|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
-
KTS. Nguyễn Tiến Hiệp
-
---o0o---
-
Trong bài diễn văn khai mạc lễ đặt đá xây dựng Thiền
viện Trúc Lâm Tây Thiên, Thiền sư Thích Thanh Từ, Viện trưởng
Thiền viện Trúc Lâm Đà lạt, người có ảnh hưởng lớn nhất đến việc
xây dựng các Thiền viện Trúc Lâm ở Việt Nam trong đó có Thiền viện
Trúc Lâm Tây Thiên và là người mang tâm nguyện lớn lao làm sống
lại tinh thần Thiền phái Trúc Lâm của dân tộc, đã nói:
-
“…Ngày nay, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên được hình
thành trên phế tích của một nền chùa cổ có tên là Thiên Ân Thiền
Tự. Đây cũng là nhân duyên của Thiền phái Trúc Lâm với chốn Tổ
ở Tây Thiên. Ngoài chức năng trùng hưng lại một trung tâm Phật
giáo Việt Nam thời Hùng Vương, góp phần tôn tạo cảnh quan cho khu
di tích danh thắng Tây Thiên, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên còn là
nơi tạo tiền đề
cho những công trình nghiên cứu, khai quật kế tiếp sau này nhằm
làm sáng tỏ giá trị của Phật giáo Tây Thiên, cái nôi của Phật giáo
Việt Nam. Qua đó Thiền phái Trúc Lâm đã cùng với Giáo Hội góp phần
phát huy và bảo tồn bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Đây là
duyên cớ khiến chúng tôi quan tâm đến danh thắng Tây Thiên và cho
tiến hành xây dựng Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên.
-
Hiện nay, trong khi còn chờ đợi những phát hiện mới
về khảo cổ học ở Tây Thiên, theo chúng tôi, qua các nguồn sử liệu
và lịch sử phát triển của dân tộc, có thể nói - Tây Thiên là
chiếc nôi của Phật giáo Việt Nam, Phật giáo được truyền từ Ấn Độ
vào nước ta thời Hùng Vương, khoảng năm 300 TCN, và đoàn hoằng
Pháp của vua A-Dục (Asoka) do ngài Sona và Uttara dẫn đầu là những
người đầu tiên đem Phật giáo vào nước Văn Lang thời Vua Hùng.
-
Vào thời Hùng Vương lãnh thổ nước ta còn nhỏ bé,
riêng chỉ có khu vực Tây Thiên Tam Đảo này mới có núi non liên
hoàn, rừng thâm u rậm rạp, có suối chảy, thác cao, cảnh trí u nhã,
thanh tịnh, thích hợp cho người tu Thiền, tìm cầu giác ngộ giải
thoát, cho nên các Thiền sư về đây ẩn tu, dựng lập các Thiền Tự.
Danh tự Tây Thiên, nghĩa đen là Trời Tây, trong kinh Phật, từ ngữ
Tây Thiên hay Tây Trúc được dùng để chỉ cho nước Ấn Độ, nơi phát
sinh ra đạo Phật. Do đó việc đặt tên Tây Thiên có ý nghĩa để chỉ
nơi khởi nguồn đạo Phật ở Việt Nam. Các nhà sư Ấn Độ sang nước ta
truyền đạo, khi đến vùng Vĩnh Phúc gần kinh đô Văn Lang, dân cư
đông, lại thấy cảnh cảnh trí đẹp giống như “cảnh Phật” ở bên Ấn
Độ, nên các Ngài dừng chân tại đây để hành đạo, sau đó đạo hạnh
của các Ngài lan tỏa khắp các nơi trong và ngoài nước.
-
Thiền học Việt Nam khởi nguồn từ Ngài Khương Tăng
Hội vào khoảng thế kỷ thứ 3 tại trung tâm Luy Lâu, Ngài không chỉ
là sáng tổ của Thiền học Việt Nam, mà còn là người đem Thiền học
truyền sang Trung Quốc. Cha Ngài là người nước Khương Cư
(Sogdiane) mẹ người Việt, Ngài được sinh ra và học đạo tại Việt
Nam, sau đó có thời gian ngài đi sang giáo hoá ở Trung Quốc.
