Hội trưởng:
-
Pháp sư Quảng Minh
(1950 – 1954)
-
Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ
(1954 – 1955)
-
Cư sĩ Mai Thọ Truyền
(1955 – 1973)
-
Bác sĩ Cao Văn Trí
(1973 – 1979)
-
Cư sĩ Nguyễn Văn
Hoanh (1979 – 1996)
-
Các đời Tổng thư ký:
-
Cư sĩ Mai Thọ Truyền
(1950)
-
Cư sĩ Võ Đình Dần
(1953)
-
Cư sĩ Lưu Văn Trừ
(1954)
-
Cư sĩ Tống Hồ Cầm
(1955)
-
Cư sĩ Đỗ Văn Giu
(1959)
-
Cư sĩ Lê Ngọc
Diệp(1961)
-
Cư sĩ Tăng
Quang(1979)
-
VI. GIÁ TRỊ VĂN HÓA - LỊCH
SỬ :
-
Nói đến ngôi chùa Xá
Lợi, là nói về một chốn yên tĩnh để mọi người tìm đến đọc sách,
sinh viên học sinh chọn làm nơi ôn tập học bài, người già tìm
đến vãn cảnh trầm tư, đó là một đặc điểm chỉ có ở nơi này trong
các ngôi chùa ở thành phố. Nơi đây có cảnh trí thanh thoát tỉnh
lặng, khiến người ta tìm thấy sự cân bằng tâm hồn giữa cuộc sống
nơi chốn phồn hoa đô hội.
-
Là một ngôi chùa có
truyền thống Phật học, đây là nơi sinh hoạt giáo lý hàng tuần
của tín đồ và những người muốn tìm hiểu nghiên cứu triết lý Phật
đà. Vào mỗi sáng chủ nhật, giảng đường mở cửa để mọi người đến
nghe thuyết pháp, buổi chiều là lớp học giáo lý và sinh hoạt của
thanh thiếu niên gia đình Phật tử, cùng những buổi tu tập Bát
Quan Trai của tín đồ Phật tử. Sức sống của ngôi chùa Xá Lợi trải
qua bao năm tháng lịch sử thăng trầm, vẫn luôn sinh động phát
triển theo định hướng thuở đầu của ngôi Tam bảo này.
-
Với thời gian hơn 40
năm, ngôi chùa lịch sử này cũng vừa được trùng tu lại toàn diện
trong 3 năm từ 1999 đến 2001 theo như nguyên mẫu ban đầu, để giữ
gìn những giá trị kiến trúc mang phong cách đặc thù của chùa Xá
Lợi, như chính đường lối hoạt động trung dung chuyên về học Phật
đã định ở thuở ban đầu.
-
Ngày nay, chùa Xá lợi
không chỉ là một địa chỉ lịch sử, một thắng cảnh văn hóa của
thành phố, góp phần làm nên một nét đẹp của đất Sài Gòn, mà còn
là niềm tự hào về truyền thống cho lịch sử Phật giáo Việt Nam và
những người con Phật khắp năm châu. Cũng như thế, bất cứ người
Sài Gòn nào khi ca ngợi về bản sắc văn hóa của thành phố thân
yêu mình, đều không thể thiếu bóng dáng ngôi chùa Xá Lợi, đã
sánh cùng bao thắng cảnh khác làm nên nét đẹp văn hóa dân tộc
cho quê hương Việt Nam.
-
Viết xong tại chùa Xá
Lợi
Ngày 26 tháng 08 năm Tân Tỵ 2001
Thích Đồng Bổn
Biên soạn
-
Tài
liệu tham khảo :
-
Kỷ yếu hội Phật học
Nam Việt, bản chép tay của Minh Đức-Vũ Phan, văn phòng ban quản
trị lưu giữ.
-
Tạp chí Từ Quang,
trọn bộ, hội Phật học Nam Việt ấn hành,thư viện Xá Lợi tàng bản.
-
Lược khảo Phật giáo
sử Việt Nam, Vân Thanh biên soạn, các Phật học viện xb, Sài gòn
1974.
-
Phật giáo Việt Nam sử
luận, tập III, Nguyễn Lang, Lá Bối xb, Paris 1980.
-
Tôn giáo & chính trị
Phật giáo, 1963-1967, Chính Đạo, Văn Hóa xb. Houston-Texas 1994
--o0o--
|
|