-
CHÙA MỘT CỘT VỚI TINH THẦN
PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỜI NHÀ LÝ
-
HẠNH-CƠ
-
--o0o--
-
Cũng
như triều đại nhà Ðinh (968-980) trước đó, triều đại Lê
Ðại-Hành (980-1005) (1)
là một triều đại vẻ vang trong lịch sử dựng nước của nước ta,
nhưng sự nghiệp ấy quá ngắn ngủi vì sự phá nát của vua Lê
Long-Ðĩnh (1005-1009) (2),
cho nên bắt buộc phải có một sự đổi thay. Phú cường và an cư
lạc nghiệp là những nhu cầu thiết yếu của quốc gia dân tộc, và
đó đã là động cơ thúc đẩy Lí Công-Uẩn (3)
lên nắm chính quyền (1010-1028) để phục hưng quốc gia, bảo vệ
tinh thần đạo đức của dân tộc. Và sự lên ngôi của Lí Công-Uẩn
để khai sáng ra nhà Lí đã là một công trình, một sắp xếp chính
trị rất khéo léo của thiền sư Vạn-Hạnh (4).
Ðó là một kết quả của "tinh thần Vạn-Hạnh," và Lí Công-Uẩn lên
ngôi, cũng như các vua Lí kế tiếp, là thực hiện cái sứ mệnh
"đem ÐẠO vào ÐỜI" của Tổ Vạn-Hạnh. Nói cách khác, tư tưởng của
Vạn-Hạnh đã ảnh hưởng sâu xa và quyết định phần lớn cho tinh
thần giới lãnh đạo suốt triều đại nhà Lí; đó là tinh thần tập
thành Thiền và Mật, có kiến thức cao siêu thần toán, thấu suốt
và nối liền quá khứ, hiện tại, vị lai, sử dụng các thuật phong
thủy và sấm vĩ, làm lợi khí cho những hành động ích quốc lợi
dân, phụng sự quốc gia và bảo vệ chủ quyền dân tộc. Nhà Lí đã
xây dựng một quốc gia tiến bộ khác hẳn Ðinh, Lê trước đó, và
chùa Một-Cột đã xuất hiện một cách độc đáo trong cái tinh thần
tiến bộ toàn diện đó.
1- Sự Hình Thành và ý nghĩa Chùa Một-Cột
-
Chùa MỘT-CỘT được hình thành là do một giấc mộng của vua Lí
Thái-Tông (1028-1054) (5).
Ðại Việt Sử Kí Toàn Thư chép: "Tháng hai, mùa xuân năm
Kỉ-Sửu (1049), vua đổi niên hiệu là Sùng-Hưng Ðại-Bảo
(1049-1054) (6)
năm đầu. Trước đó vua mộng thấy Phật Bà Quan-Âm ngồi trên đài
hoa sen, dẫn vua lên đài. Khi tỉnh dậy, vua nói lại với triều
thần. Có người cho là điềm gở, nhưng nhà sư Thiền-Tuệ thì
khuyên vua nên xây chùa. Vua cho dựng cột đá giữa hồ, xây đài
hoa sen có tượng Bồ-Tát Quán-Thế-Âm ở trên, đúng như hình ảnh
vua đã thấy trong mộng. Các nhà sư chạy đàn chung quanh, tụng
kinh cầu sống lâu, nhân đó đặt tên chùa là Diên-Hựu." (7)
-
Theo đó thì chùa Một-Cột đã lấy nguồn cảm hứng từ giấc mộng
đài sen với Phật Bà Quan-Âm. Cảm hứng từ mộng là một thứ tâm
lí nghệ thuật của các dân tộc Ðông phương, và hình dáng chùa
đã bao hàm nhiều í nghĩa nghệ thuật tôn giáo.
-
Theo giáo sư Nguyễn Ðăng Thục (trong sách Lịch Sử Tư Tưởng
Việt Nam) thì từ thời nhà Ðinh đã dựng cột bia đá
"Ðà-la-ni," gọi là cột "nhất-trụ," để cầu tuổi thọ, cầu cho
vận nước dài lâu bên cạnh cái không khí luôn luôn đe dọa nặng
nề của Trung Quốc. Ðến nhà Lí thì cây cột "nhất trụ" ấy lại
bao hàm nhiều í nghĩa hơn nữa, khi vua Lí Thái-Tông đã biến
hình "nhất trụ" thành hình hoa sen (bằng cách cho xây trên
đỉnh cột một cái điện nhỏ bằng gỗ lợp ngói, mái cong), để
trở thành chùa Diên-Hựu -- tức Một-Cột. Chùa có hình dáng một
hoa sen, và nếu nhìn từ xa thì quả đó một hoa sen lớn mọc lên
từ hồ nước, -- dĩ nhiên, cây cột đã trở thành cọng sen.