-
Đến thế kỷ thứ 6, dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi từ Trung
Quốc truyền sang nước ta bằng đường bộ, đến thế kỷ thứ 9 dòng
Thiền Vô Ngôn Thông được truyền sang nước ta rồi thế kỷ thứ 11
nước ta có thêm Thiền phái Thảo Đường, cả 3 dòng Thiền này đều từ
Trung Quốc truyền vào nước ta. Mãi đến thế kỷ thứ 13, sau khi vị
Hoàng đế anh hùng của dân tộc là vua Trần Nhân Tông xuất gia tu
hành ở Yên Tử, giác ngộ đạo Phật (hoằng dương được Phật Pháp) rồi
dung hợp 3 phái Thiền trên thành Thiền phái Trúc Lâm, mang bản sắc
văn hoá của dân tộc Đại Việt, từ đó chúng ta mới có dòng Thiền
Việt Nam đầu tiên. Với tài tổ chức về hành chính của một đấng minh
quân, Ngài thống nhất Phật giáo, thành lập giáo hội, rồi Giáo Hội
Phật Giáo Việt Nam đầu tiên ra đời. Tinh thần Thiền Tông thời Trần
là một tư tưởng đạo đức lớn của ông cha ta, nếu ông cha ta không
khéo léo giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc và sống đời đạo đức thì
có lẽ dân tộc ta có thể bị tiêu diệt hay bị đồng hoá theo quy luật
khắc nhiệt của Tạo hoá rồi.
-
Do nhận thức được giá trị sâu sắc về tư tưởng đạo đức
và đường lối tu hành của Thiền phái Trúc Lâm, chúng tôi về đây để
cùng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam thắp sáng ngọn đèn chánh pháp tại
chốn tổ Tây Thiên, xây dựng lại chiếc nôi của Phật giáo Việt Nam
đã có từ thời đầu dựng nước, để khẳng định với Thế Giới rằng:
Đạo Phật vào Việt Nam trước thế kỷ thứ 2 (sớm hơn Trung Quốc), dân
tộc ta từ thời các vua Hùng đã sớm biết tu Thiền, giác ngộ đạo
Phật. Việt xây dựng lại chiếc nôi của đạo Phật tại Tây Thiên
còn là để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng lành mạnh cho nhân dân và
Phật tử hành hương về đất tổ trong thiên niên kỷ mới này.
-
Về mặt kiến trúc, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên sẽ
mang dấu ấn của thời đại chúng ta, mang dấu ấn của ngôi chùa
Việt Nam ở thiên niên kỷ mới này, chứ không phải là ngôi chùa ở
thế kỷ 16 hay 17, để phản ánh trình độ văn hoá kiến trúc đương đại
cho các thế hệ mai sau.
-
Về mặt cảnh quan, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên sẽ
là một điểm thăm quan du lịch mới cho nhân dân và Phật tử cả nước
về du lịch văn hoá tâm linh, hành hương hay dã ngoại. Là nơi lưu
giữ những cổ vật của Phật giáo tại Tây Thiên, để giới thiệu về sự
phát triển của Phật giáo Việt Nam từ thời vua Hùng dựng nước cho
đến ngày nay, qua đó giáo dục lòng yêu nước và niềm tự hào của dân
tộc.”
-
Như vậy, so với các nước Trung Hoa, Nhật Bản, Triều
Tiên…, Phật giáo được truyền vào Việt Nam rất sớm. Tuy nhiên cho
đến ngày nay, việc xác định nguồn gốc đầu tiên khai sinh Phật giáo
Việt Nam vẫn còn là một nghi vấn chưa có sử liệu nào chính thức
ghi lại một cách cụ thể. Chúng ta đều biết Phật giáo đã đồng hành
cùng dân tộc trong suốt bề dày lịch sử, từ thời dựng nước đến nay.
