|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
- (THIÊN PHÚC TỰ)
-
- Nếu chùa Láng
gắn liền với giai đoạn đầu của cuộc đời ngài Từ Đạo Hạnh thì
chùa Thầy lại chứng kiến quãng đời sau cùng cho đến ngày thoát
xác của vị sư thế hệ thứ 12 thuộc dòng Thiền Ti-ni-đa-lưu-chi
này.
- Chùa Thầy dựa
vào sườn Tây Nam một ngọn núi đá vôi có nhiều hang động là núi
Thầy tức núi Sài Sơn thuộc làng Hoàng Xá, xã Phượng Cách, huyện
Quốc Oai, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội khoảng 30km. Trong một bài ký
ghi trên vách núi, Chúa Trịnh Cãn đ?phác họa cảnh chùa Thầy "như
viên ngọc nổi lên giữa đám sỏi đá, rạng vẻ xuân tươi khắp cả bốn
m?. Động tr? hệt như cõi thanh hư, bên vách còn in mây ráng. Ao
rồng thông sang bến siêu độ, cầu tiên Nhật Nguyệt đôi vầng. Hình
tựa bình phong, sông như dải lụa".
- Ban đầu chữ
Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, nơi Thiền sư Từ Đạo
Hạnh tu trì. Vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại gồm hai cụm
chùa: chùa Cao (Đỉnh Sơn Tự) trên núi và chùa Dưới (tức chùa Cả,
tên chữ là Thiên Phúc Tự). Đầu thế kỷ XVII, Dĩnh Quận Công c?g
hoàng tộc chăm lo việc trùng tu , xây dựng điện Phật, điện
Thánh; sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Theo thuyết phong
thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng. Phía trước
chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng ch? và bên phải dựa vào
núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa
Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay Long
Trì (ao Rồng). Sân có hàm rồng. Thủy đình mọc lên giữa Long
Chiểu, nơi thường diễn trò rối nước đặc sắc, chính là viên ngọc
ở đầu rồng. Hai giếng là hai mắt rồng. Hai cầu cổ có mái ngói do
Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan xây dựng năm 1602 là hai răng nanh
của miệng rồng: Cầu Nhật Tiên ở bên trái trông vào đền Tam Phủ
xây trên một đảo nhỏ giữa ao. Cầu Nguyệt Tiên ở bên phải dẫn vào
đường lên chùa Cao trên núi.
- Đối diện với
thủy đình là chùa Cả được xây dựng theo kiểu chữ "Tam" gồm 3 nếp
nhà dựng trên nền cao bó đá hộc xanh. Nếp ngoài là nhà tiền tế,
nếp giữa thờ Phật, nếp trong cùng thờ Thiền sư Từ Đạo Hạnh.
Trong chùa có đặt 3 pho tượng diễn tả 3 "kiếp" của Thiền sư Từ
Đạo Hạnh: Tãng, Phật và Đế Vương. B? trái là tượng toàn thân
Thiền sư bằng gỗ bạch đàn lắp máy tự động có thể đứng l? ngồi
xuống được, nhắc nhở thời kỳ Ngài đi tu ở Hương Hải am đ?làm
thuốc trị bệnh cứu người và dày công sáng tạo môn nghệ thuật múa
rối nước cổ truyền để cho dân giải trí. Chính giữa là tượng
Thiền sư khi đã thành Phật, đội mũ hoa sen, tay chắp trước ngực,
khoác áo cà sa vóc vàng. Bên phải là tượng Thiền sư sau khi đã
hóa, đầu thai làm con trai của Sùng Hiền Hầu và trở thành nhà
vua Lý Thần Tông (1) . Tượng Lý Thần Tông đầu đội mũ
bình thiên, mình khoác long bào, ngồi trên ngai vàng.
- Trong chùa
còn có tượng ông Từ Vinh và bà Tăng Thị Loan là cha mẹ Từ Đạo
Hạnh và hai bạn đồng đạo thân thiết của Ngài là Thiền sư Minh
Không và Thiền sư Giác Hải. Hai bên chùa là hành lang dài thờ
mười tám vị La Hán.
