|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
-
ĐẶC TRƯNG
PHẬT GIÁO
-
GIAI ĐOẠN
ĐẦU NHÀ TRẦN
-
Thích Phước Sơn
-
--o0o--
-
-
Lịch sử vốn rất
công bằng và khách quan, những gì có giá trị đích thực chắc chắn
sẽ tồn tại lâu dài và được mọi người ca ngợi. Phật giáo đời Trần
là một trong những nét huy hoàng của lịch sử Phật giáo Việt Nam
mà có lẽ bất cứ một nhà sử học nào cũng vô tư công nhận. Hai
điều kiện khách quan và chủ quan nổi bật nhất sau đây đã hun đúc
để tạo thành một thời điểm lịch sử Phật giáo rực rỡ như vậy.
-
I. NHỮNG ĐIỀU KIỆN KHÁCH QUAN
-
Điều kiện khách quan này tuy có nhiều nhưng tiêu biểu nhất có lẽ
gồm hai điểm chính:
-
1- Chính quyền tích cực ủng hộ
-
Đọc qua lịch sử đời Trần, tuy không có một văn kiện nào công
nhiên xác nhận Phật giáo là Quốc giáo, nhưng hình như mọi người
đều mặc nhiên thừa nhận đạo Phật là Quốc giáo. Bởi vì, các nhà
lãnh đạo quốc gia thời bấy giờ - giai đoạn đầu nhà Trần - vừa
giữ vai trò một nhà lãnh đạo quốc gia, vừa có tư thế của một
lãnh tụ Phật giáo. Phần lớn họ là những bậc anh hùng dân tộc,
vừa có tài cai trị, vừa giỏi chiến lược, vừa có kiến thức quảng
bác, vừa ôm trong lòng tài kinh bang tế thế. Đồng thời họ cũng
là những Phật tử sùng đạo, không những sùng đạo mà còn đắc đạo.
Họ vừa có tư cách của một Bồ-tát tại gia, quên mình phụng sự
chúng sanh, vừa có phong độ của một Thiền sư siêu trần thoát tục.
Không những họ là những nhà Phật học uyên thâm mà còn là những
nhà thực nghiệm sâu sắc; dầu sống trên vàng son nhung lụa, mà
vẫn không bị những phù hoa cám dỗ. Họ xem việc đời như việc đạo,
việc nước chẳng khác việc chùa. Thái Tông đã tính xuất gia năm
16 tuổi (1236), nhưng việc không thành ông đành phải tiếp tục
ngồi lại ngôi báu, Thánh Tông thì vừa ban yến vừa bàn đạo Thiền.
Ông rất khâm phục đạo học của Tuệ Trung, nên đã phong tặng danh
hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ, và gởi Nhân Tông theo Thượng Sĩ để
tham học đạo Thiền. Nhân Tông vốn là một người cực kỳ mộ đạo,
năm 16 tuổi (1274) đã có ý định nhường ngôi thái tử cho em,
quyết chí đi tu. Nhưng đứng trước áp lực của phụ hoàng Thánh
Tông cùng hoàng tộc và triều đình, ông đành phải kế thừa ngôi
báu, thực thi hoàn hảo sứ mệnh của một đấng minh quân, đợi đến
vãn niên mới thực hiện hoài bão xuất gia một cách viên mãn. Kế
tục sự nghiệp của vua cha, Anh Tông cũng tỏ ra là một Phật tử
thuần thành. Năm 1308, Điều Ngự (Nhân Tông) tổ chức lễ truyền Tổ
vị cho Pháp Loa tại chùa Siêu Loại, Anh Tông đã đem cả triều
đình tới đây dự lễ. Chính bản thân ông cũng được Điều Ngự truyền
cho giới tại gia Bồ-tát năm 1304. Ông hết sức sốt sắng ủng hộ
Pháp Loa trong việc in ấn Đại Tạng kinh, xem Pháp Loa như bậc
Tôn sư chí kính. Lại có ý định sau khi nhường ngôi sẽ xuất gia
tu học. Nhưng không may là ông đã mất sớm nên không thực hiện
được chí nguyện ấy. Vua Minh Tông kế thừa rất xuất sắc truyền
thống của cha ông. Năm 1326, vua đã thỉnh Pháp Loa vào chùa Tư
Phúc trong đại nội để truyền phép Quán đỉnh cho mình. Tháng 9
năm 1328, vua lại nhờ Pháp Loa soạn sách Nhân Vương Hộ Quốc Nghi
Quỹ để làm kỷ cương cho việc tu thân và trị quốc.