Việc xây dựng Thiền Viện Trúc Lâm Tây Thiên, một công trình Phật
giáo to đẹp và khang trang, tại nơi đất tổ là mối lương duyên
của trời đất, giúp người dân Việt Nam trở lại với nguồn cội để
hiểu được các giá trị đích thực của lịch sử. Việt Nam đúng là nơi
Giao Chỉ, phải hiểu Giao Chỉ theo ý nghĩa là nơi giao lưu hai nền
văn hoá Ấn Độ và Trung Hoa, chứ không phải theo cách giải thích
Giao Chỉ là hai ngón chân to quẹo lại với nhau như một thứ tật
nguyền. Đã đến lúc chúng ta cần phải làm rõ, nêu bật bản chất cao
quý của người Việt Nam, từ thời cổ đã là một dân tộc cởi mở, như
ngày nay chúng ta nói: Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các
nước trên Thế Giới.
-
Đã có nhiều ý kiến khác nhau về kiến trúc của Thiền
viện Trúc Lâm Tây Thiên. Thiết nghĩ việc đưa ra những quan điểm
thậm chí tranh cãi là rất cần thiết, bởi lẽ chỉ có thực tiễn mới
kiểm nghiệm được chân lý, chỉ qua thời gian mới có thể khẳng định
được giá trị của một công trình kiến trúc. Có rất nhiều công trình
kiến trúc bị người đương thời coi là không phù hợp nhưng qua thời
gian nó đã thực sự trở thành những di sản văn hoá vật chất của các
thế hệ kế sau. Người nghệ sĩ sáng tạo ra nghệ thuật là để trường
tồn cùng với thời gian, một công trình kiến trúc sẽ sống mãi khi
nó phản ánh đúng các giá trị văn hoá, lịch sử.
-
Trên tạp chí Kiến trúc (của hội kiến trúc sư Việt Nam)
số 11, năm 2005 có đăng một bài viết của tác giả Trần Thị Thu Hà
nhan đề: vài suy nghĩ về Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên. Tác
giả có viết: “Hình ảnh ăn sâu vào tiềm thức của người dân Việt,
nhất là nông dân miền Bắc là ngôi chùa “hoà” vào thiên nhiên. Cây
cỏ không làm nhoè đi kiến trúc, mà làm cho cảnh quan kiến trúc,
trời đất hoà vào trong một thể thống nhất… Với những gì được biết
trước đây về ngôi chùa Việt truyền thống và vẻ đẹp khó cưỡng lại
được của Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên hiện tại, phải rất lâu tôi
mới định tâm để hiểu được vì sao một số nhà nghiên cứu văn hoá dân
gian và một bộ phận nông dân bản địa cho rằng Thiền viện Trúc Lâm
Tây Thiên xa lạ với chốn tu hành. Nhìn từ chân núi lên, Thiền viện
Trúc Lâm Tây Thiên đồ sộ, án hơn là ẩn mình trong thiên nhiên, là
một công trình kiến trúc mới, kết cấu chắc khoẻ, như muốn vươn
trội lên thiên nhiên, ẩn thức tâm linh trong chùa Việt quen thuộc
không còn ở đây, công trình đã không xuôi theo dòng chảy tâm linh
quen thuộc… Việc điểm xuyết những ngôi chùa mới như Thiền viện
Trúc Lâm Tây Thiên càng làm tăng thêm sự tín tâm ngày càng nhiều
của kẻ hành hương. Song không vì thế mà nhân rộng mô hình này, dẫu
không dễ dàng, song rất nên thận trọng.”