-
Vẫn theo giáo sư Nguyễn Ðăng Thục thì hình ảnh hoa sen cũng đã
có những ấn tượng rõ nét trong tinh thần dân tộc ta từ thời
nhà Ðinh: Ðinh Bộ-Lĩnh (tức vua Ðinh Tiên-hoàng-đế,
968-979) ở cạnh đền Sơn-thần, ngoài cửa có đám sen núi có
dấu chữ "thiên tử"; mẹ Lê Hoàn (tức vua Lê Ðại-Hành) có mang
nằm mộng thấy trong bụng sinh hoa sen; tháng sáu, niên hiệu
Long-Thụy Thái-Bình (1054-1058) (8)
thứ 5 (1058), vua Lí Thánh-Tông (1054-1072) (9)
cho xây điện Linh-Quang, bên trái dựng điện Kiến-Lễ, bên phải
dựng điện Sùng-Nghi; phía trước điện dựng lầu chuông một cột
sáu cạnh hình hoa sen. (10)
-
Vậy thì, hoa sen luôn luôn mang một í nghĩa tốt đẹp, tượng
trưng cho những gì cao quí nhất trên đời. Nơi nào có hoa sen
là nơi đó có Phật, Bồ-Tát ngự trị; nơi nào có dấu sen là nơi
đó có dấu vết hiền nhân; nơi nào có hồ sen nhất định phải là
nơi thanh tịnh; và chính hoa sen đã được người bình dân tôn
quí để ví với những người có tâm hồn thanh cao, sống nơi bụi
trần đầy danh lợi mà không bị những thứ ô uế cám dỗ, ràng
buộc:
-
Trong đầm gì đẹp bằng sen
-
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng;
-
Nhụy vàng bông trắng lá xanh,
-
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
-
(Ca dao)
-
Cuối cùng, hoa sen có một í nghĩa vô cùng quan trọng, đến nỗi
nó đã được dùng làm tựa đề cho một bộ kinh cao thâm của Phật
giáo đại thừa: Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Do đó có thể thấy, tín
ngưỡng HOA SEN là tín ngưỡng PHẬT THỪA vậy.
-
Cũng vì hoa sen mang những í nghĩa như thế, nên hễ người ta
nói đến hoa sen là nói đến Phật. Sen là chỗ Phật ngự. Tòa sen
là tòa Phật. Và bộ ba "Tam Thánh": Di-Ðà -- Quan-Âm -- Thế-Chí
đã dính liền mật thiết với hoa sen trong tín ngưỡng Tịnh-Ðộ
tông. Cõi Cực-lạc là cả một thế giới hoa sen. Vì vậy, vua Lí
Thái-Tông đã mộng thấy hoa sen với Phật Bà Quan-Âm đứng trên
đài sen, và giấc mộng ấy đã được hiện thực bằng ngôi chùa
Một-Cột có hình dáng hoa sen với tượng Bồ-Tát Quán-Thế-Âm được
thờ trong đó.
-
Tín ngưỡng Phật Bà Quan-Âm trong tâm thức dân tộc Việt cũng là
một tín ngưỡng đặc biệt, nó biểu hiện cho lòng yêu thương vô
bờ của MẸ, hòa đồng với tín ngưỡng sùng bái Nữ Thần cố hữu
trong tư tưởng bình dân Việt Nam. Người bình dân Việt Nam với
tâm hồn chất phác, chân thật, luôn luôn có khuynh hướng nguyện
cầu một "tha lực" từ bi cứu khổ cứu nạn như Bồ-Tát
Quán-Thế-Âm, hay là Nữ Thần của họ. Họ nương tựa vào đó như
một nơi an lành, như đứa bé cảm thấy được yên ổn trong lòng
mẹ. Họ luôn luôn yên tâm khi tin tưởng có Bồ-Tát Quán-Thế-Âm ở
bên cạnh để che chở, độ trì.
-
Xem thế, chùa Một-Cột quả là một tác phẩm nghệ thuật tân kì,
thể hiện trọn vẹn cái tâm linh độc đáo của dân tộc. Với cây
cột độc nhất dựng sừng sững giữa hồ, nó biểu hiện cho tín
ngưỡng về nguồn sống vũ trụ, về âm dương hòa hợp của tư tưởng
Bà-la-môn giáo và Chiêm-thành -- vốn cũng đã ảnh hưởng ngấm
ngầm vào tinh thần dân Việt từ lâu. Với cái điện hình hoa sen
mọc lên từ hồ nước, nó nói lên cái tinh thần phấn đấu âm thầm
với dục vọng để tự kiến tánh thành Phật của các thiền sư, tức
là giới trí thức bác học. Và với tượng Phật Bà Quan-Âm, nó bộc
lộ cái tình Mẹ, tượng trưng cho Nữ Thần, một tha lực từ bi
luôn luôn cứu độ chúng sinh, đó là tín ngưỡng của giới bình
dân chơn chất. Vì vậy, chùa Một-Cột quả đã gói ghém hoàn toàn
tinh thần tín ngưỡng đặc biệt của Việt Nam thời đó. Tinh thần
chùa Một-Cột là một tinh thần tổng hợp của Phật giáo Việt Nam
thời Lí. Tinh thần đó đã dung hòa các tư tưởng vừa Thiền, vừa
Mật, vừa Nho, vừa Lão, vừa trí thức, vừa bình dân, nhất là nó
thể hiện một tinh thần hợp sáng nhưng độc lập của quốc gia; và
chính cái tinh thần đó đã là nguyên nhân sâu xa của việc thành
lập thiền phái Thảo-Ðường, một phái thiền Việt-nam độc đáo
thời nhà Lí.