-
Như vậy, kể từ Thái Tông cho đến Minh Tông các vị vua đều tận
lực ủng hộ Phật giáo. Nếu bản thân vua đã sùng đạo và tích cực
ủng hộ Phật giáo thì chắc chắn triều đình, hoàng tộc và dân
chúng sẽ noi gương ấy mà tôn sùng đạo Phật. Tam Tổ Thực Lục nói
rằng số ruộng đất mà các nhà hảo tâm đã hiến cúng cho chùa Quỳnh
Lâm thuộc Giáo hội Trúc Lâm lên đến nghìn mẫu. Do đó phải cần
đến hơn nghìn nông phu canh tác. Nhưng kể từ vua Hiến Tông trở
về sau, chính quyền không còn ủng hộ Phật giáo như xưa, lại thêm
các nhà Nho vốn có thành kiến với đạo Phật càng có cơ hội chỉ
trích Phật giáo gắt gao; do đó Phật giáo mất hẳn chỗ dựa, dần
dần trở nên yếu thế ! Ôi ! "Vật cùng tắc biến, thịnh cực tắc suy"
là những quy luật đương nhiên của vũ trụ, chẳng có gì đáng phải
ngạc nhiên !
-
2- Đất nước đang đà cường thịnh
-
Nhờ có đủ tài đức mà các vị vua đã động viên được sự đoàn kết
ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân. Do đó đã lãnh đạo toàn dân
kháng chiến chống quân xâm lược đạt đến thành công rực rỡ. Lịch
sử cho chúng ta thấy, mỗi khi tổ quốc đứng trước những thử thách
khắc nghiệt một mất một còn thì mọi người cùng phải đoàn kết bên
nhau để bảo vệ sự sống còn của bản thân mình và sự tồn tại của
quê hương xứ sở. Nhưng muốn thu phục được toàn dân thì các nhà
lãnh đạo phải có thực tài thực đức. Đó là những yếu tố rất tiên
quyết mà các vị vua đầu nhà Trần đều có đủ. Nhờ vậy mà họ đã
thành công. Theo đà của những cuộc chiến thắng, mọi người đều
phấn khởi tinh thần, do đó, đất nước phát huy được nhiều mặt
tích cực, như nền kính tế mở mang, pháp luật nghiêm minh, chính
trị ổn định, võ bị vững chắc, ngoại giao thắng lợi, văn học khởi
sắc, giáo dục được củng cố v.v… Tất nhiên không loại trừ cơ hội
thuận lợi nhất cho việc phát triển tôn giáo, hoằng dương Chánh
pháp. Các nhà lãnh đạo quốc gia lúc bấy giờ vốn là những Phật tử
thuần thành, thế nên, những chiến công chính nghĩa, vẻ vang của
họ cũng có thể mặc nhiên, xem như là những thắng lợi của Phật
giáo. Trong một hoàn cảnh mà đất nước đang trên đà cường thịnh,
dân chúng an cư, lạc nghiệp, mọi người có điều kiện phát huy tài
năng về nghề nghiệp của mình để kiến tạo một xã hội thanh bình,
xây dựng tương lai tươi sáng, thì một tôn giáo mang bản chất
nhập thế hành động như đạo Phật, hẳn nhiên phải được phát triển
rực rỡ.
-
II- NHỮNG ĐIỀU KIỆN CHỦ QUAN
-
Gặp hoàn cảnh thuận lợi, được triều đình hỗ trợ, đó là những
nguyên nhân khách quan khiến cho Phật giáo có cơ hội thăng hoa.
Nhưng nguyên nhân chủ yếu làm cho đạo Phật phát triển mạnh mẽ
vẫn là những tiềm năng nội tại của Phật giáo.
-
1- Nhân tài xuất hiện đông đảo
-
Chúng ta có thể gọi một cách thi vị: Đời Trần là thời kỳ trăm
hoa đua nở, thiết tưởng cũng không ngoa. Trần Thái Tông là một
cây đuốc sáng, khai nguồn cho tinh hoa đạo Phật bừng cháy. Tuệ
Trung Thượng Sĩ thì phóng khoáng siêu việt, hòa ánh sáng của
mình trong cuộc đời bụi bặm. Thánh Tông tuy ngồi trên ngai vàng
mà hành trạng chẳng khác một Thiền sư đắc đạo. Nhân Tông được
chư Phật bổ xứ để nâng Phật giáo Việt Nam lên ngang tầm lịch sử.