-
Đây chỉ là một ý kiến, chưa phải là một công trình
nghiên cứu sâu sắc, nhưng nó đã gợi ra những vấn đề cần phải làm
sáng tỏ: Thứ nhất Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên có kế thừa bản
sắc văn hoá truyền thống của kiến trúc Phật giáo Việt Nam qua các
thời đại hay không, thứ hai công trình có xứng đáng với tầm vóc là
nơi tôn vinh các giá trị trong sáng của Phật giáo không, cuối cùng
công trình có phản ánh trung thực trình độ văn minh của xã hội
hiện tại hay không? Cần phải có các công trình nghiên cứu thật
sâu sắc để giải đáp các câu hỏi trên, không chỉ giải đáp cho thế
hệ hôm nay mà còn giải đáp cho các thế hệ mai sau. Đã có nhiều
nghiên cứu như vậy, trong đó, đáng chú ý nhất phải kể đến nghiên
cứu của những người đã xây dựng nên công trình này, các Thiền sư
Trúc Lâm, họ đã góp phần đưa ra những lý giải sâu sắc về một ngôi
chùa của thế kỷ 21, ngôi chùa đó không phải là sự lặp lại hình
thức quen thuộc của các ngôi chùa thời trước, mà là một công trình
tôn giáo tiêu biểu của thế hệ hôm nay nhằm hướng về các giá trị
trong sáng, vượt trước khoa học, của đạo Phật. Họ không chỉ mang
tâm nguyện làm sống lại tinh thần Thiền phái Trúc Lâm của dân tộc,
khôi phục lại chốn Tổ điêu tàn đã bị lãng quên, mà còn giúp nhân
dân tránh khỏi sự u mê tín ngưỡng, thần thánh hoá đức Phật. Nếu
hiểu được Phật ở ngay trong tâm ta, tin tâm mình là Phật, Phật
Pháp tuỳ duyên mà sinh ra, tuỳ duyên mà mất đi chứ không phải do
chủ ý của con người. Đức Phật không phải là đấng quyền năng, không
ban phúc giáng hoạ cho ai. Đức Phật muốn cứu khổ cho nhân loại,
cứu độ muôn loài, Ngài chỉ cho con người con đường tu hành đi đến
giác ngộ giải thoát, khi có tuệ giác ngộ rồi cần phải có hạnh
nguyện lớn để vượt qua mọi thử thách gian lao, chiến thắng chính
bản thân mình, cứu độ cho chúng sinh. Đạo Phật nói: “chiến
thắng vạn binh không bằng chiến thắng chính mình, chiến thắng
chính mình là một chiến công oanh liệt nhất”. Vì vậy việc đi
chùa để cầu xin Phật, cầu xin đấng quyền năng ở ngoài tâm mình,
trong khi không biết tự soi xét vào chính bản tâm mình là việc làm
trái với đạo Phật, là ngoại đạo, Phật dạy: “ngoài tâm mà cầu Phật
là ngoại đạo”. Ngôi chùa mà tạo ra cảm giác thần bí, linh thiêng
thì dễ hướng người dân đến việc mê tín, lãng quên mất bản tâm của
mình, không nghe theo lời dạy của đạo Phật mà chỉ biết trông mong
vào những sức mạnh siêu nhiên thần bí, đấy là sự trở lại của tín
ngưỡng thần quyền thời trung cổ, hoàn toàn đi ngược lại với khoa
học. Nhà khoa học vật lý vĩ đại Albert Einstein đã từng nói: “Phật
giáo không cần phải xét duyệt lại nhằm cập nhật hoá với những khám
phá khoa học mới đây, Phật giáo không cần phải bỏ quan điểm của
mình để theo khoa học, vì Phật giáo không những đã bao gồm cả khoa
học, mà còn vượt trước cả khoa học”. Ngôi chùa phải là nơi ta
tự soi vào chính bản thân mình, vừa rộng lớn lại vừa gần gũi với
con người, hài hòa với thiên nhiên, không gian bên trong phải rộng
rãi, cao ráo và thoáng mát để thiên nhiên có thể tràn ngập vào
trong nhà, người tu Thiền khi ngồi tụng kinh, hành Thiền hay nghe
giảng Pháp đều thấy dễ chịu và không bị phân tâm. Vậy những ngôi
chùa mà hình ảnh đã ăn sâu vào tâm thức của người Việt, thậm chí
quen thuộc đến nỗi người ta quên đi cả ý nghĩa tư tưởng chứa đựng
trong đó, có thực sự là nơi phù hợp với chốn tu hành và là nơi con
người tìm về với bản tâm “Thiện” trong mình. Chỉ khi nào chúng ta
gạt bỏ việc mê tín và tín ngưỡng thần quyền, một lòng hướng Phật
thì mới có thể đưa ra câu trả lời cho riêng mình.
