|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
-
HÌNH ẢNH PHẬT QUAN ÂM
-
Trong Thi Ca Việt Nam
- Đào
Nguyên
-
--o0o--
-
-
Từ
bi là một trong những đặc điểm tiêu biểu của đạo Phật. Trong sự
gắn bó với đời sống của dân tộc Việt Nam cũng như với thi ca,
một phần tính chất từ bi của đạo Phật đã được hình tượng hóa với
hình ảnh Đư1c Phật Quan Âm, cụ thể hơn là Phật Bà Quan Âm.
-
Bài viết này, xin giới thiệu hình ảnh Phật Bà Quan Âm trong thi
ca Việt Nam.
-
Chúng ta đều biết, Đức Bồ Tát Quan Thế Âm đã được nói đến trong
kinh Diệu Pháp Liên Hoa, phẩm Phổ Môn, đó là một nam nhân; trong
khi hình ảnh được thờ phụng nơi chùa chiền Việt Nam, được truyền
tụng trong dân gian và thể hiện qua thi ca, lại là một Phật Bà.
Về điểm này, Nguyễn Lang viết:
-
Bồ
Tát Quan Thế Âm được mô tả trong phẩm Phổ Môn kinh Pháp Hoa là
một nam nhân. Sang Tây Tạng, Trung Hoa và Việt
Nam,
Quan Thế Âm biến thành nữ nhân thân, trong lúc đó Phật tử các
nước này vẫn tụng đọc kinh Pháp Hoa mà không thấy có sự mâu
thuẫn. Lý do là kinh Pháp Hoa có nói: "Nếu cần hiện ra thân gì
mà cứu độ thì Quan Âm hiện ra thân đó, như thân quốc vương, thân
tể tướng, thân nhi đồng, thân phụ nữ...". Cho nên bất cứ ở đâu
xuất hiện một con người với lòng từ bi rộng lớn, là ở đó người
ta cho là Đức Quan Âm hiện thân. Danh từ Quan Thế Âm
(Avalokitesvara) có nghĩa là người lắng nghe tiếng kêu của cuộc
đời; lắng nghe để tìm tới mà cứu giúp..." (VNPGSLT, Nhà xb VH,
H, 1992, tr 99).
-
Vậy hình ảnh Phật Bà Quan Âm đã thể hiện trong thi ca Việt Nam
như thế nào? - Ca dao Việt
Nam
có câu:
-
"Cha già là Phật Thích Ca
-
Mẹ
già như thể Phật Bà Quan Âm
-
Nhớ ngày xá tội vọng nhân
-
Lên chùa lễ Phật, đền ơn sinh thành"
-
-
Hình ảnh Phật Bà Quan Âm cũng được tác giả Truyện Phan Trần nhắc
đến, qua hình dạng ni cô Diệu Thường-tức Phan Kiều Liên sau khi
vào chùa tu - với cái nhìn của Phan Tất Chánh:
-
"Thẩn thơ trước dãy hành lang
-
Vin cành biếc, hái hoa vàng, làm thinh
-
Xa
xa phảng phất dạng hình
-
Đức Quan Âm đã giáng sinh bao giờ..."
-
(Truyện Phan Trần, câu 389-392, theo bản của sách VNTVHT của
Dương Quảng Hàm, bản in 1968, tr.18)
-
-
Trong tác phẩm "Sơ kính tân trang", Phạm Thái (1777-1814) đã hai
lần nhắc tới hình ảnh Phật Quan Âm:
-
"Tu hành nhờ Đức Thế Tôn
-
Ắt
say sưa đạo lại buồn bồng duyên
-
Lọ
là khấn vái tiên thiên
-
Cậy Quan Âm với Mục Liên xót tình..."
-
(SKTTr, câu 1141-1142, sđd, tr 135).
-
-
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) qua tác phẩm Lục Vân Tiên, cũng
hai lần giới thiệu Phật Bà Quan Âm:
-
Quan Âm thường đứng thảo ngay
-
Bèn đem nàng lại bỏ rày vườn hoa
-
Dặn rằng nàng hỡi Nguyệt Nga
-
Tìm nơi nương náo cho qua tháng ngày
-
Đôi ba năm nữa gần đây
-
Vợ
chồng sao cũng sum vầy một nơi..."