Pháp Loa thì cúc cung tận tụy với sự nghiệp hoằng dương Chánh
pháp cho đến hơi thở cuối cùng. Huyền Quang vốn là một nhân tài
lỗi lạc của đất nước, vừa chứng tỏ là một thi sĩ tài hoa, đồng
thời cũng là một Thiền sư có giới hạnh cao nghiêm. Đó là những
người vừa có địa vị cao quý, vừa có sự nghiệp hiển hách. Ngoài
ra còn có Thuần Nhất Pháp sư được Tuệ Trung Thượng Sĩ hết lời
khen ngợi; Trí Thông tự đốt bàn tay cúng dường nhân ngày Trúc
Lâm xuất gia, mà vẻ mặt vẫn thản nhiên; Bích Phong trưởng lão
rất tinh thông yếu chỉ kinh Hoa Nghiêm. Lãm Sơn Quốc sư được thi
sĩ Phạm Nhân Khanh ca ngợi: "Buông mở Thiền phong cao mấy độ;
phát biểu thi danh sáng một miền". Để tiếp tay với các bậc danh
đức này còn có các Tăng sĩ ngoại quốc như Thiền sư Thiên Phong,
Đức Thành, từng hợp tác với Thái Tông để xiển dương Thiền học.
Du-chi-bà-lam, một tu sĩ Lạt-ma giáo Tây Tạng, đến nước ta vào
thời Anh Tông, có pháp lực cao cường. Bồ-đề-thất-ly dịch kinh
Bạch Tán Cái Thần Chú dưới thời Minh Tông. Ở đây chỉ nhắc sơ vài
người được sách sử nói đến khá tường tận, nhưng còn biết bao
người khác âm thầm đóng góp tích cực phần mình để ngôi nhà Phật
giáo được tồn tại.
-
2- Tinh thần nhập thế tích cực
-
Đức Phật dạy: "Phụng sự chúng sanh, tức cúng dường chư Phật".
Thể theo tinh thần ấy, Viên Chứng Quốc sư đã nhắn nhủ Thái Tông:
"Phàm làm vua phải lấy ý muốn của nhân dân làm ý muốn của mình".
Vâng lời thầy dạy, Thái Tông đã đem đạo vào đời, tích cực phục
vụ nhân dân cùng lúc với việc tham Thiền học đạo. Bởi ông biết
rất rõ "Đạo bất viễn nhân" (đạo không thể xa người), đạo phải
được sống, được thể nghiệm ngay trong lòng cuộc đời. Người Phật
tử cần phải lấy chúng sanh làm đối tượng để phụng sự. Vì quán
triệt lẽ đó mà Thái Tông, Nhân Tông sẵn sàng quên mình để lo cho
dân, cho nước. Khi đất nước cần, các ngài có thể cầm gươm lên
ngựa, đi trước ba quân, xông pha giữa làn tên đạn, để cứu dân
thoát ách ngoại xâm. Phật giáo đời Trần quả thực xứng đáng đóng
vai trò của một hệ tư tưởng chủ đạo tích cực và năng động, đáp
ứng những yêu cầu thực tế bức xúc của lịch sử, phù hợp với
truyền thống yêu nước, tạo nên một triều đại dân chủ nhất trong
lịch sử của nước ta.
-
3- Tinh thần thống nhất Phật giáo
-
Thiền sư Thường Chiếu thuộc dòng: Thiền Vô Ngôn Thông, nhưng trụ
trì ở chùa Lục Tổ - một ngôi chùa thuộc Thiền phái
Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Như vậy, chính bản thân ông đã thể hiện sự
thống nhất các hệ phái đời Lý, và cũng là gạch nối giữa Phật
giáo đời Lý với Phật giáo đời Trần. Kế thừa dòng pháp của ông là
Thiền sư Hiện Quang, người có công lớn trong việc khai sơn núi
Yên Tử. Hiện Quang truyền pháp cho Đạo Viên - thầy của Trần Thái
Tông - tiếp tục truyền xuống đến Trúc Lâm (Trần Nhân Tông) thì
phái Thiền Yên Tử đã có quy mô trở thành một nền Phật giáo thống
nhất. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Phật giáo Việt Nam
thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Tăng chúng trên toàn
quốc được cấp Tăng tịch, mà Pháp Loa là người đầu tiên nhận được
Tăng tịch do vua Anh Tông cấp phát. Ông có trách nhiệm sắp xếp,
tổ chức hệ thống Giáo hội, và thiết lập sổ bộ Tăng, Ni cả nước.