-
Thiền sư Thích Kiến Nguyệt, người đã thay mặt Thiền sư
Viện trưởng Thích Thanh Từ chủ chì thiết kế và thi công xây dựng
Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, qua những nghiên cứu của mình đã
góp phần giúp chúng ta hiểu rõ thêm về kiến trúc ngôi chùa Việt
Nam trong thiên niên kỷ mới. Ông nói: “nếu như một di tích ở thời
xa xưa nay là phế tích, chỉ còn nền chùa, hay một vài tấm vách
đứng trơ vơ cùng cây cỏ hoang vu, thì chúng ta nên xây dựng lại
như thế nào? Nên mang dấu ấn kiến trúc của ngôi chùa cổ ở thế kỷ
16 – 17 hay mang dấu ấn kiến trúc của thời đại chúng ta hôm nay?
Theo chúng tôi, ngôi chùa là nơi sinh hoạt tín ngưỡng của Phật
giáo, trước hết nó phải thể hiện được tinh thần giáo lý của đạo
Phật, sau đó đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tín ngưỡng của tín đồ
ở thời đại đó. Về kiến trúc nó phải mang bản sắc văn hoá dân tộc,
có tính kế thừa và phát huy theo tiến trình phát triển xã hội ở
từng thời điểm.” Vậy thì thế nào mới là một ngôi chùa mang bản sắc
văn hoá dân tộc, mang bản sắc kiến trúc mỹ thuật truyền thống, ông
nói tiếp: “thời Nguyễn khi trùng tu tôn tạo lại những ngôi chùa cổ
thời Lý Trần, họ không xây dựng theo kiểu kiến trúc Lý Trần mà xây
dựng theo kiến trúc thời nhà Nguyễn, và có phải ngôi chùa thời Lê
Nguyễn mới là bản sắc văn hoá dân tộc, có chắc gì kiến trúc đó
không chịu ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa? Bây giờ chúng ta xây
dựng mới trên nền di tích có nên xây theo kiểu kiến trúc thời Lê
Nguyễn hay xây theo kiến trúc ngôi chùa Việt Nam ở thế kỷ 21
này?... Nhiều chùa hiện nay gắn hoa văn trang trí thường hay bắt
trước chùa khác mà không tìm hiểu ý nghĩa có đúng theo giáo lý nhà
Phật không. Có những hoa văn đẹp mang ý nghĩa của Phật giáo sao
chúng ta không dùng như: bánh xe Pháp, đặt ở nơi thờ Phật, vân mây
tượng trưng cho sự vô thường, không sinh không diệt của các Pháp,
hoa sen và lá bồ đề biểu trưng cho sự giác ngộ, giải thoát…” Như
vậy, bản sắc văn hoá của dân tộc biểu hiện trong kiến trúc các
ngôi chùa cổ ở Việt Nam không phải hoàn toàn là những thứ ta nhìn
thấy, không phải tường mái hay cửa mà là không gian tồn chứa trong
nó, không gian dành cho sự sống trong đó (không gian của sự vĩnh
hằng, siêu thoát). Ông phân tích: “những ngôi chùa cổ hiện nay chỉ
thích hợp với Phật giáo ở thời kỳ thần học. Ngôi chùa chia làm
nhiều gian, nhiều cột, nhiều bàn thờ, nhiều cốt tượng, mái thấp,
tối om om, khói nhang nghi ngút thích hợp với chốn thần quyền linh
thiêng. Trong khung cảnh “linh thiêng thần bí” đó người Phật tử
đến chùa dễ quên mất bản tâm mình, thường hướng ngoại, cúng vái
cầu xin Đức Phật, Bồ Tát, Chư Thần. Những ngôi chùa như vậy là nơi
nuôi dưỡng “dung túng” cho việc mê tín (sự u mê tín ngưỡng), trái
với giáo lý của nhà Phật, trái với khoa học. Có vị sư tổ đã dạy:
thờ cốt tượng không bằng thờ kinh sách, thờ kinh sách không bằng
thờ thầy dạy đạo, thờ thầy dạy đạo không bằng thờ chính bản tâm
mình. Với mỗi ngôi chùa, trong Chính điện thờ một tượng Phật, hai
bên thờ hai vị Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi và Bồ Tát Phổ Hiển là đủ.”
