|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
-
Truyện Kể Các
ĐƯỜNG TĂNG VIỆT
NAM
Thích Đồng Bổn
---o0o---
-
-
Bạn có biết ! đâu chỉ
có Mécca là thánh địa mà mọi người Hồi giáo đều mơ ước hành
hương một lần trong đời. Người Phật giáo, không chỉ mơ ước được
hành hương về chốn "tứ động tâm" (Đản sinh – Thành đạo – chuyển
Pháp luân – nhập Niết bàn), mà các đệ tử của Ngái ở xứ An Nam
còn muốn noi gương Đường Tăng Trần Huyền Trang thân hành đến đất
Phật để học hỏi, nghiên tầm và tu tập ngay chính nơi đức Bổn sư
ghi dấu tích.
-
Xin lược ghi về hành
trạng của một số vị mà tôi sưu tầm được, để chúng ta thấy ý chí
và hoài bão của các Ngài : Đến đất Phật – Tìm dấu Phật – Chiêm
bái Phật – Học kinh Phật – Hành hạnh Phật – Truyền bá Phật" ở
các vị "Đường Tăng Việt Nam" đã thành tựu hạnh nguyện nầy :
-
Hòa thượng Thiện
Quảng (1862 – 1911)
-
Ngài quê quán ở Bến
Tre, có mật hạnh là chỉ độ toàn rau quả chứ không ăn cơm. Ngài
có nguyện ước qua bằng được xứ Phật để chiêm bái học hỏi. Năm
Nhâm Tuất 1898, Ngài bắt đầu chuyến ra đi trên một chiếc thuyền
hai cột buồm, với một ít rau trái làm lương thực.
-
Sau gần ba ngày lên
đênh trên biển cả, sóng to gió lớn ập đến đẩy con thuyền của
Ngài trôi giạt vào bờ biển Thái Lan, con thuyền bị tan vỡ, Ngài
được nhân dân Thái giúp đỡ và họ vô cùng kính trọng khi thấy
Ngài chỉ ăn toàn rau. Tiếng lành đồn xa, vua Thái thỉnh Ngài về
hoàng cung đàm đạo, vua tỏ lòng kính mộ khi biết rõ hạnh nguyện
của Ngài và mong muốn thỉnh Ngài ở lại đất Thái để hóa đạo.
Không tiện chối từ, với điều kiện sau khi Ngài hoàn thành ước
nguyện đến đất Phật sẽ trở lại hoằng hóa nơi đây. Ba năm sau, đủ
nhân duyên, được sự trợ giúp của Nhà vua Thái, Ngài lên đường
với ba người Thái và một người Miến Điện dẫn đường. Ngài đi
xuyên qua đất Miến Điện, từ ngõ Tây Tạng để vào đất Ấn Độ.
-
Trong năm tháng ở Ấn
Độ, Ngài đã đi chiêm bái tìm hiểu dấu tích ở tất cả các nơi mà
đức Phật đã đi qua và truyền bá giáo pháp. Sự tận mắt thấy được,
tận tay sờ chạm được thánh tích là chứng tín lớn nhất về chánh
pháp của Phật ở trong Ngài. Thỏa nguyện ước một đời, Ngài đi
sang đất Trung Hoa viếng thăm các thắng tích của Bồ tát Quan Âm
ở núi Thiên Thai, phủ Hàng Châu ; đến Phúc Kiến, sang Quảng Tây,
Quảng Đông, Vân Nam rồi xuôi xuống Miến Điện để về lại Thái Lan
vào năm Nhâm Dần1902, như đã hứa với nhà vua Thái.
-
Ngài chọn hang KhoLẽm
làm chốn tu hành, tiếng đồn về "ông Thầy Rau" càng được kính
trọng vang xa. Nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu đã tìm đến ra
mắt và đàm đạo. Cụ Phan rất kính trọng Ngài và trở thành tâm
giao trong nỗi niềm những người Việt xa xứ. Lòng yêu nước của
Ngài đã trổi dậy theo cụ Phan, và dấn thân vào hoạt động bằng
cách bí mật trở về Việt
Nam
vận động quyên góp cho phong trào.
