PHẬT HỌC CƠ BẢN

GIẢI THÍCH CHÍNH VĂN
 
III- BIỆT THÍCH (Giải thích riêng biệt)
“Niệm Phật trọng ân phát tâm Bồ Đề”.
 
2-      Nhớ công ơn cha mẹ mà phát tâm Bồ đề
 
Rằng sao phải nhớ công ơn cha mẹ? Đau buồn cho cha mẹ, vất vả sinh ta, mười tháng mang thai, ba năm bú mớm, nhường khô bỏ ướt, nuốt đắng nhả ngọt, ta mới thành người, những mong nối dõi tông đường cung thừa tế tự.
Đay là nhân duyên phát tâm Bồ đề thứ hai, tức là nhớ ơn cha mẹ mà phát tâm Bồ đề. Trung Quốc xưa nay có câu nói: “Bách thiện hiếu vi tiên (trăm điều thiện thì đạo hiếu đứng đầu). Đạo hiếu, trong van hóa cổ truyền Trung Hoa, là một đức hạnh rất được coi trọng. Nhưng mỹ đức đó lâu nay đã dần dần bị coi nhẹ. Ở Trung Quốc ngày nay, đang nhiệt liệt phục hưng văn hóa cổ truyền.
Nói đến đây, những người tin Phật lại ít nhiều hiểu Phật lí chúng ta đương nhiên không còn hoài nghi gì về việc Phật pháp coi trọng đạo hiếu. Những người không tin Phật hoặc không hiểu Phật lí có thể nảy sinh nghi hoặc: chỉ có nhà Nho mới đặc biệt đề cao đạo hiếu chứ đạo Phật đâu có nói đạo hiếu? Còn như nói bất hiếu, thì giáo chủ Thích Ca Mâu Ni có thể coi là đệ nhất bất hiếu trong trời đất, vì người đã trái lời phụ vương bỏ trốn đi xuất gia tu hành. Không chỉ người thường có hiểu lầm như vậy, ngay cả một số văn nhân học sỉ cũng hiểu lầm vì bất minh Phật lý. Họ lấy các lí luận của Nho gia: “Thân thể da tóc ta nhận từ bố mẹ, không thể hủy hoại thương tổ, đó là bước đầu của đạo hiếu”. Người xuất gia thế độ, đã cắt bỏ tóc khi thụ giới, đốt hương làm bỏng da, đấy không phải là trái với hiếu đạo của Nho gia ư? Nay tôi có thể nói với những nhân sĩ cho rằng Đạo Phật không chủ trương hiếu đạo rằng, Phật pháp không những không trái đạo hiếu, mà lại chủ trương hiếu đạo một cách chân chính, triệt để. Cổ đức nói: “Đại hiếu Thích Tôn lịch kiếp báo thân ân” (Đức Thích Ca đại hiếu, hết kiếp này đến kiếp khác báo đền ơn cha mẹ). Nói chặt chẻ ra, đạo hiếu của nhà Nho và đạo hiếu của nhà Phật khác nhau một trời một vực, làm sao nói đạo Phật không nói đạo hiếu? Đạo hiếu mà Phật pháp chủ trương là siêu việt, không thể đặt ngang hàng với các tôn giáo hay học thuyết khác.
Vậy thì nên nhớ ơn sâu cha mẹ nhơ thế nào? Đại sơ Tỉnh Am mở đầu dẫn hai câu thơ Nhi nhã trong Kinh thi: “Ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao” (đau buồn cha mẹ, vất vả sinh ta). “Ai ai” là từ để hình dung, hình dung tiếng bi thương của kẻ làm con khi nghĩ đến ơn nặng đức sâu của cha mẹ, bất giác lòng dội lên từng đợt đau buồn. Tại sao nhớ ơn cha mẹ mà bi thương? Vì có thân ta hoàn toàn là do cha mẹ, mà nỗi chua cay nhọc mệt của cha mẹ khi sinh ta không phải là điều mà ai cũng tưởng tượng hết được, cho nên nói: “Sinh ngã cù lao” (vất vả sinh ta). Chỉ cần chúng ta nghĩ kỹ một tí, hãy nhgĩ xem thân này ai sinh ra, ta sẽ thấy ngay ơn bố mẹ, không giờ phút nào quên. Sau khi ra đời rồi, cái thân này của ta lớn lên như thế nào? Nhờ ai chăm sóc nuôi nấng? Hãy nghĩ kỹ thêm một tí nữa sẽ thấy rõ ơn đức cha mẹ, Chúng ta lớn lên ít nữa, biết được nam bắc tây đông là nhờ ai dạy bảo dắt dìu? Nghĩ thêm càng thấy rõ ơn đức cha mẹ không giờ khắc nào quên. Người xưa ví ơn đức cha mẹ với trời cao đất dày quả là không sai tí nào, cho nên làm người phải biết hiếu thận với cha mẹ là người tốt hạng nhất trong đất trời, việc hiếu thuận với cha mẹ người hiếu thuận với cha mẹ là việc tốt hạng nhất trong đất trời. Từ đây có thể biết, hiếu thuận là quan trọng như thế nào.
“Thập nguyệt tam niên, hoài thai nhũ bộ” (mười tháng ba năm, mang thai bú mớm) hai câu này tách ra, ghép lại sẽ là “mườitháng mang thai, ba năm bú mớm”. Đây là nói ơn mẹ. Một cái phôi thai trong lòng mẹ, dần dần trở thành một sinh mệnh mới, phải qua thời gian mười tháng. Trong thời gian đó , sở dĩ có thể lớn dần thành sinh mệnh mới là nhờ chất nuôi dưỡng từ cơ thể mẹ cung cấp. Tình hình đó cũng như khi đã sinh ra, phải ăn uống để duy trì sinh mệnh là cũng lý lẽ đó. Cái thai trong bụng mẹ, mọi thứ ăn uống đều là từ huyết dịch của mẹ. Vô luận là máu mẹ có đủ hay thiếu thì vẫn phải chia ra một phần để nuôi con, để tránh cho cái thai thiếu dinh dưỡng mà chết trong bụng mẹ. Chính vì như vậy, một bà mẹ mang thai, bất luận trong ăn uống, họat động, đều phai hết sức cẩn thận để bảo an toàn cho cái thai. Sự khổ của một phụ nữ mang thai khó tưởng tượng.