-
Lịch sử Việt Nam đã chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi văn hoá
Trung Hoa, từ hệ tư tưởng xã hội đến nghệ thuật truyền thống. Đã
có thời gian ở Việt Nam Phật giáo trở thành hệ tư tưởng thống trị
(trở thành Quốc đạo), nhưng sau do trào lưu du nhập, đạo Lão và
đạo Khổng (Lão giáo và Nho giáo) dần chiếm vị trí cao hơn, thu hẹp
dần ảnh hưởng của đạo Phật, trong một thời gian dài của lịch sử
cho đến tận ngày nay, các chùa chiền, đình đền, miếu mạo là một
biểu hiện rõ nét nhất của sự du nhập đó, một sự hoà hợp của ba hệ
tư tưởng lớn: Phật giáo, Lão giáo và Nho giáo (tam hợp). Chính
điều này đã dẫn đến việc “bắt trước” ở trên, sự pha trộn nếu không
biết chọn lọc sẽ dẫn đến một mớ hỗn độn. Ngày nay nếu không tinh ý
và có hiểu biết nhất định về lịch sử thì chúng ta khó có thể phân
biệt được giữa chùa, đình và đền. Ở đâu ta cũng thấy lặp lại các
hoa văn trang trí, vào bên trong thì luôn thấy có nhiều bàn thờ và
nhiều cốt tượng, khói hương nghi ngút, khung cảnh thần bí.
-
Tất cả những thứ ta nhìn thấy đó không phải là bản sắc
văn hoá của dân tộc, bản sắc văn hoá là những giá trị tồn tại
trong tiềm thức của con người, được lưu truyền và chảy chung cùng
dòng chảy lịch sử. Văn hoá là những giá trị còn đứng vững trước
những thử thách khắc nhiệt của thời gian, đó còn là một nền tảng
cho sự phát triển xã hội trong tương lai. Ta không thể cảm nhận
được văn hoá qua các giác quan thông thường, bởi lẽ văn hoá đã ẩn
sâu trong từng mạch máu, từng tế bào của con người, giống như hòn
đá nằm dưới suối, khi nước chảy qua chỉ để lại các bọt sủi. Xã hội
vẫn phát triển và con người tiếp tục sáng tạo ra các giá trị văn
hoá vật chất và tinh thần, đối với những công trình kiến trúc có
hình thức mới mẻ, chúng ta không nên có thái độ phê phán, phủ
nhận, bởi vì rất có thể, đó chính là sự thăng hoa của các giá trị
văn hoá ẩn sâu trong tiềm thức, là sự sáng tạo nghệ thuật phục vụ
con người và sẽ trở thành di sản cho các thế hệ mai sau . Dân tộc
Việt Nam đã đứng vững trước những thử thách khắc nhiệt nhất của
lịch sử là do biết giữ gìn bản sắc văn hoá, biết kế thừa và phát
huy, biết tiếp thu các tinh hoa văn hoá của nhân loại. Bản sắc
“riêng” của chúng ta chính là sự hoà hợp của các dòng văn hoá lớn
trong tâm hồn người Việt. Giao Chỉ là nơi giao lưu của các nền văn
minh, đây là hàm ý sâu xa mà tổ tiên đã nhắc nhở con cháu.