-
Năm Tân Hợi 1911,
Ngài lại vì cụ Phan mà lên đường trở về Việt Nam lần thứ hai,
bằng đường bộ qua ngõ Tây Ninh. Nhưng Ngài đã gục ngã nơi biên
giới bởi lằn đạn chực chờ của thực dân Pháp, Ngài mất năm 50
tuổi. Tại hang Kholẽm vẫn còn tấm bia tưởng niệm Ngài với hai
chữ gần gũi mà kính trọng : "Thầy Rau" .
-
Hòa thượng Minh Tịnh
– Nhẫn Tế (1888 – 1951)
-
Ngài sinh năm Kỷ Sửu
1888, quê quán ở Lái Thiêu - Bình Dương, đệ tử xuất gia với Tổ
Thiên Thai-Huệ Đăng, được ban pháp hiệu là Minh Tịnh. Sau khi
thọ học với Tổ một thời gian, vì muốn mở rộng kiến thức hơn nữa
về giáo lý và pháp tu, Ngài quyết tâm lên đường đến xứ Phật để
thực hiện ý nguyện đó.
-
Nhờ các tàu buôn,
Ngài đến được đất Ấn vào tháng tư năm Ất Hợi 1935. Ở đây tùy
thuận phong tục để dễ bề tham học tu tập, Ngài chuyển sang đắp y
theo Phật giáo Nam tông của Sri Lanka. Được một thời gian, Ngài
vẫn không thấy thỏa mãn với giáo pháp của tông phái này, và lại
ra đi tìm đến xứ Tây Tạng để nghiên cứu về Kim cang thừa.
-
Ngài đến Lhasa vào
tháng sáu năm 1936. Tại đây, Ngài cầu pháp với Lama Quốc vương
và dự cuộc thi tuyển toàn quốc, chỉ có hai người được chọn ứng
thí : một người Tây Tạng và người còn lại là Ngài – khi đoạn chỉ
bện màu đỏ thắt quanh cổ Ngài siết lại, Ngài vẫn bình thản nhìn.
Chỉ có Ngài qua được cuộc khảo thí.
-
Sau một trăm ngày tu
học ở Tây Tạng, Ngài được Lama Quốc vương ngự ý ban pháp danh là
Thubten Orall Lama, ấn chứng tâm pháp của giáo pháp Kim cang
thừa và sở đắc thiền học giáo ngoại biệt truyền.
-
Ngài trở về Việt Nam
ngày 30. 6. 1937, lập nên chùa Thiên Chơn ở Chợ Búng-Lái Thiêu.
Sau đó, lại xây dựng chùa Tây Tạng ở Thủ Dầu Một, bắt đầu truyền
bá giáo pháp sở đắc. Ngài mất năm 1951, thọ 63 tuổi đời.
-
HÒA THƯỢNG HUỆ QUANG
(1888 – 1956)
-
Ngài họ Nguyễn, sing
năm 1888 tại Ô Môn-Cần Thơ, xuất gia năm 1902 và đắc pháp với
Hòa thượng Từ Văn năm 1919, được ban pháp hiệu là Huệ Quang.
-
Năm 1931, Ngài cùng
Hòa thượng Khánh Hòa và chư tôn đức lập hội Nam kỳ Nghiên cứu
Phật học, trụ sở ở chùa Linh Sơn-Sài gòn, xuất bản Tạp chí Từ Bi
A⭬ làm nhân tố cho phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Nam.
-
Năm 1934, Ngài lại
cùng Hòa thượng Khánh Hòa lập nên hội Lưỡng Xuyên Phật Học ở Trà
Vinh và ra mắt Tạp chí Duy Tâm vào năm 1935, do Ngài làm chủ
nhiệm.
-
Năm 1953, Ngài được
suy tôn ngôi pháp chủ Giáo hội Tăng già Nam Việt. Năm 1956, Ngài
lại được suy cử Phó Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt
Nam,
cùng xuất bản tập san Phật Giáo Việt Nam, do Ngài làm chủ nhiệm.