- Đường qua cầu
Nguyệt Ti? dẫn đến những bậc đá đi l? núi, nơi có chùa Cao vốn
là Hiển Thụy am, còn có tên là Đỉnh Sơn Tự. Trên vách chùa còn
khắc những bài thơ tức cảnh của Nguyễn Trực và Nguyễn Thượng
Hiền. Tương truyền rằng động Phật Tích ở sau chùa là nơi Ngài Từ
Đạo Hạnh thoát xác, nên còn gọi là hang Thánh Hóa.
- Phía trên
chùa Cao có một mặt bằng gọi là chợ Trời với nhiều tảng đá hình
bàn ghế, kệ bày hàng, ly rượu … trong đó có một phiến đá nhẵn lì
được gọi là bàn cờ tiên. Có lẽ nơi đây ngày xưa các bậc trích
tiên vẫn ngồi chơi cờ, uống rượu, thưởng trăng và ngâm thơ giữa
thiên nhiên khoáng đạt như hình ảnh trong bài thơ của Nguyễn
Khuyến:
- Hóa công xây
đắp biết bao đời
- Nọ cảnh Sài
Sơn có chợ Trời
- Buổi sớm gió
tuôn, trưa nắng gắt
- Ban chiều mây
họp tối trãng chơi
- Bày hàng hoa
quả tư mùa sẵn
- Giãi thủ
giang sơn bốn mặt ngồi
- Bán lợi mua
danh nào những kẻ
- Chẳng lên mặc
cả một đôi lời.
- Theo lối mòn
ven núi, leo lên vài chục bậc đá nữa sẽ đến hang Cắc Cớ, nơi
tình tự của trai gái ngày xưa trong những ngày hội hè, như ca
dao đã ghi lại:
- Gái chưa
chồng nhớ hang Cắc Cớ,
- Trai chưa vợ
nhớ hội chùa Thầy.
- Từ hang Cắc
Cớ, một con đường có nhiều cây đại thụ dẫn l? đền Thượng. Gần
đền Thượng có hang Bụt Mọc với nhiều tảng đá được thời gian bào
mòn trông như tượng Phật. Tiếp đó là hang Bò với lối vào âm u và
hang Gió với những ngọn gió thổi thông thốc cả hai đầu.
- Ở chân núi
Thầy, về phía Tây có chùa Bối Am còn gọi là chùa Một Mái, vì
chùa chỉ có một mái lợp bằng ngói, còn mái kia chính là vòm
hang.
- Nét độc đáo
của thắng cảnh ch? Thầy là ở sự kết hợp giữa những con đường,
những mái chùa vươn lên tầm cao, với những vẻ đẹp của hồ nước
trải rộng và những bí ẩn trong chiều sâu lòng đất. Cả ba chiều
không gian đó kết tụ lại trong một quần thể thi? nhiên đa dạng
về kiến trúc và màu sắc. Hội chùa Thầy diễn ra từ ngày mùng 5
đến ngày mùng 7 tháng ba âm lịch hàng năm, là dịp để con người
chiêm bái danh lam thắng cảnh này. Trong ngày hội, nhiều Tăng Ni
từ các nơi khác trong vùng cùng về đây dự lễ trong những bộ
cà-sa trang trọng, tay cầm gậy hoa, miệng tụng kinh trong tiếng
mõ trầm đều. Lễ cúng Phật và trai đàn - một diễn xướng có tính
chất tôn giáo - được thực hiện có sự phối hợp của các nhạc cụ
dân tộc.
- Nhưng hội
chùa Thầy không chỉ có những nghi thức tôn giáo. Ở đây còn có
trò múa rối nước mang đậm sắc thái dân gian mà ngày nay có tiếng
vang ở cả nước ngoài. Trai thanh gái lịch gần xa tìm đến hội
chùa Thầy còn để thỏa mãn tính mạo hiểm khi leo núi và khao khát
bày tỏ tình yêu trong một khung cảnh thiên nhiên rộng mở:
- Rủ nhau
lên núi Sài Sơn
- Ai làm đá
ướt đường trơn hỡi mình?
- Hỏi non,
non những làm thinh
- Phải rằng
non đ?vô tình với ai?
- Nước non
ví chẳng chiều đời
- Mắt xanh
đâu lẽ phụ người tình chung?
- Yêu nhau
ta dắt nhau cùng
- Non bao
nhiêu đá nặng lòng bấy nhiêu.
- (Á
Nam Trần Tuấn Khải)
--o0o--
|
|