|
PHẬT GIÁO VIỆT NAM
-
(PHỒ MINH TỰ)
-
-
Nhà
Trần là một triều đại làm vẻ vang cho lịch sử dân tộc Việt Nam với
ba lần đại thắng quân Nguyên xâm lược vào thế kỷ XIII. Tổ tiên nhà
Trần vốn làm nghề chài lưới trên sông Châu chảy qua đất Nam Định .
Ở hữu ngạn sông Châu đã hình thành hương Tức Mạc, nay thuộc xã Lộc
Vượng, cách thành phố Nam Định khoảng 5km về phía Bắc, là nơi sinh
của người anh hùng Trần Quốc Tuấn và cũng là đất tổ của nhà Trần.
-
Khi
vừa lên ngôi, Trần Thái Tông đã biến quê hương Tức Mạc của mình
thành một công trường lớn. Từ năm 1239 thợ thuyền được tuyển chọn
cùng với phu lính làm việc ròng rã mấy chục năm liền để xây dựng
những lâu đài, cung điện, đền miếu, dinh thự, chùa chiền trên mảnh
đất này. Mùa xuân năm 1262 Trần Thánh Tông về hành cung Tức Mạc
ban yến lớn, hậu thưởng các hương lão và đổi hương Tức Mạc thành
phủ Thiên Trường. Trong phủ Thiên Trường có hai cung điện được xây
cất nguy nga lộng lẫy là cung Trùng Quang và cung Trùng Hoa để vua
nối ngôi ở khi về chầu. Ngày nay hai cung điện đó đã bị chiến
tranh tàn phá nhưng các địa danh ở đây đều gắn liền với những sự
tích xa xưa: cảnh nội cung trước kia là sân trong phủ, cánh đồng
cũ xưa là nơi giam giữ tù nhân dùng vào việc xây cất cung điện.
Các xóm làng ở quanh phủ như Liễu Nhai xưa là vườn liễu; làng Lựu
Phố xưa là vườn lựu; trường giảng văn, bình thơ; làng Phường Bông
xưa là nơi diễn ca múa nhạc của hoàng tộc.
-
Nằm
ở phía Tây cung Trùng Quang, chùa Phổ Minh vốn được xây dựng từ
thời Lý. Đến thời Trần, chùa đã được trùng tu và mở rộng cho tương
xứng với vị trí tôn quý của phủ Thiên Trường. Kiến trúc chính của
chùa bao gồm chín gian tiền đường, ba gian thiêu hương và tòa
thượng điện, xếp theo hình chữ "Công". Gian giữa nhà tiền đường có
bộ cửa gồm 4 cánh bằng gỗ lim, chạm rồng, sóng nước, hoa lá và hoa
văn hình học. Hai cánh ở giữa chạm đôi rồng lớn chầu mặt trời là
tác phẩm điêu khắc gỗ đời Trần còn lưu lại cho đến ngày nay.
-
Tam
quan chùa có ba gian bằng gỗ, tường xây gạch, mái lợp ngói cổ,
trên cửa có bốn chữ "Đại hùng bảo điện", dưới thềm đá ba cấp làm
thành bậc ở gian giữa, hai bên có đôi sấu đá chầu. Một con đường
nhỏ chạy thẳng giữa một ao tròn, dẫn đến bức tường "bình phong"
rồi đến sân trước chùa và hai nhà bia. Bia đá bên phải đề dòng chữ
"Phổ Minh Thiền Tự" khắc năm Mậu Thân 1668. Bia đá bên trái có
dòng chữ "Phổ Minh Bảo Tháp Từ Bi" khắc năm Bính Thìn 1916.
-
Trong chùa ngoài hệ thống tượng Phật, Bồ-tát? được thờ ở chánh
điện, có thờ tượng Trần Nhân Tông nhập niết bàn, tượng Thiền sư
Pháp Loa, Thiền sư Huyền Quang ở hậu điện. Chuông lớn của chùa có
khắc bản văn "Phổ Minh Đỉnh Tự" đúc năm Cảnh Thịnh thứ tư (1796).
Ngoài ra, xưa kia chùa còn có một vạc lớn được xem là một trong
"Tứ đại khí" của nước ta.