-
2- Thiền phái Thảo Ðường: Một kết tinh của Tinh thần Phật giáo
Việt Nam thời nhà Lí
-
Thời đại nhà Lí là thời đại toàn thịnh của Phật giáo Việt
Nam, mà cũng là thời đại có í thức dân tộc cao nhất, tinh thần
quốc gia hùng mạnh nhất trong lịch sử độc lập của Việt Nam. Về
điểm này, giáo sư Hoàng Xuân Hãn có nói: "Lí Thánh-Tông là
vua ta đầu tiên có óc lập một đế quốc có danh ngang với một
nước thiên tử. Vua đặt quốc hiệu là Ðại-Việt (1054), tôn các
vua trước là Thái-Tổ, Thái-Tông, coi các nước nhỏ là chư hầu,
và muốn ngăn cấm Chiêm Thành thần phục Tống." (11)
Và chính ở trong cái í thức dân tộc và tinh thần độc lập, tự
cường cao độ đó mà phái thiền Thảo-Ðường đã xuất hiện, như học
giả Trần Văn Giáp đã nói: "Ðến thế kỉ XI, đạo Phật rất
thịnh vượng ở Việt-nam. Những người nhiệt thành với đạo này
không phải chỉ là quần chúng mà cả những quan lớn ở triều
đình, và cả những vua chúa nữa. Những ông vua ấy muốn thiết
lập một phái mới. Nhưng thay vì trực thuộc với Bồ-Ðề Ðạt-Ma,
họ lại chọn một thiền sư Trung-hoa tên là Thảo-Ðường đã đến
Chiêm-thành và ngụ một thời gian ở đó. Chắc chắn họ đã theo
giáo huấn của vị sư trưởng này và thực hành giáo pháp của ông.
Thời kì thứ tư này quả là thời kì Thiền học Việt-nam." (12)
-
Từ Lí Thái-Tông, ta thấy nhà vua đã có khuynh hớng xây dựng
một nền Phật giáo riêng biệt, đặc thù cho Ðại-cồ-việt (13)
qua kiến trúc hợp sáng chùa Một-Cột, thờ Phật Bà Quan-Âm trong
một cái điện hình hoa sen. Ðến vua Lí Thánh-Tông thì cái
khuynh hướng ấy lại càng mạnh mẽ hơn nữa, đến nỗi đã đưa đến
việc sáng lập một phái thiền mới lấy tên của thiền sư
Thảo-Ðường.
-
Về sự tích Tổ Thảo-Ðường, sách An Nam Chí Lược chép:
"Thảo-Ðường đi theo sư phụ sang ở đất Chiêm-thành. Khi vua Lí
Thánh-Tông đánh Chiêm-thành, bắt được làm tù binh, giao cho
quan tăng-lục làm gia nô. Quan tăng-lục viết sách Ngữ Lục, để
ngỏ trên bàn và đi khỏi. Nhà sư Thảo-Ðường xem trộm, có sửa
chữa đi. Quan tăng-lục về thấy thế lấy làm kinh ngạc về anh
gia nô, bèn tâu lên vua. Vua bái Thảo-Ðường làm quốc-sư."
(14)
-
Tinh thần của tài liệu này cho ta thấy gì? Ðọc lại lời của
giáo sư Hoàng Xuân Hãn ở trên thì triều đại Lí Thánh-Tông quả
là một triều đại oanh liệt, có tinh thần dân tộc cao sáng
nhất. Vua Lí Thánh-Tông nuôi mộng xây dựng quốc gia thành một
đế quốc hùng cường, xứng danh "Ðại-Việt"; trong đó bao gồm í
tưởng sáng lập một tông phái Phật giáo Ðại-Việt đặc thù, hoàn
toàn mang màu sắc dân tộc, mặc dù trước đó đã có hai phái
thiền Tì-Ni-Ða-Lưu-Chi và Vô-Ngôn-Thông từ ngoại quốc truyền
vào. Và mộng ước ấy đã được thành tựu do một thiện duyên hãn
hữu, đó là việc nhà vua đi đánh Chiêm-thành, bắt nhiều tù
binh, và trong đám tù binh ấy có thiền sư Thảo-Ðường.
-
Thảo-Ðường là một tù binh được cắt đặt làm thị giả cho vị
tăng-lục (vị tăng sĩ cao cấp trông coi về tăng sự). Lại
do sự khám phá của chính vị tăng-lục mà Thảo-Ðường được nhà
vua tôn làm quốc-sư. Ấy là vua đã nhặt được viên ngọc vô giá
từ trong bùn lầy! Ý vua đã mong ước thành lập một tông phái
đặc biệt Việt Nam, nhưng nhà vua là cư sĩ, không thể đứng làm
tổ khai sơn cho một môn phái, -- lại không muốn chọn các vị
thiền sư đã sẵn có môn phái đương thời, -- nhân cơ hội khám
phá được viên ngọc vô giá là thiền sư Thảo-Ðường (dù vốn có
nguồn gốc từ Trung-hoa), bèn lập tức tôn lập ngài làm Tổ,
lấy tên ngài làm tên môn phái, rồi chính nhà vua làm đồ đệ đầu
tiên đời thứ nhất. Thật là một cơ hội nghìn vàng để vua thực
hiện giấc mộng. Quan tăng-lục là một vị cao tăng, mà viết "ngữ
lục" còn bị Thảo-Ðường sửa chữa, thì Thảo-Ðường quả xứng đáng
với sự trông đợi và kính ngưỡng của vua Lí Thánh-Tông.