Số Tăng, Ni có sổ bộ chính thức lúc bấy giờ là 15.000 người.
Trung tâm Yên Tử trở thành một nơi tu học lý tưởng cho những
người đi tìm giải thoát. Thế nên trong nhân gian đã truyền tụng
câu ca dao:
-
"Dù ai quyết chí tu hành,
-
Có về Yên Tử mới đành lòng tu".
-
4- Tinh thần độc lập tự chủ
-
Đứng trước hào khí của những cuộc chiến thắng quân xâm lược một
cách vẻ vang, đất nước giữ vững nền độc lập chính trị, do đó các
nhà trí thức cũng muốn giành quyền độc lập về nhiều phương diện
khác. Vì vậy mà chữ Nôm đã xuất hiện. Tuy thứ chữ này đã manh
nha từ trước, mà nổi bật nhất là bài Văn tế cá sấu của Nguyễn
Thuyên. Tiếp đến có Cư trần lạc đạo phú và Đắc thú Lâm Tuyền
thành đạo ca của Nhân Tông; Vịnh Vân Yên Tự phú của Huyền Quang.
Những bản văn này này nay may mắn vẫn còn. Ngoài ra, Nguyễn Sĩ
Cố, Chu Văn An, Mạc Đỉnh Chi… cũng đều có sáng tác văn Nôm. Đó
là tinh thần độc lập về phương diện văn hóa, còn về tôn giáo thì
đạo Phật Việt Nam tuy có tiếp thu ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ
và Trung Hoa, nhưng trải qua thời gian, các Thiền sư đã khéo léo
dung hợp những ảnh hưởng đó với truyền thống dân tộc để tạo một
nền Phật giáo thuần túy Việt Nam, mang bản sắc dân tộc. Ngoài ra
còn một công trình văn hóa đáng kể khác có tính độc lập, đó là
việc in Đại Tạng kinh Việt Nam. Công tác này được vua Anh Tông
bảo trợ rất đắc lực, đồng thời với sự tiếp tay tích cực của Tăng,
Ni và các Phật tử nhiệt tình. Khi Đại Tạng kinh in xong, Pháp
Loa đã tổ chức lễ hội khánh thành rất trọng thể.
-
5- Tinh thần Thiền giáo nhất trí
-
Theo truyền thống, Thiền tông thường đặc biệt chú trọng đến việc
tọa Thiền và tham cứu thoại đầu, ít quan tâm đến việc học hỏi
kinh điển, thậm chí còn xem việc học kinh là một chướng ngại cho
mục đích giác ngộ. Khác hẳn với truyền thống đố, Phật giáo đời
Trần lấy việc học hỏi kinh điển, nghiên cứu các Ngữ Lục làm cơ
sở. Điều Ngự thường giảng Truyền Đăng Lục, Đại Tuệ Ngữ Lục cho
Pháp Loa và các đệ tử khác. Đồng thời sai Huyền Quang soạn các
sách Chư Phẩm Kinh, Công Văn Tập và Thích Khoa Giáo, in ấn phổ
biến rộng rãi cho Tăng, Ni học tập. Pháp Loa chuyên giảng các bộ
kinh Hoa Nghiêm, Viên Giác và các bộ Ngữ Lục như Đại Tuệ Ngữ Lục,
Tuyết Đậu Ngữ Lục, Truyền Đăng Lụ v.v… một cách hết sức nhiệt
tình. Ông còn nhờ Quốc sư Tông Cảnh và Quốc sư Bảo Pác - sư
huynh của ông - giảng Tứ Phần Luật cho Tăng chúng; mời Bích
Phong trưởng lão thay mình giảng kinh Hoa Nghiêm tại An Lạc Tàng
Viện. Huyền Quang thường xuyên mở các lớp giảng dạy kinh điển
cho Tăng, Ni tại chùa Vân Yên trên núi Yên Tử; Tăng, Ni theo học
đông cả nghìn người. Nói chung, Thiền học đời Trần đặt nền tảng
trên kinh điển, Thiền và giáo không tách rời nhau, tu và học
luôn luôn đồng hành, Nhờ vậy mà có cái nhìn dung hợp, nhất quán,
không xảy ra tình trạng cực đoan đưa đến cố chấp mâu thuẫn giữa
Thiền và giáo. Điều đặc biệt hơn nữa là thi ca thời bấy giờ chịu
ảnh hưởng của Thiền học khá sâu đậml các thi sĩ có cái nhìn đối
với sự vật sâu lắng và quán triệt. Họ không theo chủ trương "bất
lập văn tự" mà dùng thi ca để phô diễn những ý nghĩa thâm diệu
của Thiền tông.