Mười thàng mãn kỳ thai nghén, đứa con xuất hiện trên thé gian. Người làm mẹ, bắt đầu giai đoạn vất vả nhọc mệt thứ hai. Trong Phật pháp nói đến tứ sinh hữu tình: thai, nõan, thấp, hóa, có quan hệ mật thiết nhất với cơ thể mẹ, không gì thai sinh hữu tình. Mà nhân loại thai sinh là phụ thuộc vào mẹ rõ rệt nhất. Các hữu tình thai sinh khác như lợn, ngựa, bò dê, rời khỏi cơ thể mẹ không lâu là có thể sống độc lập được, không hoàn toàn dựa vao sự săn sóc của mẹ như người. Nhân loại thai sinh, không chỉ trong ba năm phải nhờ sự nuôi dưỡng bằng sữa mẹ, ngay sau khi cai sữa, vẫn chưa thể thoát li sự săn sóc, dưỡng dục của mẹ, qua từng ngày, từng tháng, từng năm, cho đến khi lớn lên thành người. Trong ba năm bú mớm, sữa mẹ nuôi con thực ra là tinh hoa của máu mẹ. Làm mẹ, đem tinh hoa huyết dịch của mình nuôi con, đứa con có đủ dinh dưỡng lớn lên béo mập đáng yêu, người mẹ nhìn thấy, trong lòng vui vô hạn.
 Trên thế giới náy không một ai làm mẹ mà không trông mong con mình lớn lên khỏe mạnh, hoạt bát, do đó mà cũng không có một người mẹ nào hà tiện đến mức ngày đông giá rét đến đâu, chỉ cần nghe tiếng khóc đói của con là người mẹ không nghĩ đến cái ráe phải chịu, lập tức cởi áo cho con bú, con ỉa đái, mẹ lập tức thay tã ướt tã bẩn bằng tã khô tã sạch, để tránh cho con nỗi khổ ướt lạnh bẩ thỉu. Sauk hi con cai sữa, phải lo cho con ăn thức ăn đặc, mẹ phải nếm trước, gặp đắng mệ nuốt, thấy ngọt mẹ nhả nhường con: “yến khổ thổ cam” (nuốt đắng, nhả ngọt). Tình yêu của mẹ, có thể nói là không một cử chỉ tế vi nào không thể hiện ra. Tóm lại, trong giai đoạn anh nhi, người mẹ không biết phải chịu bao nhiêu gian nan vất vã, gánh chịu bao nhiêu kinh hãi lo âu. Xin hãy nghĩ xem, ơn sâu đức nặng của bố mẹ, há lẽ quên được sao?
Đế đây có thể dẫn lại một đoạn văn nói về đạo hiếu “Phàm người ta lúc sơ sinh, một khắ không thể rời cha mẹ;nửa năm đầy tuổi, nhận được mặt người, trong lòng bố mẹ thì vui, người khác bế đi thì khóc; từ ba bốn tuổi đến mười bốn mười lăm tuổi, đói thì theo bố mẹ đòi ăn, rét thì theo bố mẹ đòi áo” còn bố mẹ “thấy con cười, lòng bố mẹ biết bao vui sướng; thấy con khóc, lòng bố mẹ não phiền. Mình chưa từng ăn, trước lo con đói; ốm bệnh, việc việc mong con yên lành. Chờ đến lúc lớn dậy nên thành người, vội tìm thầy dạy dỗ, không tiếc bạc tiền, dựng vợ gã chồng, tốn bao tiền của, chỉ mong con cửa nhà yên ổn, mong con lập trí thành người, Thấy con ốm đau, không nghĩ con yếu khó nuôi, tự trách nuôi con không chu đáo, ngày đêm cháy ruột cháy lòng, vội vàng chạy thuốc tìm thầy, hận không chỉ ốm thay mệt dở, nếu như con ngoài đi xa, cha mẹ lo âu thấp thỏm, giấc ngủ không yên, con đi sớm về khuya, mẹ cha tựa cửa trông ngóng. Nói tóm lại, lòng cha mẹ, suốt đời mãn kiếp lo toan tính toán, có việc gì không phải vì con? Nếu dạy được nên người, lòng cha mẹ biết bao vui sướng, nếu chẳng may dạy chẳng nên người, thì cha mẹ chết không nhắm mắt. Đáng thương thay tinh thần tâm huyết cha mẹ, hao phí cả cho con cho cái. Kịp đến khi tuổi con khôn lớn, có hay chăng bố mẹ yếu già. Ơn nặng dường kia lo báo đáp, vẫn e rằng ơn đức vạn phần báo đền không được một. Phận làm con các bạn, ai nấy hãy nghĩ xem, không kịp mà hiếu thuận hay sao”? Bài văn viết tiếp: “Người nào không rõ ơn cha mẹ, hãy xem mình nuôi dạy con mình, cũng vậy cả thôi; thấy lòng mình muốn dạy con trưởng thành thế nào thì hiểu được ý bố mẹ muốn giáo dục mình như thế. Thường nói: “Nuôi con phòng lúc già yếu, trử thóc phòng khi đói kém”. Cha mẹ chịu đủ muôn vàn cay đằng chỉ mong con hiếu thuận để trông nhờ về sau. Ta thấy người đời nay, coi cha mẹ sinh dưỡng mình, dạy dỗ mình, dựng vợ gã chồng cho mình chẳng qua chỉ vì nghĩa vụ, cho nên không biết hiếu thụan. Hãy nhìn chim, quạ còn biết, dê, cừu cũng biết quỳ bú, cầm thú còn biết báo đền, làm người không biết lẽ phải hiếu thuận hay sao? Làm người không hiếu thuận, so với cầm thú hơn gì.