-
Vậy thì cái tinh thần đặc biệt của Tổ Thảo-Ðường là gì? Ðó là
một tinh thần tổng hợp Thiền và Tịnh. Theo tinh thần bài "Kỉnh
Sách" của Tổ thì con đường tu hành không phải chỉ có một, mà
phải gồm cả ba phương diện: tham thiền, quán chiếu và niệm
Phật. Tham thiền và quán chiếu tức là tập trung tinh thần nhắm
vào một điểm, ngưng đọng tất cả mọi vọng niệm trong tâm, để
cho tâm í thanh tĩnh, không còn vọng động. Lúc đó cả năng tri
và sở tri đều mất, trí tuệ phát sinh, kiến tánh giác ngộ. Ðó
là con đường tự lực đốn ngộ, có thể giải thoát ngay ở đời này,
được áp dụng chung cho cả tăng lẫn tục. Nhưng đó là con đường
trí thức, chỉ thích hợp cho những bậc thượng nhân; còn đối với
kẻ độn căn mà đa số là quần chúng nông dân thì không thích
hợp. Do vậy mà Tổ đã đưa ra con đường niệm Phật để dẫn dắt đám
quần chúng nông dân đông đảo ấy. Tổ nói: "Thiền vốn không
có cửa vào nhất định, nếu không đủ căn bản tâm linh thì phần
nhiều rơi vào lầm lạc, trọn đời trôi nổi, khó mà giác ngộ.
Pháp quán tâm thì rất tế nhị, tinh vi, nếu không có trí tuệ
bát nhã thì ít có thể tiến bộ trên đường chứng nghiệm. Chỉ còn
có lối niệm Phật là rất mau lẹ, tiện lợi. Từ xưa đến nay,
người thông minh hay ngu độn đều tu, đàn ông hay đàn bà đều
chuộng, muôn người không một sai lầm như bốn lời dạy của phái
Lâm-Tế đã tỏ rõ. Chỉ cần tự phân tích lấy tâm mình, chớ nghi
ngờ mình làm không được." (15)
-
Người nông dân vốn dồi dào tình cảm và giàu tưởng tượng. Hơn
nữa, trải qua bao cảnh bạo tàn, đau thương của giặc giã, chiến
tranh từ các đời trước, họ chỉ mong được một đời sống thanh
bình, an cư lạc nghiệp với sự độ trì của thần linh, cho nên sự
tin tưởng vào Phật Bà Quan-Âm với lòng từ bi của Mẹ Hiền cứu
khổ cứu nạn đã phổ biến mau lẹ và sâu rộng trong quần chúng
bình dân. Tín ngưỡng vào Bồ-Tát Quán-Thế-Âm cứu khổ độ trì là
một lòng tin vào tha lực. Bởi thế, con đường niệm Phật dành
cho người bình dân đã được đề cao bên cạnh con đường tham
thiền và quán chiếu dành cho bậc đại trí tin tưởng vào tự lực;
đó là cái chủ tâm của vua Lí Thánh-Tông trong việc thành lập
thiền học Thảo-Ðường, nhằm tổng hợp tín ngưỡng của toàn dân,
làm thành một sức mạnh vô địch để thực hiện cái mộng
"Ðại-Việt" trong tinh thần dân tộc cao sáng của mình.
-
Như vậy, đứng về phương diện lịch sử, chúng ta phải công nhận
người sáng lập ra phái thiền Thảo-Ðường là vua Lí Thánh-Tông.
Tinh thần Thảo-Ðường chính là tinh thần Lí Thánh-Tông trong í
hướng sáng lập một môn phái đặc biệt dân tộc. Tinh thần Lí
Thánh-Tông là một tinh thần cởi mở, sẵn sàng thâu hóa nhiều
tín ngưỡng khác nhau. Vua rất sùng thượng Phật pháp nên đã xây
cất và tu bổ rất nhiều chùa tháp. Tinh thần từ bi của Phật
giáo đã ảnh hưởng sâu đậm nên nhà vua có tiếng là một ông vua
nhân từ. Vua đã từng ban chăn chiếu cho tù nhân, cho họ ăn cơm
đầy đủ vì nghĩ thương cái hoàn cảnh đói lạnh của họ trong ngục
xá; và đối với dân chúng thì: "Lòng trẫm yêu dân như yêu
con trẫm vậy; hiềm vì trăm họ ngu dại làm càn phải tội, trẫm
lấy làm thương lắm; vậy từ nay về sau, tội gì cũng giảm nhẹ
bớt đi." (16)
Ðối với Khổng giáo nhà vua cũng rất chú trọng. Vua là người
đầu tiên ở nước ta dựng lập văn miếu, tạc tượng Chu-Công,
Khổng-Tử và tứ-phối để thờ phượng (1070). Vua cũng rất hâm mộ
âm nhạc Chiêm-thành và tin Thần đạo, xây chùa Nhị-Thiên-Vương
thờ Nhật-Thiên (Civa Deva) và Nguyệt-Thiên (Visnu Deva) thuộc
tín ngưỡng Ấn-độ giáo.