-
6- Tinh thần vô ngã vị tha
-
Thái Tông trốn triều đình đi tu, nhưng không thành, trước lúc
trở lại triều đình, Trúc Lâm Quốc sư cầm tay ông dặn dò: "Phàm
là vua phải lấy ý muốn của dân làm ý muốn của mình, phải lấy tấm
lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình. Nay thiên hạ muốn bệ hạ
trở về mà bệ hạ không về sao được !". Thái Tông đã xem huấn thị
ấy như kim chỉ nam, lấy đó làm phương châm hành động, nên bất cứ
làm việc gì ông cũng đặt quyền lợi quốc gia dân tộc lên trên
quyền lợi cá nhân. Ông đã cho mở khoa thi Tam giáo để chọn nhân
tài phục vụ đất nước. Dù bản thân là một Phật tử, nhưng ông
không có đầu óc kỳ thị tôn giáo, mà ngược lại còn cho lập trường
quốc học để dạy chữ No, tạc tượng Chu Công, Khổng Tử để phụng
thờ. Nhờ vậy mới thu hút được sự đoàn kết nhất trí của toàn dân.
Sự nhất trí ấy đã biểu lộ rõ rệt nhất qua hai hội nghị Bình Than
và Diên Hồng. Với chủ trương Tam giáo đồng nguyên, các vua Trần
đã biết kết hợp Nho, Phật, Lão thành một tôn giáo Việt Nam, mang
tinh thần hòa đồng, hiện rõ bản sắc dân tộc, có tích cách sinh
động, hòa hợp giữa đạo và đời. Thái Tông, Thánh Tông và Nhân
Tông đối xử với triều đình, hoàng tộc và nhân dân bao giờ cũng
thể hiện tấm lòng nhân ái, vị tha, quên mình vì người. Đó là do
ảnh hưởng của đạo Phật mà các vua Trần đã thực thi những chánh
sách bình đẳng, dân chủ và thân dân như vậy. Lê Quý Đôn đã viết
trong Kiến Văn Tiểu Lục: "Nhà Trần đãi kẻ sĩ một cách khoan
dung, không hẹp hòi, hòa ái mà có lễ phép, cho nên nhân sĩ thời
ấy ai cũng biết tự lập, anh hào tuấn kiệt vượt ra ngoài lưu tục,
làm cho quang vinh cả sử sách, không thẹn với trời đất, đời sau
há có thể theo kịp được đâu !".
-
7- Tinh thần viên dung nhất quán
-
Thế giới chúng ta đang sống luôn xảy ra những xung đột bất tận
là do con người nhận thức sự vật một cách phiến diện và cục bộ.
Vì thế Bertrand Russell đã nhận xét: "Nhân loại vĩnh viễn mắc
vào ba vấn đề cơ bản: 1. Xung đột với thiên nhiên. 2. Xung đột
với tha nhân. 3. Xung đột với chính mình. Tổng hợp vĩ đại hiện
nay mà thế giới đang đòi hỏi là tổng hợp của con người khoa học
thiên nhiên Âu Tây với con người tâm linh Ấn Độ và con người xã
hội Trung Hoa". Như vậy rõ ràng giải pháp cho những vấn đề xung
đột của thế giới là phải có cái nhìn tổng hợp và toàn diện. Cái
nhìn này vốn là một đặc trưng của tư tưởng Đông phương và nhất
là Phật giáo. Đức Phật từng tuyên bố: "Tất cả chúng sanh đều có
Phật tính". Tất cả chúng sinh hữu tình có Phật tính đã đành mà
đi xa hơn nữa Phật giáo còn cho rằng tất cả những cành cây, ngọn
cỏ, các loại vô tình chúng sinh - cũng đều có tính Phật. Bằng
cái nhìn phóng khoáng, viên dung như vậy, đạo Phật san bằng mọi
bức tường ngăn cách giữa con người với con người, và giữa con
người với thế giới ngoại tại. Vượt lên trên cái thấy phân biệt
thiện ác, tốt xấu, Thái Tông có cái nhìn rất thoáng: "Trong hang
quỷ vẫn là lâu đài Di-lặc; dưới hắc sơn chẳng khác cảnh giới Phổ
Hiền". Tuệ Trung quán triết lý sắc không và mê ngộ một cách viên
dung: "Khi mê thấy không, sắc; lúc ngộ hết sắc, không. Sắc,
không và mê, ngộ xưa nay một lẽ đồng". Huyền Quang thì bảo:
-
"Người ở trên lầu, hoa dưới sân,
-
Vô ưu ngồi ngắm khói trầm xông.