Làm cha mẹ không biết trải qua bao nhiêu năm tháng khổ tâm bồi dục con mới từng bước “thành người” chờ con thành người rồi, bố mẹ lại “trông mong” con cái có thể “nối được gia phong”. Nước ta, từ xưa nền nếp nhà tốt đẹp, nối đời này qua đời khác rất được coi trọng. Vì vậy làm cha mẹ không những hy vọng con cái nối tiếp mình giữ được gia phong mà qua cố gắng, đời sau gio phong càng được phát huy rạng rỡ hơn. Nếu kẻ làm con mà bại hoại gia phong, thì cha mẹ sẽ coi đó là điều hết sức nhục nhã. Chúng ta thường nghe bố mẹ đòi hỏi con cái, làm gì thì làm, nếu trái với nền nếp nhà thì quyết không cho phép. Có thể thấy rõ, thừa kế môn phong là quan trọng như thế nào.
Làm cha mẹ, không những mong con cái nối tiếp được gia phong mà còn mong con cái “cung thừa tế tự” “cung thừa” là nói khi cha mẹ còn sống, “tế tự” là nói khi cha mẹ đã mất.
Nói “cung thừa” là nói cung đố phụng dưỡng cha mẹ, làm bố mẹ vui lòng. Như nói: “phụng dưỡng cha mẹ thế nào? Người ta giàu nghèo, sang hèn khác nhau, ai tùy sữc nấy, ai hết sức nấy, cha mẹ đói, dâng cơm, cha mẹ rét, dâng áo. Có cái ăn ngon, muốn cha mẹ cùng ăn, có cái áo đẹp, nghĩ cha mẹ cũng có mặc, có nhà ở tốat, muốn cha mẹ cùng ở, có đồ dùng tốt muốn cha mẹ cùng dùng. Đông hè sớm tối, phải thành tâm săn sóc; phàm mọi việc phải cẩn thận cung kính, luôn luôn vui vẻ, gặp lễ gặp tết, dùng lễ lạy mừng; gặp sinh nhật dùng lễ chúc mừng … phải làm cho cha mẹ vui vẻ, tức là hết lòng … cha mẹ đi, đứng, nằm, ngồi phải chăm nom dắt, đở, chỉ mong cha mẹ yên ổn, thoải mái, sống ngày nào vui ngày ấy, tức là hết lòng …” Hết lòng cung đốn phụng dưỡng, là con có hiếu.
Còn “tế tự”, tức là thờ cúng. “Tự” có nghĩa là “giống như nhà Nho có câu: “Tế thần như thần tại”, tức là khi tế thần, mặc dù không trông thấy thần như thế nào cả, nhưng phải như có thần trước mặt, khônt thể có một tí cẩu thả. Chúng ta tế tự tổ tiên, cũng nên “tế tổ như tổ tại”, thái độ phải cung kính nghiêm túc, không được qua loa tùy tiện, bất kính. Có thể thực sự làm được như vậy, thì việc tế tự không phải không có ý nghĩa của nó. Nói đến đây, tôi xin nói rõ với chư vị một câu, tức là kẻ làm con cháu, đối với tổ tiên cha mẹ hoặc tổ tiên đã qua đời, dùng cúng tế để kỷ niệm và nghĩ lại là việc tuyệt đối hợp tình hợp lý, hòm giấy, nhà giấy, ô tô giấy v. v… để cúng dường tổ tiên là hoàn toàn không hợp với Phật pháp là hoàn toàn không có một tí ý nghĩa gì, càng có thể nói là xằng bậy. Không những trong dân gian thường thấy việc này, mà ngay trong một số Phật tử, cũng không cần biết vì sao, bắt chước làm theo, thực là không thể chấp nhận được, phải xóa bỏ tục lệ hủ lậu này.
Ngoài việc “cung thừa” khi sống, “tế tự” khi mất,, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, “kẻ làm con phải chú ý điều nhiếp, thận trọng phù trì, mời thầy chạy thuốc. Khi ốm sắc chế thuốc thang, cháu cơm ăn uống đều phải tự tay mình làm lấy, không được ủy hết cho nô tì, nhất thiết không thể biếng lười trễ nải. Chỉ cần nghĩ khi ta còn nhỏ dại, nhỡ gặp ốm đau, cha mẹ không biết bao nhiêu vất vả, ngày nay lý nào ta không tận tâm? Hãy trông Hán văn đế ngày xưa, mẫu hậu ốm, nhà vua phải tợ mình nếm thuốc. Cha mẹ ốm ngộ nhỡ làm bẩn chăn đệm, kẻ làm con phải chăm chỉ giặt giũ đổi thay thế nhất thiết không ngại. Chỉ cần nghĩ khi ta còn ẵm ngửa, đái ỉa khai thối, cha mẹ vì ta giặc giũ đổi thay không biết bao nhiêu lần. Ngày nay lý nào ta ngại? Hãy trông Du Kiểm Lân ngày xưa làm quan huyện Triền Lăng, nhân bố ốm, tự mình nếm phân. Việc chạy chữa thuốc men cho cha mẹ, kẻ làm con phải tạc dạ ghi lòng”. Kinh Phật nói: “Trong tám loại ruộng phúc, ruộng phúc chữa bệnh thứ nhất”, cha mẹ ốm làm sao có thể không chăm sóc.
 Nay chúng ta xuất gia, lạm xưng Thích tử, thẹn nhận danh hiệu Sa Môn. Bùi ngọt không dâng, tế tự không có. Khi cha mẹ sống không phụng dưỡng,khi cha mẹ chết không thể dẫn linh. Đối với thế tục đã là tổn thất cho cha mẹ, mà cũng không được ích gì để giúp cha mẹ họ hàng giải thoát tử sinh, siêu thăng Tịnh Độ. Cả hai đằng đều sai, tội nặng khó trốn.