-
Vì vậy, khi nhận xét về Lí Thánh-Tông, giáo sư Nguyễn Ðăng
Thục đã viết: "Xem thế thì biết rằng khuynh hướng tín
ngưỡng của nhà vua cũng như của toàn quốc thời bấy giờ không
có tính cách giáo điều, hết sức cởi mở để thỏa hiệp nhiều tín
ngưỡng khác nhau." (17)
3- Quan Âm Nữ
-
Nói đến Lí Thánh-Tông, chúng ta còn phải đề cập đến một điểm
đặc biệt khác nữa, đó là sự liên quan gần như mật thiết giữa
nhà vua với hình ảnh Bồ-Tát Quán-Thế-Âm. Hình ảnh Phật Bà
Quan-Âm đã ám ảnh dân ta từ lâu, và đã được thể hiện một cách
cụ thể kể từ vua Lí Thái-Tông, qua việc xây chùa Một-Cột hình
hoa sen để thờ đức Bồ-Tát như chúng ta đã thấy ở trên. Một sự
kiện nữa, như sử chép: "Nhà vua 40 tuổi, chưa có con trai,
thường đi các đền chùa để cầu tự. Ngự giá đến đâu, người xem
chật đường. Khi đến làng Thổ-lỗi, có người con gái hái dâu
đứng dựa vào khóm cỏ lau, nhà vua lấy làm lạ, cho vào cung,
lập nàng làm ỉ-Lan phu-nhân. Ðến khi có mang, sinh hoàng-tử
Càn-Ðức, nhà vua mừng lắm. Ngày hôm sau lập làm thái-tử, đổi
niên hiệu, đại xá, phong ỉ-Lan phu-nhân làm thần-phi, lại gọi
là nguyên-phi, đổi làng Thổ-lỗi làm làng Siêu-loại, vì là
nguyên quán của nguyên-phi." (18)
-
Sử Kí Toàn Thư lại chép: "Vua thân đi đánh Chiêm-thành, lâu
không thắng, trở về đến châu Cư-liên, nghe tin nguyên-phi điều
khiển nội trị được lòng dân hòa hợp, trong nước yên ổn, tôn
sùng Phật giáo, tục gọi là Quan-Âm-Nữ. Vua tự bảo, 'Kẻ kia là
một nữ nhi mà còn có thể được thế, ta là trai còn dùng làm
chi!' Bèn quay lại đánh mới thắng được." (19)
-
Trong chế độ quân chủ xưa, việc vua sinh được hoàng nam là một
điều vui mừng trọng đại không những cho nhà vua, cho triều
đình, mà cho cả nhân dân trong nước. Vua Lí Thánh-Tông đã 40
tuổi mà chưa có con trai, nay gặp được Ỉ-Lan phu-nhân thì sinh
hoàng nam, đó chẳng là điều đại phúc cho triều đình và cho cả
thiên hạ ư? Vì vậy, từ một cô thôn nữ, Ỉ-Lan đã được bước lên
địa vị một nguyên-phi, và đối với nhân dân thì được tôn kính
là Quan-Âm Nữ (con gái của Phật Bà Quan-Âm), nàng quả
đã được mọi người, mọi tầng lớp trong toàn quốc coi là một cứu
tinh của dân tộc. Nàng là cứu tinh của dân tộc không những
sinh được vị thái-tử anh minh, mà còn vì ở tư cách lãnh đạo
nhân dân, làm cho họ được sống thanh bình trong cảnh an cư lạc
nghiệp. Người dân vốn đã sẵn lòng sùng bái Phật Bà Quan-Âm,
nay họ có dịp hiện thực hóa Phật Bà Quan-Âm vào đối tượng
Ỉ-Lan phu-nhân, chứng tỏ đã có một sợi dây cảm thông, một í
thức nối liền giữa tầng lớp bị trị và tầng lớp thống trị.
-
Từ trước khi chùa Một-Cột và tượng Phật Bà Quan-Âm xuất hiện,
Phật giáo nước ta chỉ biết có Thiền và Mật thần thông, là
khuynh hướng tin tưởng vào tự lực, chỉ thích hợp với thiểu số
tầng lớp trí thức bác học, giàu nghị lực và í chí. Từ khi chùa
Một-Cột với tượng Phật Bà Quan-Âm ra đời thì hình ảnh Nữ-Thần
Quan-Âm đã là đối tượng lí tưởng của đại đa số nông dân tin
tưởng vào một tha lực cứu khổ cứu nạn. Và đến Lí Thánh-Tông
thì sợi dây nối kết giữa tự lực và tha lực, giữa trí thức bác
học và nông dân quê mùa, giữa giới thống trị và giới bị trị,
đã được bện thành; và sợi dây đó chính là nàng thôn nữ Ỉ-Lan.