-
Hồn nhiên người với hoa vô biệt,
-
Một đóa hoa vàng chợt nở tung".
-
Ông đã cảm nhận được từng hơi thở của từng đóa hoa, hoa với ông
như quyện lẫn vào nhau, không còn cách biệt. Sự liên quan mật
thiết giữa con người với thiên nhiên tương tự như vậy cũng được
thi hào Nguyễn Du diễn tả rất tinh tế:
-
"Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
-
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ !"
-
Đó là cái nhìn sự vật một cách chuẩn xác, khách quan, như cái
gương phản chiếu mọi hiện tượng. Phật giáo đời Trần quả có cái
nhìn thoáng và bao quát như thế nên ít có sự xung đột giữa con
người và thiên nhiên, giữa con người với con người. Đạo Phật lúc
nào cũng bao dung, thông cảm, không đối kháng với bất cứ ai, mà
luôn chủ trương chung sống hòa bình, nhờ vậy đã tập hợp được một
lực lượng tinh thần khá lớn, góp phần vào những thắng lợi vẻ
vang của dân tộc.
-
8- Tinh thần thâu hóa sáng tạo
-
Phật giáo đời Trần là một nền Phật giáo hợp sáng. Các đệ tử ưu
tú của đức Phật đã biết rút tỉa tinh hoa của Phật giáo Ấn Độ và
Trung Hoa kết tinh thành một nền Phật giáo độc đáo, mang nhiều
cá tính của dân tộc Việt Nam. Các nhà kiến trúc thiện nghệ đã để
lại một số công trình kiến trúc đặc biệt như tháp Chương Sơn,
chùa Đọi, chùa Phổ Minh, Non Nước v.v… Chùa tháp đã hòa vào cảnh
trời mây non nước làm tôn thêm vẻ đẹp của thiên nhiên, và làm
tăng thêm tính chất hùng tráng, thiêng liêng của tôn giáo. Những
người ngắm cảnh khi chiêm ngưỡng những kiến trúc ấy dễ phát sinh
ấn tượng như đang thức tỉnh hồn mê, xóa tan niềm tục. Những ai
có lòng thiện, đứng trước tượng Phật uy nghiêm, ngọn tháp cao
vút, cảm thấy như mình được che chở, tâm hồn lâng lân thanh
thoát. Trái lại, những người chưa làm tròn điều thiện, khi đứng
trước tượng Phật từ bi hay ngọn tháp trang nghiêm sẽ cảm thấy
lòng mình xao xuyến, và những hình ảnh kia như một lời cảnh tỉnh
để mình quay về đường lành, lánh xa điều ác.
-
Đó là đôi nét sáng tạo tài tình của những công trình kiến trúc
Phật giáo đời Trần. Ngoài ra các pháp môn tu Thiền, Tịnh độ, v.v…
cũng có nhiều sắc thái riêng biệt. Thái Tông soạn ra nghi thức
sám hối sáu thời trong một ngày, rất khác xa với cách thức sám
hối của Lương Hoàng Sám và Từ Bi Thủy Sám. Nghi thức sám hối này
văn chương hoa mỹ mà lại thực tiễn, rất thích hợp với tinh thần
Việt Nam, với những người nhiệt tâm tu tập. Pháp môn Tịnh độ
cũng được trình bày mới mẻ và thực tiễn không kém: Tịnh độ là
lòng trong sạch, đâu còn ngờ hỏi đến Tây phương; Di-đà là tính
sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc" (Nhân Tông). Đã đành ý
nghĩa "Tự tánh Di-đà, duy tâm Tịnh độ" đã có từ trước, nhưng cái
kỳ diệu là các Ngài đã biết "ăn dâu xanh nhả ra tơ vàng", thâu
thái tài tình những tinh hoa của người trước, sắp xếp và trình
bày lại mạch lạc, thực tế, dễ hiểu, phù hợp với dân tộc tính.