Đoạn văn này là nhằm nói về tăng chúng đã xuất gia. Nhà Nho nói: “sinh, sự chi dĩ lễ; tử, tang chi dĩ lễ, tế chi dĩ lễ” (nghĩa là: khi cha mẹ còn sống thì lấy lễ mà phụng dưỡng; khi cha mẹ chết thì lấy lễ mà chôn cất, lấy lễ mà tế tự). Một người con hiếu tiêu chuẩn, phải làm đúng như vậy. Nay chúng ta đã xuất gia “lạm xưng Thích tử”. Thích tử là tên gọi chung những người xuất gia tu hành, tức là phàm những Phật tử dưới bệ Phật Thích Ca Mâu Ni đều có thể gọi là Thích tử. Kinh A Hàm kinh nói: “Tứ hà nhập hải, đồng nhất tâm vị; tứ tính xuất gia, đồng xơng Thích tử” (bốn sông về biển, cùng một vị mặn; bốn họ xuất gia, cùng xưng Thích tử). Những hành giả xuất gia theo Phật, bất luận vốn dòng họ gì, khi xuất gia nhập vào tăng đoàn thì đều mất dòng họ mà lấy họ thích. Người xuất gia làm đệ tử Thích Ca Mâu Ni, nếu như tu trì đúng phép đúng luật, giới đức trang nghiêm, hành vi đoan chính, thì không hổ thẹn là một Thích tử biết an phận thủ thường. Nếu trong hàng ngủ Thích tử mà không tu hành theo phép, chỉ mang cái hư danh người xuất gia tu hành, thì đành phải nói là lạm xưng Thích tử, không đủ tư cách là một Thích tử chân chính. Vì làm một Thích tử chân chính thì nhất định phải tu hành đúng phép.
Lại nữa, hành giả xuất gia tu đạo, gọi là Thích tử, còn gọi là Sa môn. Được gọi là Sa môn, nói nghiêm cách thì không phải là dễ dàng, như nói “chăm tu giới định, tuệ,dập tắt tham, sân, si”, phải làm như một Sa môn chân chính nên làm. Như Kinh Tứ thập nhị chương nói: “ Thức tâm đạt bản nguyện, cố hiệu ví Sa môn”. Thế thì không phai ai cũng dễ dàng làm Sa môn được. Không làm được như vậy, thì là “thiểm hiệu Sa môn” (hổ thẹn mang cái danh hiệu Sa môn), không phải là Sa môn chân chính. Như có những “Sa môn làm ô Đạo”, “sa môn phá hoại Đạo”. Nên biết ở đây nói “thiểm hiệu sa môn” ý tứ là hổ thẹn gọi cái tên sa môn, thực tế là không đủ tư cách gọi là sa môn. Một sa môn chân chính, danh thực phù hợp nhauchỉ có thể là những “thắng đạo sa môn”, “thị đạo sa môn” “mệnh đạo sa môn” trước hết như những người bẩm Phật xuất gia, có thể diệt phiền não mà chứng thắng đạo, thứ nữa như những người xuất gia có thể đọan hoặc chứng chân, tuên thị chính pháp mà làm cho nhiều người nhập đạo, sau nữa như những người xuất giakhắc phục phiền não, chăm tu các thiện pháp làm cho mệnh trí tuệ tăng trưởng. Xem thế có thể hiểu, làm một sa môn chân chính, thực ra lá không đơn giản. Đại sư Tỉnh Am hiểu rõ những người xuất gia đương thời, đã không thể tu hành đúng phép lại không thể cầu tu tam học, cho nên mới nói “lạm xưng Thích tử, thiểm hiệu sa môn” một cách không khách khí như vậy.
Nếu không xuất gia, sống với cha mẹ thì còn có thể thực hành đạo hiếu ở thế gian. Nay đã xuất gia, rời bỏ quê hương, cha mẹ, trong tình hình đó, đương nhiên là “bùi ngọt không dâng, tế tự không có”. Cha mẹ còn mà không thể dâng miếng ngon miếng ngọt, như thế gọi là “cam chi bất cung” (không cúng dường miếng ngon miếng ngọt). Nói hành đạo hiếu: “Việc ăn uống, kẻ làm con ai mà không kiệt lực tận tâm dâng hiến của ngon vật lạ? Nếu là nhà giàu có, nào khó gì đâu? Nếu là gia nghiệp đạm bạc, ắt sẽ lòng có thừa mà sức không đủ. Người xưa nói phải “thúc thủy thừa hoan” (rau cháo cùng vui). Đây là nói nhà nghèo hèn. Chỉ có rau canh thường ngày, nhưng mặn nhạt vừa phải, sống chin hợp vị, không dám sơ sài qua quit, xong đâu đấy dâng lên cha mẹ. Có miếng gì ngon, dâng cha mẹ trước, còn mình thì thế nào cũng xong, chỉ cần cha mẹ vui lòng, đó là tận tâm. Nói chung người già lão, vị hư bạc, ăn uống khó tiêu hóa, cho nên cái ăn dâng lên phải chín phải nhừ, phải thơm ngon thì mới có ích. Phàm những cái gì sống, lạnh, dai, ngấy, khó tiêu hóa, không thể đem cho bố mẹ ăn: gạo mới  mì mới thươngtổn tì vị, cũng không thể cho ăn. Số bửa ăn lại phải nhiều hơn, vì không thể ăn nhiều một lúc quá no. Việc ăn uống, thuốc thang, kẻ làm con phải khắc ghi trong dạ”. Nhưng kẻ đã xuất gia thì khi cha mẹ còn, không thể cúng dường cái ngon cái ngọt. Như vậy chẳng phải trái với đạo hiếu sao? Đương nhiênlà một Phật tử chân chính, thì phải bàn lẽ khác. Đến khi cha mẹ qua đời, vì đã xuất gia nên không thể cúng tế đúng lẽ, cũng là bất hiếu. Nói khác đi, dù cha mẹ còn hay mất, đều không thể lo tròn trách nhiệm kẻ làm con, nói ra trong lòng xiết bao hổ thẹn.