-
Ngày 10. 11. 1956,
Ngài cùng phái đoàn Phật giáo Việt
Nam
lên đường tham dự hội nghị Phật giáo thế giới lần thứ IV tại
Népal. Phái đoàn dự đại hội xong trở veề New Delhi đi chiêm bái
các thánh tích. Sau khi chiêm bái, như đã có nguyện ước được trở
về với Phật tại đất Phật, Ngài đột ngột viên tịch tai đây, nhục
thân Ngài được trà tỳ tại xứ Ấn Độ. Ngài hưởng thọ 68 tuổi đời
với 37 năm hoằng hóa.
-
HÒA THƯỢNG TỐ LIÊN
(1903 – 1997)
-
Ngài quê quán Hà
Đông, xuất gia năm 13 tuổi, trong phong trào chấn hưng Phật giáo
ở Bắc kỳ năm 1935, Ngài được mời ra chùa Quán sứ-Hà Nội gánh vác
Phật sự và giảng dạy.
-
Tháng 5 năm 1950,
ngài đại diện cho Phật giáo Việt Nam đi dự hội nghị thành lập
Hội Thế Giới Phật Giáo Liên Hữu tại Sri-Lanka, một xứ sở được
coi là thánh địa của Phật giáo sau Ấn Độ. Tại đại hội này, Phật
giáo Việt Nam là một thành viên, lá cờ ngũ sắc ngày nay được
công nhận là Phật kỳ tại đại hội đó và Ngài được suy cử làm Phó
hội trưởng Hội Phật giáo thế giới. Sau đại hội, Ngài đi chiêm
bái các thánh tích tại Ấn Độ.
-
Chính Ngài là người
đã mang lá Phật kỳ ngũ sắc đầu tiên từ Tích Lan về phổ biến tại
Việt Nam.
-
HÒA THƯỢNG MINH CHÂU
-
Ngài sinh năm 1918
tại Nghệ An, là một trong những người sáng lập "Gia đình Phật
hóa phổ", tiền thân của Gia đình Phật tử Việt
Nam
ngày nay. Ngày xuất gia năm 1946, giữ chức Hiệu trưởng trường Bồ
Đề đầu tiên tại Huế năm 1951.
-
Năm 1952, Ngài xuất
dương sang du học ở Sri-Lanka và AᮠĐộ. Ngài học Pali ngữ và Anh
văn tại Sri-Lanka, sau đó vào học ở viện Đại học Phật giáo quốc
tế Nalanda-Aᮍ Độ. Năm 1958, Ngài đỗ thủ khoa cao học MA về Pali
ngữ và Abhidhamma. Năm 1961, Ngài đỗ tiến sĩ Phật học-văn học
Pali. Ngài là người Việt Nam đầu tiên đạt được học vị Phật giáo
quốc tế cao nhất.
-
Năm 1964, Ngài về
nước phụ trách ngành giáo dục Phật giáo, làm hiệu trưởng viện
Đại học Vạn Hạnh, rồi lần lược làm hiệu trưởngHọc viện Phật giáo
Việt Nam cơ sở II, viện trưởng viện Nghiên cứu Phật học Việt
Nam. Hành trạng của Ngài quả là một "Đường Tăng Việt Nam" tiêu
biểu, bởi sự nghiệp lớn nhất là phiên dịch Kinh tạng Pali ngữ
sang Việt ngữ, như việc làm của ngài Huyền Trang thuở xưa.
-
HÒA THƯỢNG THIỆN CHÂU
-
Ngài sinh năm 1931
tại Huế, xuất gia năm 16 tuổi, Ngài học tại Phật học đường Báo
Quốc từ năm 1948 đến năm 1958 và là Giảng sư khắp các tỉnh miền
Trung khi còn rất trẻ, được mệnh danh là "ngôi sao sáng Phật học
Việt Nam" thời bấy giờ.
-
Năm 1961, Ngài đi du
học tại viện Đại học Phật giáo quốc tế Nalanda ở bang Bihar-Ấn
Độ. Năm 1963, Ngài tốt nghiệp cử nhân Pali, đến năm 1965 tốt
nghiệp thêm cử nhân Anh văn. Sau đó, Ngài sang Anh Quốc nghiên
cứu tại viện Đại học
London.