Ỉ-Lan đối với nhà vua là hình ảnh Quan-Âm Nữ, không những đã
đem đến cho nhà vua hiếm hoi một vị thái-tử anh minh nối
nghiệp, mà còn là một động lực phấn khởi nhiệm mầu khiến cho
nhà vua thắng trận khải hoàn; còn đối với nhân dân thì Ỉ-Lan
cũng là hình ảnh Quan-Âm-Nữ vì đã đem lại cho họ một xã hội an
cư lạc nghiệp. Vì vậy, sau khi thắng giặc Chiêm-thành trở về,
vua Lí Thánh-Tông đã sáng lập tại kinh đô Thăng-long thiền
phái Thảo-Ðường, cũng với í chí thống nhất tín ngưỡng sùng bái
của bình dân với tín ngưỡng trí thức của bác học để lấy sức
mạnh toàn dân mà thực hiện mộng "Ðại-Việt" nói về phương diện
quốc gia, và thực hiện một môn phái Thiền "Ðại-Việt" nói về
phương diện Phật giáo.
-
4- Một cách tổng quát
-
Nhìn một cách tổng quát, chúng ta thấy Phật giáo thời Lí quả
đã chứng tỏ cái năng lực phi thường trong việc giáo hóa con
người về cả hai phương diện, xuất thế cũng như nhập thế. Từ Lí
Thái-Tổ đến Lí Chiêu-Hoàng (1224-1225), trải qua chín đời vua,
trị vì suốt một thời gian 215 (1010-1225) năm, Phật giáo luôn
luôn nắm vai trò chủ động. Mọi phương diện hệ trọng của quốc
gia, từ chính trị, quân sự, đến giáo dục, văn học, nghệ thuật
v.v... đều mang tinh thần Phật giáo. Ba phái thiền
Tì-Ni-Ða-Lưu-Chi, Vô-Ngôn-Thông và Thảo-Ðường cùng nhau hợp
tác, truyền bá song hành, và cùng chung qui vào một chí hướng
phục vụ quốc gia dân tộc.
-
Về phương diện xuất thế, các thiền sư cũng như các vua chúa
sùng đạo đều căn cứ vào thiền để khai phóng tâm linh, tự mình
phát triển trí tuệ mà ngộ đạo. Về phương diện nhập thế, sau
khi ngộ đạo, họ đã hòa mình vào đời sống xã hội, từ cung vua,
kinh thành, cho đến làng mạc, thôn quê, họ đã mở bao nhiêu đạo
tràng, trường học để mở mang văn hóa, giải phóng tâm hồn mông
muội cho người đời; ở đâu có người sống là ở đó có ánh sáng
đạo lí lan tràn tới. Bao nhiêu tinh hoa của dân tộc được khai
triển triệt để, làm cho nền văn minh nước ta vào thời đó thật
rực rỡ, sánh ngang hàng với Trung Quốc, khiến cho nước láng
giềng to lớn này phải nể sợ.
-
Tinh thần Phật giáo thời Lí, nhất là từ khi hình ảnh hoa sen
với tượng Phật Bà Quan-Âm xuất hiện, không phải là một tinh
thần Phật giáo Thiền tông thuần túy, mà là cả một tinh thần
dung hóa sáng tạo. Từ thiền sư Vạn-Hạnh với triết lí "dung tam
tế" đến các thiền sư Từ Ðạo-Hạnh, Minh-Không với khuynh hướng
tổng hợp Thiền-Mật, sử dụng quyền năng thần thông để giúp đời;
rồi các thiền sư Viên-Chiếu, Cứu-Chỉ, Ngộ-Ấn, Thông-Biện,
Viên-Thông v.v..., đều khai triển cái học TAM-GIÁO
(Phật-Lão-Nho) để phụng sự quốc gia dân tộc, khiến cho cái
tinh thần "Bi, Trí, Dũng" của Phật giáo, hay "Nhân, Trí, Dũng"
của Nho giáo được các cấp lãnh đạo thực hành triệt để, xây
dựng một nước Ðại Việt hùng cường, thịnh vượng và nhân ái.
-
Tinh thần "Bi-Trí-Dũng" ấy lại là một tinh thần toàn dân thống
nhất, do công trình nối kết từ tín ngưỡng trí thức quí tộc đến
tín ngưỡng sùng bái bình dân qua các hình ảnh chùa Một-Cột,
Quan-Âm Nữ, nhất là sự sáng lập thiền phái Thảo-Ðường, đã làm
cho Phật giáo Việt Nam thời nhà Lí có một tinh thần tín ngưỡng
hợp sáng thật đặc biệt.
-
Tất cả những sự kiện trên đã làm cho nước ta dưới thời đại nhà
Lí thật xứng đáng với danh xưng "Ðại-Việt."