Nói thêm, đã không thể cung đốn cha mẹ miếng ngọt, miếng bùi, đương nhiên không thể bổ dưỡng cơ thể cha mẹ, cho nên nói: “sinh bất năng dưỡng kỳ khẩu thể” (khi bố mẹ sống, không thể nuôi dưỡng bố mẹ). Người xuất gia lìa cha mẹ, khi cha mẹ chết, phần lớn đều không thể trông nom tại chỗ, tất nhiên cũng không thể dẫn linh cha mẹ về nẻo thiện, cho nên nói: “tử bất năng đạo kỳ thần linh” (khi cha mẹ chết, không thể dẫn linh). Chữ “thần linh” nói theo thế tục, chỉ linh hồn, nói theo Phật pháp là chỉ thức thứ tám là thức A lại da. Người chết rồi thì A lại da thức của người ấy lìa khổi thể xác mà tìm chỗ đầu thai nơi khác. Lúc đó nếu có người con có đạo tâm mà lại có công tu hành ở bên cạnh mà trợ niệm theo Phật pháp, thì có thể dắt dẫn đệ bát thức tìm chỗ đầu thai lại vào nhân gian, hoặc lên thiên thú, thậm chí có thể dẫn đến Tây phương cực lạc. Người con xuất gia, nếu như không biết tu trì Phật pháp đầy đủ thì không thể có sức mạnh có thể dắt dẫn thần thức cha mẹ đến nẻo thiện.
Kẻ làm con, lẽ ra phải cung đốn cho cha mẹ miếng ngon miếng ngọt, để nuôi dưỡng cha mẹ, làm cho cha mẹ vui vẻ lúc tuổi già, nhưng vì chúng ta không thể làm được như vậy, xét về phía cha mẹ, có đứa con “cam chi bất cung, khẩu thể bất dưỡng” thì cái hy vọng nuôi con những ước trông cậy lúc tuổi già chẳng phải là một tổn thất ư? Vì thế nói: “Ư thế gian ví đại tổn” (đối với thế gian là một đại tổn thất lớn)
Làm con, theo lẽ, phải tế tự cha mẹ, dẫn dắt linh hồn cha mẹ, để hai thân được tái sinh vào chỗ thiện hoặc giả được giải thoát, nhưng vì chúng tat u trì không đủ, không thể làm được “nhất tử xuất gia, cưở tổ siêu thăng cảnh giới” (một đứa con xuất gia, chín đời tông tổ được siêu thăng Tịnh độ), đối với cha mẹ không có ích gì. Vì vậy nói: “Đối với sự giải thoát xuất thế cũng không có ích lợi thiết thực gì cho cha mẹ”.
Hai đường đều sai, tội nặng khó trốn, ý nói hai quan niệm về đạo hiếuở thế gian và xuất thế, người con xuất gia đều không lo tròn được trách nhiệm, cho nên trọng tội bất hiếu khó tránh đâu cho thoát. Từ đó có thể biết, dù là đã xuất gia, kẻ làm con vẫn không thể từ chối trách nhiệm sinh dưỡng tử tang đối với cha mẹ. Như đạo hiếu ở thế gian, không thể thừa hoan dưới gối, không thể hầu hạ cung phụng, thì đạo hiếu xuất thế, bổn phận phai làm tròn như khuyến dẫn cha mẹ tin thờ Tam Bảo, ăn chay trì giới, li ác hướng thiện, làm cho cha mẹ từng bước đi lên chính đạo Phật pháp. Với một người xuất gia, nếu điều đó không làm được thì là quá kém. Thử nghĩ xem, cái thân xác này của ta, nhờ cha mẹ mà có. Nếu không có cái thân này thì làm sao xuất gia được? Không xuất gia thì làm sao có thể dụng công học đạo mà được giải thoát? Từ đây có thể suy ra thấyrõ ưn đức của cha mẹ quả thật là sâu nặng; Ơn đức cha mẹ sâu nặng như vậy, kẻ làm con đương nhiên phải biết báo đền. Một Phật tử chân chính, ắt phải hiếu kính cha mẹ. Nếu nói rằngta đã lìa bỏ bố mẹ để xuất gia thì cha mẹ không còn quan hệ gì với ta nữa, thì thật không đủ tư cách làm con cháu Thich Ca.
 Là một Phật tử, hãy noi gương Phật. Hãy xem Đức Phật đã báo đền công ơn cha mẹ như thế nào: Đức Thích Tôn thành đạo không lâu thì trở về tổ quốc thuyết pháp cho phụ vương. Phụ vương được nghe Phật pháp, lập tức được hóa độ mà chứng được sơ quả. Đến khi Phật sắp vào Niết bàn, để đền ơn đáp nghĩa của mẫu hậu, đẫ đến Đao Lợi thiên thuyết pháp ba tháng cho mẫu hậu, làm cho mẫu hậu cũng được thực ích của Phật pháp. Cuối cùng, khi vua Tịnh Phạn sắp mất, mạc dù đã chưng được sơ quả, nhưng vẫn nặng tình phụ tử, hết sức thương nhớ người con trưởng đã thành đạo, hy vọng Phật Đà có thể trở về để thấy mặt lần cuối. Lúc đó, Phật Đà hóa độ nơi xa, vì phụ vương mong nhớ người quá, nên tâm linh người cảm thông được. Phật Đà vội đem theo A Nan, La hầu La, Ưu ba li v. v.. gấp trở về tổ quốc để nhìn mặt Tịnh Phạn vương lần cuối cùng, khiến cho Tịnh Phạn Vương thỏa mãn cười mà mất. Phật là Đấng Đại giác ở nhân gian, tuy không có tình cảm thé tục thông thường nhưng vẫn giữ đúng đạo làm con. Chúng ta là gì? Há lẽ vì cớ xuất gia mà không báo ơn sâu cha mẹ?