-
Sau
thượng điện, cách một khoảng sân hẹp là tòa nhà mười một gian kéo
dài theo hình chữ "Nhất". Giữa là năm gian nhà tổ, bên trái là ba
gian nhà tăng, bên phải là ba gian điện thờ. Trong nhà tổ có pho
tượng Bà Chúa Mạc, người từng về tu ở chùa, tạc bằng đá trắng ngồi
trên tòa sen, dựa lưng vào bức nền có trang trí vòng ánh sáng với
ba chữ "Thường tịch quang". Hai dãy hành lang nối liền nhà tiền
đường và tòa nhà 11 gian tạo thành vòng ngoài của chữ "Quốc". Phía
sau nhà tổ là vườn tháp, có tháp Bà Chúa Mạc bằng đất nung.
-
Công
trình kiến trúc quý giá mang phong cách đời Trần còn được bảo tồn
khá nguyên vẹn cho đến ngày nay là tháp Phổ Minh. Do công trình
này mà chùa Phổ Minh còn được gọi là chùa Tháp. Tháp dựng vào
khoảng năm 1305, niên hiệu Hưng Long thứ mười ba, đời vua Trần Anh
Tông. Tháp cao khoảng 21m, gồm 14 tầng, xây trên 12 bậc gạch, càng
lên cao càng thu hẹp dần và kết thúc bằng một chỏm nhọn hình bầu
rượu có nhiều cạnh. Tầng trên đều trổ bốn cửa cuốn tò vò ra bốn
phía. Lúc đầu 13 tầng trên được xây bằng gạch trần màu đỏ sơn son,
về sau một tín chủ đã bỏ tiền trát vữa. Bệ thờ đặt trong lòng tầng
tháp thứ nhất. Trang trí trên tháp đơn giản song rất mỹ quan: các
lớp cánh sen và những hoa văn dây uốn lượn quanh cửa tháp cùng với
hình rồng uốn khúc, vờn mây khắc họa trên các viên gạch ốp mặt
ngoài trông rất ngoạn mục.
-
Nằm
giữa vùng chiêm trũng với mái chùa cổ kính, cây cổ thụ sum sê,
toàn bộ tòa tháp Phổ Minh nặng tới 700 tấn, gần 7 thế kỷ vẫn đứng
vững, góp phần tạo nên phong cảnh uy nghiêm, siêu thoát. Giác
Hoàng Điều Ngự Trần Nhân Tông đã ca ngợi thắng cảnh này như một
"tiên châu" trong những tiên châu tươi đẹp của đất nước:
-
Sư
về trong viện câu kinh vắng
-
Quán
ở bên sông bóng nguyệt treo
-
Ba
chục cung tiên cây tháp đặt
-
Trăm
ngàn cõi Phật tiếng triều reo.
-
(Thiên Trường hành cung)
-
Tương truyền rằng trong tháp Phổ Minh có tàng trữ xá lợi vua Trần
Nhân Tông. Mười bốn vua nhà Trần được thờ phụng ở đền Thiên
Trường, còn gọi là đền Trần, gần chùa Phổ Minh. Bên cạnh đền Thiên
Trường là đền Cố Trạch thờ anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo. Sự kết
hợp hài hòa giữa đạo và đời trên mảnh đất tổ của một dòng họ danh
tiếng minh chứng cho lời khẳng định của câu ca dao cổ:
-
Đất
Tức Mạc, phủ Thiên Trường
-
Từ
xưa vốn dĩ danh hương lưu truyền
-
Nhà
thờ Bùi Huy Bích (1744 -1818) đã viết bài thơ Du Phổ Minh Tự (Thăm
chùa Phổ Minh) như sau:
-
Loạn
hậu trùng tầm đáo Phổ Minh
-
Nhàn
hoa dã thảo mãn nham quynh
-
Bi
văn tước lạc hòa yên bích
-
Phật
nhãn thê lương chiếu dạ thanh
-
Pháp
giới dữ đồng thiên quảng đại
-
Thổ
nhân do thuyết địa anh linh
-
Liêu
liêu cổ đỉnh kim hà tại
-
Thức
đắc vô hình thắng hữu hình
-
Nghĩa là:
-
Sau
loạn tìm về đến Phổ Minh
-
Hoa
đồng có nội ngút trời xanh
-
Văn
bia sứt mẻ nhòe mây khói
-
Mắt
Phật âu sầu dõi ngũ canh
-
Cõi
phép cùng trời bao rộng lớn
-
Người đây vẫn nói đất linh thiêng
-
Nao
lòng đỉnh cổ rày đâu tá?
-
Mới
biết vô hình thắng hữu hình.
-
(Ngô
Đức Thô dịch)
--o0o--
|
|