Chẳng hạn Trần Thái Tông đã nói một cách thi vị: "Vắt đất cục
thành vàng ròng cho quốc gia; khuấy sông dài thành sữa ngọt đãi
Trời, Người". Đó là nét đặc trưng của Phật giáo đời Trần.
-
9- Tinh thần tự tín tự cường
-
Muốn cải tạo xã hội, trước hết phải chuyển hóa con người, chuyển
vọng thành chân, chuyển mê thành ngộ. Mà muốn thay đổi con người
phải tin rằng mỗi con người đều có Phật tính siêu việt. Đó là
lời ân cần nhắc nhở của Viên Chứng Quốc sư với Thái Tông: "Trong
núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong tâm ta". Tự tin mình có
Phật tính đồng nghĩa với tự tin mình có chân lý, có một sức mạnh
vạn năng. Đấy là yếu tố quyết định chiến thắng quân Nguyên xâm
lược, mà sức mạnh ấy vốn là sức mạnh của tinh thần Phật giáo.
Tất nhiên, sức mạnh ấy phải đi đôi với tinh thần truyền thống
dân tộc, đồng thời với một nền kinh tế phồn vinh và quốc phòng
vững chắc. Phật giáo đã tỏ ra đáp ứng tích cực những đòi hỏi bức
xúc của dân tộc trong thế kỷ 13, thế kỷ xây dựng và bảo vệ đất
nước. Có thể nói, xã hội lúc bấy giờ rất ít những dấu ấn tiêu
cực và lạc hậu. Đạo Phật đã hòa mình vào dòng sống dân tộc, tạo
ra sức mạnh tinh thần, đưa đất nước đến nhiều thắng lợi, nâng
thời đại mình lên ngang tầm với lịch sử. Điều quan trọng là
không những chiến thắng đối phương mà còn tự chiến thắng chính
mình, như Nhân Tông nói: "Buông lửa giác ngộ đốt hoại thảy rừng
tà ngày trước, cầm kiếm trí tuệ quét cho xong tánh thức thuở
nay". Chinh phục được tha nhân chứng tỏ mình có một sức mạnh hơn
người, nhưng nếu tự chinh phục được mình, đó mới đích thực là
một sức mạnh phi thường.
-
Tóm lại, Phật giáo đời Trần phát triển rực rỡ là nhờ chính quyền
tận lực ủng hộ và gặp hoàn cảnh đất nước đang có nhiều chiều
hướng thuận lợi. Đó là những yếu tố khách quan. Còn về mặt chủ
quan, lúc bấy giờ có nhiều nhân tài Phật giáo xuất hiện, biết
vận dụng tinh thần độc lập tự cường, vô ngã vị tha và nhập thế
tích cực của đạo Phật để tập họp các lực lượng, thống nhất các
hệ phái bằng một tinh thần bao dung, độ lượng. Các bậc cao Tăng
và những Phật tử ưu tú còn biết thâu thái những tinh hoa của
kinh điển và những kinh nghiệm của lân bang, kết tinh thần một
thời kỳ Phật giáo vẻ vang nhất trong lịch sử nước ta.
-
Nêu lên những nét đặc trưng của Phật giáo đời Trần như thế,
chúng ta không chỉ nhằm ca ngợi suông những thành tích quá khứ
của cha ông, mà phải biết rút ra từ đó những bài học quý giá, áp
dụng sinh động vào hoàn cảnh thực tế, hầu đáp ứng những nhu cầu
bức xúc của thời đại chúng ta, để nâng vai trò Phật giáo lên
ngang tầm thời đại. Làm được như vậy thì sự nghiệp và hình ảnh
của ông cha ta sẽ còn sống mãi mãi với thời gian.
-
Vi Tính: Ngọc Dung
-
Trình bày: Nhị Tường
-
Cập nhật: 01-05-2003
--o0o--
|
|