Tịnh Phạn Vương băng hà rồi, Phật cùng ba Ton gia tùy tùng đã túc trực trước linh sang Tịnh Phạn Vương, cho đến khi xuất quan, Tôn giả A Nan với tư cách là em Phật đã xin được khênh quan tài bác, Tôn giả La Hầu La cũng với tư cách là cháu trưởng của Tịnh Phạn Vương cũng xin được khênh quan tài ông nội. Đức Phật một mặt đã uyển chuyển từ chối thỉnh cầu của hai Tôn giả, mặt khác đã khai thị cho hai Tôn giả: hiếu hạnh của các ngươi là rất đáng khen, ta cũng rất vui. Nhưng để làm gương cho chúng sinh hung ác thời mạt pháp, hôm nay ta phải tự khênh quan tài của phụ vương ta, để người đời khỏi hiểu lầm rằng đã xuất gia thì không quản gì cha mẹ nữa. Kết quả Phật Đà đã thân hành khênh linh cữu cha đến nơi hỏa tang, Phật là bậc thầy của tam giới, là từ phụ của tứ sinh, thế mà cha chết thân hành khênh linh cữu. Ai nói Đạo Phật không có hiếu? Nói Phật giáo không nói hiếu đạo là không hiểu gì về Phật giáo, đáng coi chỉ là một lời bình nông cạn vô căn cứ, thực không đáng để cho bậc thức giả phải chê cười.
Đời Đường, Trung Hoa có một học giả là Hàn Dũ là người cực lực chủ trương bài Phật. Về sau vì có việc phải biếm quan về Triều Châu, ở đó đã gặp Đại Diên hòa thượng , trong khi nói chuyện, vẫn phê bình Phật giáo.Đại Diên hòa thượng hỏi Hà Dũ: ÔNg có điều gì bất mãn với Phật giáo? Hàn Dũ đáp: “nguyên nhân làm cho tôi bất mãn và phản đối Phật giáo là Phật giáo không chủ trương đạo hiếu. Làm người mà không nói đạo hiếu sao được?” Đại Diên hòa thượng nghe xong hỏi thêm: “Ông nói đạo Phật không chủ trương đạo hiếu, vậy xin hỏi, các hạ đã thấy trong bộ kinh Phật nào những lời nói chứng tỏ Phật Đà không coi trọng đạo hiếu?” Hà Dũ đã bị câu hỏi đó làm cho ngớ ra, không biết trả lời thế nào. Vì ông ta căn bản là người chủ trương đốt hủy kinh Phật, cho nên chưa bao giờ đọc sách kinh. Không đọc sách kinh đương nhiên không thể hiểu rằng kinh Phật nói gì. Hàn Dũ sau khi bị Đại Diên hòa thượng giảng cho một đòn như vậy, mới như người sực tỉnh mộng, nhận ra rằng phản đối Phật giáo là sai lầm, từ đó nã sinh lòng tin với đạo Phật.
Từ sự thực này, chúng ta được gợi ý: Khi chúng ta muốn bình bác một tôn giáo, một học thuyết nào, trước hết phải nghiên cứu một cách khiêm tốn tôn giáo hoặc học thuyết đó nhằm đúng một hay nhiều vấn đề của nó mà bác thì mới có thể thực sự bác được nó. Thái độ chủ quan mù quáng như vậy của Hàn Dũ, không những làm mất phong độ của một học giả, mà còn để lại một trò cười cho lịch sử, không thể gây được tổn hại gì cho Phật giáo, nhưng với danh dự của một học giả thì bất lợi lớn.
Trên đây nêu một thí dụ về hiếu hạnh của Phật Đà, nay lại lấy thí dụ về hiếu hạnh của một cao tăng Trung Hoa thời xưa: Đời Đường là thời đại cực thịnh của Thiền tông, có một vị hòa thượng là Hoàng Nghiệt thiền sư, xuất gia năm 20 tuổi. Xa mẹ hơn 30 năm, đến 50 tuổi chưa về thăm mẹ một lần, nhưng bà mẹ thì từng giờ từng phút thương nhớ con. Vì mong mãi không gặp được con, nên bà cụ khóc nhiều, đến nỗi mù cả mắt. Tuy hai mắt đã mù, nhưng lòng bà vẫn không nguôi thương nhớ con vẫn từng giờ từng phút đợi chờ, mong mỏi, và đã nghĩ ra một cách đặc biệt mong thỏa tâm nguyện gặp con. Phương pháp của bà cụ là: hễ có người xúat gia tu hành nào qua làng, bà cụ biết là mời ngay về nhà cúng dường, cúng dường xong, lại mút một chậu nước rửa chân cho người tu hành. Bà cụ làm như vậy, vì trên bàn chân trái của con trai bà có một cục thịt thừa, bà muốn nhân cơ hội rửa chân để tìm ra người con của mình. Nếu phát hiện được thịt thừa thì biết ngay người xuất gia tu hành đó là con trai bà. Cứ thế suốt mấy chục năm vẫn chưa gặp được con trai đến thụ cúng dường. Bà cụ không khỏi thất vọng, nhưng không vì thế mà bỏ cái tâm nguyện tìm con, hễ có người tu hành qua làng, vẫn cứ mời cho được về nhà, vẫn cúng dường, rửa chân như cũ. Một thời gian sau, một hôm Hoàng Nghiệt Hy Vân Thiền sư qua làng cũ thật. Thiền sư muốn học Đại vũ trị thủy, qua cửa mà không vào nhà, nhưng bà cụ nhất quyếtkhông buông, cố mời cho được người con làm hòa thượng, về nhà, cúng dường như thường lệ, cơm nước xong , bà cụ múc nước rửa chân cho hòa thượng. Hoàng Nghiệt Thiền sư biết dụng ý của mẹ đã nhanh trí để cho bà hai lần chỉ rửa chân phải. Bà mẹ trúng kế rửa xong chân vẫn không phát hiện được con mình. Bà cụ sau mỗi lần thất vọng như vậy, vẫn ân thiết thổ lộ với người tu hành vừa nhận cúng dường: là có một người con xuất gia làm hòa thượng, không biết viễn du miền nào. Nếu sư phụ gặp được con lão, xin giúp lão nhắn một tiếng, mời nó về gặp lão một lần. Lần này gặp con bà cụ lại laqjp lại một lần nữa những lời ân thiết đó. Người con thực của bà trả lời: Tôi biết con bà hiện ở Ngũ Đài sơn tỉnh Sơn Tây. Bà cụ tha thiết mong con đó nghe vậy, năm lần bảy lượt van nài hòa thượng nếu gặp con ghì nhắn giúp một lời, nhất thiết mời con về một lần. Hoàng Nghiệt thiền sư vâng vâng dạ dạ rồi cáo từ ra đi. Nhưng khi Thiền sư ra khỏi nhà được một quảng ngắn thì gặp một người làng nhận được mặt Thiền Sư, người đó vui mừng vội chạy đi báo với bà cụ, hỏi bà rằng gặp lại cócon sau mấy chục năm xa cách sao không giữ lại chơi vài ngày. Bà cụ nghe nói vậy mới biết rằng vị hòa thượng vừa nhận cúng dường chính là đứa con là con mình, mà mình ngày mong đêm nhớ. Thế là bà cũng bất chấp mù lòa, lập tức chạy như bay đuổi theo. Thiền sư phát hiện ra rằng mẹ mình đang duổi theo, không những không dừng bước đợi mẹ mà còn đi gấp hơn. Khi đến bờ một con sông, bà mẹ vì mátư lòa, chẳng may rơi xuống sông. Thiềh sư trông thấy vội quay lại cứu mẹ nhưng không kịp, bà mẹ đã chết đuối. Người chết rồi không thể sống lại. Thiề sư lo liệu hậu sự cho mẹ và hết sức đau đớn đọc câu kệ rằng: “Nhất tử xuất gia, cửu tộc sinh thiên, nhược bất sinh thiên, chư Phật vọng ngôn” (một người con xuất gia, chín đời tổ lên trời. Nếu thật không được lên trời thì là chư Phật nói sai). Từ đây có thể thấy thiền sư tự tin đến mức nào, ông tin chắc rằng mẹ mình chắc chắn sẽ được lên trời nhờ sức mạnh xuất gia tu hành của mình, sẽ được phúc báo lên trời sau khi chết, nếu không như vậy chẳng hóa ra chư Phật nói sai sao. Chúng ta đều biết, chư Phật chẳng bao giờ nói sai, do đó bà mẹ của chắc chắn sẽ được lên trời không nghi ngờ gì cả. Từ đây cũng có thể thấy thìền sư không phải là một người xuất gia bình thường, mà là tu hànhđã có sở ngộ. Điều đó càng được chứng minh khi thiền sư hỏa táng mẹ và đọc kệ: “Mẹ ta nhiều năm mê tự tính, hôm nay hoa nở rừng Bồ Đề, năm nào tam hội nếu được gặp, quy mệnh Đại Bi Quán Thế Âm” Đọc xong kệ, quần chúng xem lễ ở hai bên bờ sông tận mắt thấy rõ bà mẹ thiền sư trong ngọn lửa rực sáng biến hóa thành một người đàn ông bay lên trời. Sau đó bà còn báo mộng cho Thiền sư rằng: “Trước đây năm xưa may mà không gặp được con, nếu gặp con nhận của con một hạt gạo cúng dường thì nay mẹ đã sa vào địa ngục rồi, đâu có ngày hôm nay được sinh lên trời. Nói xong bà bái lạy Hoàng Nghiệt Thiền sư rồi đi. Đương nhiên, hiếu hạnh như vậy, người đời thường cho là bất hiếu, không biết rằng như thế mới thật là có hiếu.
Qua hai thí dụ về hiếu hạnh của Phật và Hoàng Nghiệt Thiền sư, có thể thấy đạo hiếu của thế tục không thể so sánh được với đạo hiếu của Phật giáo chủ trương. Đạo hiếu của Phật giáo là triệt để, viên mãn, đâu có phải chỉ có sớm viếng khuya hầu và cho ăn uống nuôi dưỡng mà thôi.
Lại như người trong gia đình của người xuất gia, nếu gia đình bần hàn, song thân không người phụng dưỡng, thì kẻ làm con xuất gia cũng không thể bỏ mặc cha mẹ, vẫn phải gánh lấy trách nhiệm phụng dưỡng. Như Ngọc Lâm quốc sưđời Thanh đã từng đó mẹ vào chùa nuôi nấng hầu hạ. Quốc sư đã đem số tiền của cải thí chủ cúng dường cho riêng người chia làm năm phần: một phần cúng Phật, một phần lưu thông pháp bảo, một phần phụng dưỡng mẹ già, một phàn mình sử dụng và một phần để kết duyên với chúng sinh, hợp tình lý bao nhiêu? Cho nên Phật tử xuất gia vẫn có thể hiếu kính phụng dưỡng cha mẹ.