-
Ngày nay, khi quan sát các ngôi chùa ở Việt Nam ta
thấy phần lớn giống với kiến trúc chùa chiền bên Trung Quốc, có
chăng chỉ là sự khác nhau về kích thước của các kết cấu, chúng ta
sao chép lại sao cho phù hợp với kích thước của con người và cảnh
quan thiên nhiên Việt Nam, chứ không có sự sáng tạo nào đáng kể.
Các ngôi chùa ở miền Bắc đa phần là thấp nhỏ, kích thước trải dài
theo chiền ngang, ẩn mình vào thiên nhiên, còn các ngôi chùa trong
miền Nam thì sử dụng vật liệu xây dựng mới, kết cấu chắc khoẻ,
vươn mình ra khỏi thiên nhiên. Những tiến bộ của khoa học kỹ thuật
đã ảnh hưởng đến việc xây dựng các ngôi chùa sau này, tạo ra những
hình thức mới mẻ, mang lại cho con người những không gian sinh
hoạt tâm linh phong phú hơn. Không thể nói dòng chảy tâm linh của
người Việt đã thay đổi, mà phải hiểu cuộc sống tâm linh của người
xưa đã hoà cùng thế giới quan khoa học của thời nay. Đạo Phật
không gì khác chính là thế giới tự nhiên của ý thức con người, gắn
bó chặt chẽ với thế giới tự nhiên lớn, đó là một thiên nhiên của
con người bên trong thiên nhiên lớn, là thế giới của nội tâm, của
trí tuệ được giác ngộ giải thoát. Xã hội loài người sinh ra từ tự
nhiên và quay trở lại quyết định sự tồn tại của tự nhiên. Những
sản phẩm do con người tạo ra có thể thân thiện hoặc không thân
thiện với tự nhiên, nhưng trong sâu thẳm ý thức con người vẫn tồn
tại một thế giới tự nhiên được sinh ra từ tự nhiên lớn, bản tâm
con người luôn hướng về thiên nhiên, nơi cội nguồn của cái Thiện.
Kiến trúc sư Frank Lloyd Wright, một trong những gương mặt sáng
giá nhất của kiến trúc hiện đại thế giới, bậc thầy của kiến trúc
hiện đại thế kỷ 20, đã nói: “kinh thánh của tôi là thiên nhiên”.
-
Ngôi chùa là nơi sinh hoạt tín ngưỡng Phật giáo vì
vậy phải rộng thoáng như một hội trường. Không thể nói rằng kiến
trúc ngôi chùa Việt Nam trong thế kỷ 21, mang đậm bản sắc văn hoá
dân tộc, phải là kiến trúc phong cảnh, giống như hình ảnh quen
thuộc của các ngôi chùa cổ ở Việt Nam, ngôi chùa đó có thể là một
hình thức hoàn toàn mới mẻ, sử dụng vật liệu mới, kết cấu chắc
khoẻ vươn lên cao và ra xa, đó là sản phẩm của con người không thể
lẫn với thiên nhiên nhưng hài hòa với thiên nhiên. Thiền viện Trúc
Lâm Tây Thiên là một quần thể kiến trúc gồm nhiều công trình lớn,
các công trình chính như cổng tam quan, lầu chuông, lầu trống,
chánh điện, nhà tổ…, và các công trình phục vụ khách thăm quan như
nhà khách, nhà trưng bầy… Ngoài ra còn quy hoạch xây dựng khu nội
viện gồm: tăng đường (nơi chư tăng ở), thiền đường (nơi toạ
thiền), trai đường và các thất chuyên tu. Đồng thời còn có thư
viện xây hình bát giác trên đồi, đỉnh đồi của thư viện là một
tượng Phật cao 35m. Toàn bộ diện tích của Thiền Viện là 4,5ha,
rừng ngoại vi rộng 50ha, quy mô hoành tráng tương xứng với ý nghĩa
lịch sử của nó.
-
-
Có lẽ là duyên trời hội ngộ, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên có sự
đóng góp của các làng nghề truyền thống nổi tiếng Việt Nam. Các
chi tiết trang trí, tạc tượng, hoành phi, câu đối, cửa võng, phù
điêu, sân vườn, cây cảnh đều mang dấu ấn của nền mỹ thuật Việt Nam
đương đại. Các tượng Phật, Bồ Tát, và Tổ của Thiền phái Trúc Lâm
đều được làm bằng đá sa thạch, do làng nghề đá Non Nước Đà Nẵng
thực hiện, làng nghề đá Ninh Bình thực hiện các câu đối ở cổng Tam
quan và đỉnh hương đặt trước Chính điện bằng đá Thanh Hoá. Về mộc,
làng nghề Hà Tây nổi tiến về đục chạm hoành phi câu đối, cửa võng,
tủ thờ nên được chọn để đóng bàn thờ Phật, bàn thờ Bồ Tát và hoành
phi, cửa võng, hoa văn trên các cánh cửa, câu đối trong Chính
điện. Làng nghề Đồng Kỵ Bắc Ninh nổi tiếng về nghề gỗ được giao
cho đóng bàn thờ và bức hoành phi trong nhà thờ Tổ. Về thợ hồ, thì
sử dụng thợ ở tại địa phương, một số thợ ở Hà Nội, Nam Định, Bắc
Ninh, tham gia làm các mái đao, lợp ngói, trang trí hoa văn. Phần
phù điêu do nhà điêu khắc Lương Xuân Thanh ở đê Yên Phụ Hà Nội
thực hiện bức lịch sử Đức Phật, còn lại là do nghệ nhân Trịnh
Thịch ở Phủ Lý thực hiện. Lò đúc Huế từ xưa đến nay nổi tiếng về
nghề đúc chuông được chọn để đúc chuông Gia trì đường kính 9 tay
và đúc đại hồng chung nặng 2 tấn, còn nghệ nhân từ Nha Trang thì
làm mỏ chùa đường kính 10 tay. Về trống, nhờ đủ duyên nên mua được
khúc gỗ mít rừng ở Gia Lai có đường kính 1,5m để làm trống có tang
liền, sau đó nhờ các nghệ nhân ở Long Khánh chuyên làm trống cho
Thiền viện Trúc Lâm thực hiện.
-
Thiết nghĩ, chúng ta nên có nhiều cuộc tranh luận hơn
nữa, góp phần làm sáng tỏ giá trị văn hoá lịch sử của Thiền viện
Trúc Lâm Tây Thiên trong thời đại ngày nay, một thời đại mà các sự
kiện diễn ra quá nhanh chóng, thật giả khó lường. Bên cạnh những
thành tựu đáng mừng là những nỗi lo âu, không phải chỉ với những
nghịch lý xuất hiện ngày càng nhiều trong mối quan hệ giữa người
với người, mà ngay cả trong mối quan hệ giữa người với tự nhiên,
gây ra những thảm hoạ ô nhiễm môi trường, suy thoái tài nguyên
thiên nhiên, huỷ diệt giống loài… Con người đang làm cho Trái Đất
“nóng lên”, và đến một lúc nào đấy, sự nổi giận của Trái Đất sẽ
biến thành dòng nham thạch hung dữ, cuốn băng đi tất cả, khi đó
con người buộc phải “tĩnh tâm” nhìn lại chính mình, lòng hướng về
cõi Phật. Tôi
đã nói ra và linh hồn tôi được cứu rỗi.
-
KTS. Nguyễn Tiến Hiệp
-
Trung tâm Quy hoạch - Kiến trúc
-
Công ty cổ phần tư vấn công nghệ thiết bị và kiểm định xây dựng
(Coninco)
-
Số 4 Tôn Thất Tùng – Hà Nội. ĐT: 0904138178
-
Trình bày: Phổ Trí
-
Cập nhật: 5-2007
--o0o--
|
|