-
CHÚ THÍCH:
-
1-
Lê Ðại-Hành: Tên là Lê Hoàn, người làng Bảo-thái, huyện
Thanh-liêm, tỉnh Hà Nam; là một vị tướng tài của vua Ðinh
Tiên-hoàng. Năm 968 được phong chức thập-đạo tướng-quân; năm
979 làm nhiếp-chính cho Vệ-vương Ðinh Tuệ (con út của vua Ðinh
Tiên-hoàng, lên ngôi năm 979, lúc đó mới sáu tuổi). Năm 980,
quân Tống xâm lăng, Lê Hoàn cử Phạm Cự Lượng làm đại tướng cầm
quân nghênh địch. Trước khi ra quân, Phạm Cự Lượng cùng ba
quân đều đồng thanh tôn Lê Hoàn lên ngôi vua (lấy cớ vua Ðinh
Tuệ còn quá nhỏ dại, chư tướng sĩ đánh giặc không thể biết
thưởng phạt công minh). Liền đó, Lê Hoàn lên ngôi, xưng là
Ðại-Hành hoàng-đế, phế Ðinh Tuệ làm Vệ-vương, mở ra nhà
Tiền-Lê (980-1009), rồi đích thân cầm quân chống giặc, thắng
được cả thủy, lục quân Tống, giết chủ tướng Tống là Hầu
Nhân-Bảo (981), nhà Tống phải cầu hòa. Ông ở ngôi được 25 năm
(980-1005), thọ 65 tuổi.
-
2-
Lê Long-Ðĩnh: Là con út của vua Lê Ðại-Hành (em của Long-Ngân,
Long-Kính, Long-Việt). Vua Lê Ðại-Hành mất (1005), Long-Việt
lên ngôi (là vua Lê Trung-Tông), nhưng chỉ được ba ngày thì bị
Long-Ðĩnh cho người ám sát để đoạt ngôi, trở thành vua đời thứ
ba của nhà Tiền-Lê. Lê Long-Ðĩnh là ông vua nổi tiếng về độc
ác, bạo ngược, hiếu sát trong lịch sử nước ta. Ông lại là
người hoan dâm quá độ, đến nỗi mắc bệnh không ngồi được, phải
nằm mà thính triều, cho nên được người đương thời gọi là
"Ngọa-Triều hoàng-đế." Ông ở ngôi được bốn năm (1005-1009),
thọ 20 tuổi.
-
3-
Lí Công-Uẩn: Vua khai sáng nhà Lí (1010-1225). -- Ðể phân
biệt, có người gọi đây là nhà Hậu-Lí, khác với nhà Tiền-Lí
(544-602) do Lí Nam-Ðế (544-548) sáng lập. -- Công-Uẩn người
làng Cổ-pháp, huyện Ðông-ngạn, phủ Từ-sơn, tỉnh Bắc-ninh,
không biết cha là ai, được mẹ là bà họ Phạm đem cho thiền sư
trú trì chùa Cổ-Pháp là Lí Khánh-Vân làm con nuôi, cho nên lấy
họ Lí. Tuổi thơ ông đã sống kham khổ trong chốn thiền môn,
nhưng lại được sự dạy dỗ tận tình của thiền sư Vạn-Hạnh, nên
lớn lên ông đã trở thành một người tài đức kiêm toàn, được vào
triều phụng sự nhà Tiền-Lê, làm quan đến chức tả-thân-vệ
điện-tiền chỉ-huy-sứ. Ông được toàn thể đình thần tin yêu và
kính trọng, nên sau khi vua Lê Long-Ðĩnh băng (1009), ông đã
được họ tôn lên ngôi vua (tức vua Lí Thái-Tổ), khai sáng một
triều đại nhà Lí huy hoàng, áp dụng tinh thần BI-TRÍ-DŨNG của
Phật giáo trong việc trị dân, chấm dứt một giai đoạn tai ách
khổ đau cho dân tộc. Sau khi lên ngôi, nhà vua cho dời kinh đô
từ Hoa-lư (Ninh-bình) ra La-thành, đặt tên lại là Thăng-long
(tức thành phố Hà-nội ngày nay) -- vẫn giữ quốc hiệu là
Ðại-cồ-việt (xin xem chú thích số 13 ở sau). Ông ở ngôi được
18 năm (1010-1028), thọ 55 tuổi.
-
4-
Vạn-Hạnh: Vị cao tăng đời thứ 12 thiền phái Tì-Ni-Ða-Lưu-Chi.
Thiền sư họ Nguyễn, người làng Cổ-pháp, huyện Ðông-ngạn, phủ
Từ-sơn, tỉnh Bắc-ninh. Từ thuở nhỏ đã thông minh khác thường,
tinh thông cả Nho, Lão, Phật, nghiên cứu hàng trăm bộ kinh
luận Phật giáo, không ham danh lợi, không trọng giàu sang. Năm
21 tuổi xuất gia, học với thiền sư Thiền-Ông chùa Lục-Tổ,
chuyên cần tinh tấn, đạo hạnh cao dày, lại rất giỏi về sấm vĩ
và phong thủy, được thiên hạ tin tưởng là bậc tiên tri. Thiền
sư là thầy dạy học cho cả vua Lê Ðại-Hành và Lí Thái-Tổ, đã
giúp đỡ rất nhiều cho vua Lê Ðại-Hành trong các việc cai trị
cũng như quân quốc đại sự. Khi đoán biết vận số nhà Tiền-Lê đã
hết, thiền sư đã khéo léo vận động đưa Lí Công-Uẩn lên ngôi
hoàng đế, chấm dứt thời kì tối tăm đầy đau khổ của dân tộc
dưới triều vua Lê Long-Ðĩnh tàn ác, dâm loạn, đồng thời ngăn
chận được những biến loạn nguy hiểm sau khi vua Lê Long-Ðĩnh
băng. Vua Lí Thái-Tổ lên ngôi, mở ra triều đại nhà Lí, phong
cho thiền sư làm quốc sư. Nhân cơ hội này, thiền sư đã đem hết
khả năng và tinh thần "dung hợp Nho-Lão-Phật" của mình để giúp
vua trị quốc an dân, đúng với tư cách của một vị lãnh đạo
không những về tâm linh, mà còn về hành động giúp dân an cư
lạc nghiệp. Thiền sư tịch vào năm 1018.