Trong Di Sa Tắc bộ ngũ phận luật, nói về ơn đức cha mẹ đối với con cái có đoạn như sau: “nếu có người suốt cả trăm năm gánh cha trên vai phải, gánh mẹ trên vai trái, cúng dường cha mẹ, nhưng vẫn chưa có thể đền đáp công ơn cha mẹ. Từ nay các Tỳ Khưu phải tận tâm tận thọ cung dưỡng cha mẹ. Nếu không cúng dường , là bị tội trọng”. Không chỉ có thế, trong khi gánh cha mẹ trên vai mà bố mẹ đại tiểu tiện lên vai vẫn không được tỏ một chút ngại ngần gì. Cứ theo thế tục nói: “Ốm lâu không có con hiếu” thì cái vĩ đại của đạo hiếu mà Phật gia chủ trương thực không tôn giáo nào, học thuyết nào có thể sánh kịp. Kinh Bản sinh tâm địa quán của Đại thừa nói: “Nếu các Tỳ Khưu có người đặt cha trên vai trái, đặt mẹ trên vai phải cho đến muôn nghìn tuổi, chăm lo áo chăn, ăn uống, giường chiếu nằm ngồi, bệnh tật thuốc thang, thì để cha mẹ ỉa đái trên vai cũng chưa thể báo đền ơn đức. Tỳ khưu phai biết ơn sâu của cha mẹ… Vì lẽ đó, các Tỳ khưu nên cúng dường cha mẹ, phải luôn hiếu thuận, không kể thời tiết nào”. Lại như kinh Tăng Nhất A Hàm của Tiểu thừa cũng nói: “Thiện nam tử! Trên thế gian ai là giàu nhất? AI là nghèo nhất? Người có mẹ hiền còn sống là kẻ giàu nhất; người không còn mẹ là kẻ nghèo nhất. Khi mẹ còn sống là giữa buổi trưa, khi mẹ mất rồi là lúc xế chiều, khi mẹ hiền còn là lúc trăng sáng, mẹ hiền mất rồi là giữa đêm đen. Vì thế các người hãy chăm lo tu tập, hiếu dưỡng cha mẹ, như người cúng Phật, công đức khác gì. Nên báo đền ơn cha mẹ như vậy”,
Nhưng Phật lại răn dạy chúng ta, chỉ có thế thì chưa thể gọi là đã đền đáp ơn sâu cha mẹ. Khi cha mẹ đang sống, cha mẹ chưa tin Tam Bảo thì hãy làm cho cha mẹ tin, cha mẹ chưa giữ giới đầy đủ, phải ôn tồn khuyên bảo cha mẹ giữ cấm giới Như Lai, cha mẹ bủn xỉn tiền của, thì hãy khuyên cha mẹ phát tâm bố thí; cha mẹ mê muội chưa thông sự lý phải khuyên cha mẹ tu học trí tuệ; cha mẹ niệm Phật pháp mà chưa sinh lòng tịnh tín, thì hãy tìm cách khuyên cha mẹ niệm Phật để được vãng sinh Tịnh độ. Nếu có thể làm được như vậy thì có thể gọi là con hiếu tiêu chuẩn. Đại sư Liên Trì nói: “Người ta nói với cha mẹ, phải phục lao phụng dưỡng để tỏ bày lòng hiếu thảo, lập thân hành đạo để sáng tỏ đạo hiếu; khuyên niệm Phật pháp môn, cầu mong vãng sinh Tịnh Độ, đó là hiếu trong đại hiếu” Như vậy là đạo hiếu chân chính , nhất định phải làm cho cha mẹ thoát khổ được vui, chứ không phải là ở chỗ bày đặt và thể hiện bên ngoài.
Nên biết rằng đạo hiếu ngày xưa rất quan trọng, trong rối loạn như bong bong ngày nay càng quan trọng hơn bao giờ hết, cho nên trong gia đình, trong trường học, phải giáo dục những mỹ đức trung, hiếu, nhân, ái, tín, nghĩa,hòa, bình v. v…cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng, đặc biệt phải dạy cho họ biết hiếu thuận với cha mẹ như thế nào. Đây mới là việc quan trọng nhất trong việc khôi phục văn minh, tiến bộ. Bỏ qua điều đó, cái gọi là phục hưng văn hóa sẽ không còn ý nghĩa gí.
Suy nghĩ như vậy, chỉ có luôn hànhPhật đạo suốt trăm kiếp nghìn đời, phổ đọ chúng sinh khắp thập phương tam thế, thì không chỉ cha mẹ đời nay mà cha mẹ kiếp kiếp đều được cứu vớt, không chỉ cha mẹ một người mà cha mẹ mọi người, thẩy được siêu thăng. Đây là nhân duyên phát tâm Bồ đề thứ hai vậy.
Là một người xuất gia, nghĩ đến câu “lưỡng đồ ký thất, trọng tội nan đào” (hai đằng đều trái, tội nặng khôn dung) ắt phải hết sức đau lòng. Nếu như vẫn không chút động tâm, thì như Mạnh Tử nói: “con người khác với cầm thú có bao nhiêu”. Không những không đủ tư cách là người xuất gia tu hành, mà cũng không xứng đáng là một con người bình thường. Người xuất gia, chỉ có cách tuân theo lời dạy của Thích Ca, phát tâm Bồ đề thì mới thực sự có thể đền ơn cha mẹ. Sauk hi auy nghĩ như vậy,cảm thấy “chỉ có”  suốt trăm kiếp nghìn đời luôn hành Phật đạo. Trong quá trình hành đạo đó, phải “khắp thập phương tam thế phổ độ chúng sinh:, thế thì “ chẳng riêng cha mẹ kiếp này mà cha mẹ kiếp kiếp xưa kia” đều được cứu vớtnhờ cái công đức phát tâm Bồ đề, hành đạo Bồ tát của ta,”không chỉ cha mẹ một mình ta, mà cả cha mẹ mọi người” trên khắp thế gian “thảy được siêu thăng” khỏi phải đắm chìm trong sinh tử. “Cứu vớt” và “siêu thăng” nói ở đây không phải chuyên chỉ lợi ích trần gian, mà là chỉ sự liễu thoát sinh tử.Liên trì đại sư nói: “Ơn dày cha mẹ, vượt cả núi cao, ngũ đỉnh tam sinh chưa đủ báo đền, (chỉ khi nào) song thân thoát rời bụi bẩn (thì), đạo con mới thành”, ở đây có thể nói cái cao cả của đạo hiếu mà Phật giáo chủ trương đã được diễn đạt đầy đủ. Cho nên người xuất gia thờ Phật có phát tâm quảng đaị thì mới có thể thật sự có ích cho cha mẹ, Giả sử sau khi xuất gia, chỉ biết suốt ngày xuôi ngược tụng kinh sám hối, thì không những không ích gì cho cha mẹ, mà cũng chẳng có ý nghĩa gì với bản thân. Chính vì vậy mà nói rằng niệm ơn cha mẹ, “là nhân duyên phát tâm Bồ đề thứ hai”.
--o0o--