-
(Truyện Lục Vân Tiên, câu 1523-1528, theo bản trong sách NĐC
toàn tập, T1, Nhà xb ĐH và THCN, H 1980, tr.153).
-
Đó
là đoạn nói Kiều Nguyệt Nga, trên đường đi cống Hồ đã nhảy biển
trầm mình cho tròn tiết nghĩa với người bạn tình cũ, được sóng
thần đẩy vào nơi bãi và được Phật Bà Quan Âm xót thương đem nàng
đến nơi chốn cao ráo, sạch sẽ...Sau này khi bỏ trốn khỏi nhà cha
con Bùi Kiệm, Nguyệt Nga trong cảnh đêm tối tăm mờ mịt, đã gặp
được bà lão cưu mang, thì chính bà lão ấy cũng đã được Phật Quan
Âm mách bảo trước:
-
"Người ngay trời Phật cũng vưng
-
Lão bà chống gậy trong rừng bước ra
-
Hỏi rằng nàng phải Nguyệt Nga
-
Khá tua gắng gượng về nhà cùng ta
-
Khi khuya nằm thấy Phật Bà
-
Người đà mách bảo nên già đến đây..."
-
(Truyện LVT, câu 1651-1656, sđd, tr 159).
-
-
Nếu ngược về với không khí Thiền học đời Trần (1225 - 1400),
chúng ta cũng sẽ gặp hình ảnh Đức Phật Quan Âm.
-
Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230- 1291), trong bài thơ "Lui về (Thối
cư), đã viết:
-
"Thẹn bao mình đục sinh thời đục
-
Nhờ chút lòng yên gặp nước yên
-
Đêm mộng Quan Âm vào cỏ nội
-
Sông thu trong vắt dáng sương huyền".
-
(Trúc Thiên dịch, Tuệ Trung Thượng Sĩ ngữ lục, ĐH Vạn Hạnh xb,
S, 1969, tr 167).
-
Đối với vua Trần Nhân Tông, tức Trúc Lâm đệ nhất Tổ (1258-1308),
hình ảnh Phật Quan Âm còn có thể tạo nên sức khơi gợi lớn giúp
kẻ tu hành đạt đạo. Trong buổi tham vấn Thiền học tại chùa Sùng
Nghiêm, một vị Tăng hỏi: "Bậc tu hành lớn còn có thể rơi vào
vòng tròn nhân quả nữa chăng?"
-
Điều Ngự đã đáp bằng bốn câu kệ:
-
"Miệng tợ huyết hồng phun Phật, Tổ
-
Răng như gươm bén đốn thiền lâm
-
Sáng kia chết xuống A Tỳ ngục
-
Vội niệm Nam mô Quan Thế Âm".
-
(Dẫn theo Nguyễn Lang, VNPGSL, t1, Nhà xb Lá Bối, S, 1974, tr
321)
-
-
Chùa Diên Hựu còn gọi là Liên Hoa đài hay Nhất Trụ tự (chùa Một
Cột) được xây dựng vào năm 1049 đời vua Lý Thái Tông (1028-1054)
với hình ảnh một đóa hoa sen mọc từ dưới nước lên. Cuối thế kỷ
XVIII, danh sĩ Trần Bá Lãm đã có bài thơ, không chỉ là ca ngợi
cảnh đẹp mà còn ngợi ca tính chất linh ứng của Bồ Tát Quan Thế
Âm:
-
"Xóm hoa trong thành, chùa trong xóm
-
Danh là Diên Hựu, Lý triều xây
-
Trong cung hòa hợp mộng hoàn tử
-
Bồ
Tát Quan Âm mới linh thay"
-
(Nguyễn Đăng Thục dịch, Phật giáo Việt Nam, Nhà xb Mặt Đất, S,
1974, tr 79)
-
-
Tính chất linh ứng của Bồ Tát Quan Thế Âm còn gắn liền với những
sinh hoạt bình thường của người dân Việt
Nam
và cũng được nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp, nhà thơ của chùa Hương,
nhắc đến:
-
"...Mẹ bảo đường còn lâu
-
Cứ
vừa đi vừa cầu
-
Quan Thế Âm Bồ Tát
-
Là
tha hồ đi mau..."