-
5-
Lí Thái-Tông: Con trưởng vua Lí Thái-Tổ, tên Phật-Mã, nối ngôi
năm 1028, là vua đời thứ hai nhà Lí. Ông là một vị quân vương
thông minh, giỏi cả về chính trị cũng như quân sự. Ông cũng
thấm nhuần đức độ của vua cha, thâm tín Phật pháp, nên rất
thương dân và thường quan tâm đến đời sống của dân. Ông ở ngôi
được 26 năm (1028-1054), thọ 55 tuổi.
-
6.
Trong suốt thời gian ở ngôi, vua Lí Thái-Tông đã đặt sáu niên
hiệu: Thiên-Thành (1028-1033); Thông-Thụy (1034-1038);
Càn-Phù-Hữu-Ðạo (1039-1041); Minh-Ðạo (1042-1043);
Thiên-Cảm-Thánh-Vũ (1044-1048); Sùng-Hưng-Ðại-Bảo (1049-1054).
-
7-
Trích từ sách Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, tập II (Sài-gòn: Phủ
Quốc Vụ Khanh Ðặc Trách Văn Hóa, 1969) của Nguyễn Ðăng Thục.
-
8-
Trong suốt thời gian trị vì, vua Lí Thánh-Tông đã đặt năm niên
hiệu: Long-Thụy Thái-Bình (1054-1058); Chương-Thánh Gia-Khánh
(1059-1065); Long-Chương-Thiên-Tự (1066-1067); Thiên-Huống
Bảo-Tượng (1068); Thần-Võ (1069-1072).
-
9. Lí Thánh-Tông: Vua Thái-Tông
băng (1054), thái-tử Nhật-Tông lên nối ngôi làm vua đời thứ ba
nhà Lí, tức Lí Thánh-Tông, đổi quốc hiệu là Ðại-việt. Ông cũng
là một vị quân vương tài trí, nhân từ và đức độ, đã tạo một sự
nghiệp hiển hách còn hơn cả các đời trước. Ông ở ngôi được 18
năm (1054-1072), thọ 50 tuổi.
-
10-
Theo giáo sư Nguyễn Ðăng Thục, Sđd.
-
11-
Hoàng Xuân Hãn, Lí Thường Kiệt (Sài-gòn: Ban Tu Thư Ðại Học
Vạn Hạnh, 1967).
-
12-
Trần Văn Giáp, Phật Giáo Việt Nam, Tuệ Sĩ dịch (Sài-gòn: Ban
Tu Thư Ðại Học Vạn Hạnh, 1968).
-
13-
Năm 968, Ðinh Bộ-Lĩnh dẹp yên 12 sứ quân, lên ngôi vua, xưng
là Tiên-hoàng-đế, đặt quốc hiệu là Ðại-cồ-việt (nước Việt
lớn), đóng đô tại Hoa-lư (tỉnh Ninh-bình).
-
14-
Nguyễn Ðăng Thục, Sđd.
-
15-
Nguyễn Ðăng Thục, Sđd.
-
16-
Thượng-tọa Mật-Thể, Việt Nam Phật Giáo Sử Lược (Nha-trang:
Phật Học Viện Trung Phần, 1960).
-
17-
Nguyễn Ðăng Thục, Sđd.
-
18-
Nguyễn Ðăng Thục, Sđd.
-
19-
Nguyễn Ðăng Thục, Sđd.
-
Tài liệu tham khảo
-
- Hoàng Xuân Hãn. Lí Thường Kiệt. Sài-gòn: Ban Tu Thư Ðại Học
Vạn Hạnh, 1967.
-
- Nguyễn Ðăng Thục. Lịch Sử Tư Tưởng Việt Nam, tập I, II.
Sài-gòn: Phủ Quốc Vụ Khanh Ðặc Trách Văn Hóa, 1969.
-
- Nguyễn Ðăng Thục. Thiền Học Việt Nam. Sài-gòn: Lá Bối, 1967.
-
- Nguyễn Lang. Việt Nam Phật Giáo Sử Luận I. Paris: Lá Bối,
1977.
-
- Thượng-tọa Mật-Thể. Việt Nam Phật Giáo Sử Lược. Nha-trang:
Phật Học Viện Trung Phần, 1960.
-
- Trần Trọng Kim. Việt Nam Sử Lược. Sài-gòn: Tân Việt, in lần
thứ sáu.
-
- Trần Văn Giáp. Phật Giáo Việt Nam (Tuệ-Sĩ dịch). Sài-gòn:
Ban Tu Thư Viện Ðại Học Vạn Hạnh, 1968.
-
Trình bày : Nhị Tường
-
Cập nhật : 01-11-2004