|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
GIẢI THÍCH CHÍNH VĂN
-
-
III- BIỆT THÍCH (Giải
thích riêng biệt)
-
“Niệm Phật trọng ân
phát tâm Bồ Đề”.
-
-
4- Niệm ơn thí chủ
mà phát tâm Bồ đề
-
-
Thế nào là niệm ơn
thí chủ? Đó là nói bọn chúng ta ngày nay thức ăn vật dụng hàng
đều không phải do ta mà có. Cháo cơm ba bữa, quần áo bốn mùa,
những khi ốm đau, tổn phí để nuôi thân nuôi miệng đều là nhờ ở
sức lao động của người khác cung cấp cho chúng ta chi dùng.
Đây là nhân duyên phát tâm Bồ đề thứ tư, tức là niệm ơn thí
chủ mà phát tâm Bồ đề. Thí chủ tiếng Ấn Độ là Đàn na, tiếng
Trung Quốc dịch là tín thí, cũng gọi là thí chủ. Có lúc phối
hợp tiếng Hoa tiếng Phạn gọi là đà tín. Nhớ ơn thí chủ rõ ràng
là chỉ về nhị chúng xuất gia học Phật. Trên kia nói đền ơn
Phật. là thông với tứ chúng học Phật; báo ơn cha mẹ, không
những thông với tứ chúng học Phật, ngay cả người không tin
Phật cũng phải nhớ ơn cha mẹ; báo ơn sư trưởng, ngoài tín đồ
Phật giáo, người xuất gia, không những phải báo đền ơn sư
trưởng xuất thế, mà ngay cả ơn sư trưởng thế gian cũng cần
phải tư niệm, báo đáp. Người tại gia, cố nhiên nên báo đền ơn
sư trưởng thế gian, mà càng phải báo đền ơn sư trưởng xuất
thế. Vì người học Phật tại gia, muốn có ít nhiều hiểu biết về
giáo lý Phật pháp thì phải theo học những sư trưởng xuất thế.
Còn ở đây nói nhớ ơn thí chủ là nói về chuyện nhị chúng xuất
gia, vì chỉ có nhị chúng xuất gia mới cần sự cung dưỡng của
thí chủ.
-
Theo Phật chế,
người xuất gia không được tích lũy gia tư, cũng không được
buôn bán, không được làm ruộng, không được làm thợ v. v… Di
giáo kinh vừa mới mở đầu đã nói rõ với những người xuất gia
trì giới rằng, có mười một loại công việc không được làm: 1-
Không được bán, 2- Không được mua, 3- Không được đổi chác, 4-
Không được tậu ruộng vườn, 5 – Không được nuôi người, 6- Không
được nuôi nô tỳ, 7- Không được nuôi gia súc, 8- Không được cấy
trồng, 9- Không được tích lũy tiền của, 10- Phải xa lánh chợ
búa, 11- Không được đẳn chặt cây cỏ, mở đất, đào đất. Đây là
những việc thông thường của thế tục. Còn có năm việc nữa tương
tự như tà thuật ngoại đạo, nhờ đó mà tích tụ tài vật, người
xuất gia cũng không nên làm: 1- Không được hợp chế thang dược,
2- Không được bói toán cát hung, 3- Không được xem tinh tú, 4-
Không được suy tính thiệt hơn, 5- Không được tính toán lịch
số. Vô luận là việc thế tục hay tà thuật ngoại đạo đều có hại
cho nhân duyên tu học chính đạo, cho nên Phật quy định Tỳ Khưu
không được làm việc sản xuất mà người thường vẫn làm, chỉ có
thanh tịnh khất thực để sống.
-
Tỳ khưu không được
sản xuất buôn bán mưu sinh, mọi phí dụng của đời sống hàng
ngày, đương nhiên phải trông cậy vào thí chủ phát tâm cúng
dường. Vì nhiệm vụ duy nhất của Phật Đà giao phó cho người
xuất gia là làm sao trụ trì chính pháp Như Lai để có lợi cho
chúng sinh ở thế gian, nhiệm vụ duy nhất mà Phật Đà giao phó
cho tín đồ tại gia là hộ trì chính pháp Như Lai để phát tâm
cúng dường Tam Bảo. Nói khác đi là người xuất gia trọng pháp
thí, người tại gia trọng tài thí, là chỗ khác nhau về nhiệm vụ
của tăng tục nhị chúng phải gánh vác. Người tại gia hộ vệ đời
sống của người xuất gia, làm cho người xuất gia có cuộc sống
ổn định mà yên tâm tu đạo hoặc hoằng hóa. Thí chủ tại tục
đương nhiên là có ơn với tăng chúng xuất gia. Có ơn phải được
báo, cho nên Tịnh Am đại sư khuyên các tăng ni phải nhớ ơn thí
chủ.