-
(Bài Chùa Hương, dẫn theo Thi ca VN hiện đại, Khai Trí xb, S,
1968, tr 238).
-
-
Trong văn chương chữ Nôm, hai tác phẩm trường thiên viết về sự
hóa thân của Phật Bà Quan Âm được truyền tụng khá sâu rộng trong
dân gian Việt Nam là Quan Âm Nam Hải và Quan Âm Thị Kính.
-
*
Quan Âm Nam Hải gồm 1426 câu thơ lục bát, giới thiệu về quá
trình dốc chí tu Phật của công chúa Diệu Thiện-được gọi là Bà
Chúa Ba-con gái út của vua Trang Vương với nơi chốn tu hành và
đắc đạo là chùa Hương Tích:
-
"Đức Phật mới chỉ đường tu
-
Rằng có một chùa tại Hương Tích sơn
-
Gần biển Nam Việt thanh nhàn
-
Sang tu chốn ấy sẽ toan viên thành ..."
-
(Dẫn theo Nguyễn Lang, VNPGSL, 72, sđd, tr 102).
-
*
Quan Âm Thị Kính gồm 788 câu thơ lục bát, lời thơ chải chuốt,
bác học hơn. Tác giả hẳn là một người am hiểu cả Nho, Phật, viết
về cuộc đời Thị Kính với đức tính Nhẫn nhục và Từ bi-hiếu sinh,
nhờ đấy mà bà đã đắc đạo. Nhà văn Vũ Khắc Khoan đã có những nhận
xét rất xác đáng về nội dung tư tưởng của tác phẩm:
-
"Tư tưởng Phật giáo lại càng tỏ rõ khi Thị Kính cam chịu tiếng
oan, vì lòng từ bi, vì đức hiếu sinh, hy sinh cuộc sống của mình
để nuôi đứa bé sơ sinh của Thị Mầu. Nỗi oan mưu sát chồng đã đưa
Thị Kính đến con đường giải thoát, nỗi oan quyến rũ Thị Mầu
không làm cho nàng nản chí trên con đường giải thoát; nhưng
chính lòng từ bi, đức hiếu sinh, chính hành động tích cực nuôi
con Thị Mầu mới thực sự đưa nàng lên cõi giải thoát.
-
Trên hành trình vượt sông mê để cập bến giác, tinh thần Phật
giáo đã là một ngọn hải đăng soi sáng bước chân Thị Kính. Để Thị
Kính trở thành Tiểu Kính Tâm, để tiểu Kinh Tâm trở thành Đức
Phật Quan Âm ". (Lời giới thiệu của sách "Vở chèo Quan Âm Thị
Kính, Nhà xb Đào Tấn, S, 1966, tr 14).
-
Hình ảnh Quan Âm Thị Kính còn bước sang lãnh vực sân khấu chèo,
với nhiều kịch bản chèo được lưu hành khá rộng rãi trong dân
gian. Bản in "Vở chèo Quan Âm Thị Kính" do Nhà xb Đào Tấn ấn
hành năm 1966 do Vũ Khắc Khoan giới thiệu, là bản in được hình
thành do sự góp trí nhớ của nhiều nghệ sĩ ngành chèo và một số
bạn hữu vốn hâm mộ bộ môn này. Chèo Quan Âm Thị Kính là một
trong số ít vở chèo cổ nổi tiếng .
-
Tóm lại, từ ca dao đến thơ, từ thơ đến Nôm, kịch bản chèo, hình
ảnh Đức Phật Quan Âm gắn bó đậm đà với văn học nghệ thuật Việt
Nam vậy.
--o0o--
|
|