-
Năm 1967, Ngài sang
Pháp nghiên cứu và đảm nhận chủ tịch hội Phật tử Việt kiều hải
ngoại. Năm 1977, Ngài đỗ Tiến sĩ tại Đại học Sorbon-Paris. Năm
1980, Ngài xây dựng ngôi chùa Trúc Lâm Thiền Viện ở ngoại ô
Paris, một ngôi chùa Việt Nam hoàn chỉnh về kiến trúc văn hóa
Việt. Ngài đã viết và phiên dịch một số lượng lớn tác phẩm. Ngài
viên tịch năm1998, để lại bao tiếc thương về một nhân tài Phật
giáo thành danh ở hải ngoại.
- ***
-
Và còn nhiều nữa
những "Đường Tăng Việt Nam" đã hoàn thành sứ mệnh nơi nước Phật,
đem sở học truyền bá chánh pháp Như Lai tại quê nhà và hải ngoại
như các vị :
-
Hòa thượng Huyền Vi,
xuất dương du học tại Ấn Độ rồi hoằng dương ở nước Pháp với hội
Phật giáo Linh Sơn có chi nhánh khắp thế giới.
-
Hòa thượng Chân
Thường, từ Việt Nam sang Pháp hoằng dương, rồi từ Pháp đi Ấn Độ
tham học và chiêm bái, trở về Pháp hành đạo tại đây , sáng lập
hội Phật Giáo Quán Ấn ở ngoại ô Paris.
-
Hòa thượng Thiện
Thanh, từ Việt Nam đi du học ở Ấn Độ và ở lại hoằng dương Phật
pháp tại chùa Phật Tổ-Mỹ Quốc.
-
Thượng tọa Huyền
Diệu, từ Pháp đi Ấn Độ nghiên cứu rồi phát nguyện ở lại đây
hoằng dương, xây dựng nên ngôi chùa "Việt Nam Phật Quốc Tự" tại
Bồ Đề đạo tràng và một ngôi ở Lumbini-Népal.
-
Thượng tọa Chơn
Thiện, từ Việt Nam sang Ấn Độ du học, đạt học vị Tiến sĩ hạng
tối ưu, trở về nước phục vụ. Thượng tọa hiện là phó hiệu trưởng
Học viện Phật giáo Việt Nam tại Tp. Hồ Chí Minh và Tp. Huế, cũng
là phó viện trưởng viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam. Thượng tọa
là một học giả lỗi lạc với một số tác phẩm biên soạn và dịch
thuật có giá trị.
-
Và còn nhiều vị Tăng
trẻ nữa đã và đang tham học nơi đất Phật hoặc hành đạo nơi ấy,
hoặc trở về nước phục vụ, hoặc còn du phương ở các nước như : Tỳ
kheo Hạnh nguyện ; Tỳ kheo Nhật Từ ; Tỳ kheo Minh Thành . . . .
-
Có thể nói,
Ấn Độ là vùng đất thiêng nơi đã sản sinh ra đức Từ phụ Thích Ca
và giáo pháp của Người. Ngày nay các đệ tử của người từ khắp năm
châu vẫn ước mơ được một lần hành hương về đấy để như được sinh
lại lần nữa, nối tiếp con đường truyền bá chánh pháp như những
Như Lai sứ giả thuở xưa, sau 25 thế kỷ tồn tại thế gian lợi lạc
hữu tình. Và những Đường Tăng nước Việt ngày nay đã góp phần làm
rạng rỡ lịch sử Phật giáo Việt Nam.
-
Từ tựa đề ngẫu hứng
của Phan Bội Châu viết truyện "Đường Tăng Nước Nam", đã làm nẫy
sinh trong tôi ý định viết tiếp truyện này. Cho thấy rằng, chứng
tích nguyên thủy của thánh địa chính là sự phát khởi đại tâm,
tục Phật huệ mạng cho tất cả đệ tử của Người, mong ước một lần
trong đời tìm về xứ Phật, tìm lại sức mạnh tự tánh Phật sẳn có
trong chúng ta.
-
Mùa an
cư năm 2000
Tỳ kheo Thích Đồng Bổn
--o0o--
|
|