-
Hành giả xuất gia
học Phật, bất luận là trọng ở tự lợi hay trọng ở lợi tha thì
đời sống của họ cũng phải được giải quyết hợp lý, nếu không
thì khi tự tu cũng như khi hóa độ người khác cũng khó tránh
việc lo lắng cho đời sống phía sau mà ảnh hưởng đến kết quả tu
hành. Trong ngũ duyên của Thiên thai giảng tu chỉ quán, có một
trợ duyên quan trọng la “y thực cụ túc” (có ăn đủ mặc) vì ăn
mặc và những nhu yếu phẩm sinh họat khác là tư lương trợ đạo,
nếu như ăn mạc không đủ, tất nhiên đói rét không yên thân, làm
sao có thể tu hành hoằng đạo? vì thế mới nói: “Thân yên tắc
đạo long” (thân yên thì đạo thịnh). Trong quá trình tu hành,
muốn cho đạo tâm tăng tiến, đạo nghiệp hưng thịnh thì phải
thân an tâm thái, nếu không cả ngày chỉ lo nghĩ việc đời sống,
không thể tăng tiến đạo nghiệp, hơn nữa còn có thể làm cho
người ta thoái tâm. Người tự tu còn phải đủ ăn đủ mặc, người
hoằng pháp càng không thể thiếu áo đói cơm. Nói “pháp luân vị
chuyển, thực luân tiên chuyển” (Bánh xe pháp chưa chuyển thì
bánh xe ăn đã chuyển trước) là ý như vậy. Vì nhiệm vụ một
người hoằng pháp phải gánh vác là hết sức nặng nề khó khăn,
ngoài việc đem giáo nghĩa của Phật Đà truyền bá cho chúng sinh
hiểu, làm cho chúng sinh mà quy tín Phật giáo, y pháp tu hành.
Đồng thời, ngoài giờ hoằng pháp ta còn phải tiếp tục nghiên
cứu giáo lý, chỗ chưa hiểu phải hiểu, chỗ hiểu rồi đi truyền
bá cho chúng sinh. Nhờ đó, người hoằng pháp khỏi phải lo nghĩ
về đời sống. Nếu còn phải lo âu về đời sống thì làm sao có thể
đi khắp nơi để hoằng dương Phật pháp? Lại còn đâu thời gian để
nghiên cứu Phật lý? Đương nhiên càng không thể thêm công phu
cho tu trì của bản thân.
-
Cho nên một hành
giả xuất gia học Phật, vô luận là tự lợi lợi tha, muốn khỏi
phải lo nghĩ cho đời sống, phải có thí chủ phát tâm cúng
dường, nhờ sự phát tâm cúng dường của thí chủ, mà có thể thành
tựu được đạo nghiệp xuất gia hoặc hành nguyện độ sinh. Như
vậy, ơn đức của thí chủ đối với người xuất gia rất lớn. Nhưng
ở đây cần phải nói rõ, thí chủ cúng dường tăng bảo phải có cái
tâm thật thuần khiết, không thể lẩn vào đấy một động cơ phụ
nào cả thì mới thực sự có công đức lớn. Nếu không như thế, thì
dù phát tâm cúng dường tăng ni công đức cũng chẳng được là
bao, thậm chí không có công đức gì.
-
Hãy xem trong làng
Phật ngày nay, người thành khẩn thiết phát tâm cúng dường Tam
Bảo không thiếu mà người cúng dường không thuần khiết, có mang
theo động cơ phụ cũng không phải là không có. Có người mượn
danh nghĩa hộ trì Tam Bảo, mà thực ra là lợi dụng Tam Bảo để
mưu cầu danh vị cá nhân. Với những người cúng dường như vậy
không thể lấy lòng họ. Người xuất gia chân tu thực học không
tham lam mà hưởng thụ sự cúng dường như vậy là bị lợi dụng. Kẻ
bị lợi dụng, phần lớn là những người xuất gia không có nhân
đức thực học. Họ tài năng thấp kém mà lại muốn leo lên địa vị
cao trong Phật giáo, thế là bị những tục nhân có dụng ý thừa
cơ lợi dụng, làm cho Phật giáo mịt mù chướng khí. Thật là bất
hạnh cho Phật giáo. Thái Hư đại sư, tront bài: “Trình tự học
Phật của những sĩ nữ cu gia” đã từng phê bình những người học
Phật tại gia như sau: “Người học Phật gần đây, hoặc nhắm mắt
theo người để phụ họa, không có chủ đích trong lòng, họ hiếu
kỳ xu thời để tự biểu dương, thả vọng tình sai bảo, hoặc hòng
mượn Phật để trốn đời, hoặc mượn danh Phật để mua tiếng”.
-
Nghe nói gần đây có
một vị nữ cư sĩ, thường làm ra vẽ đắc đạo, thấy người khác đến
thì vờ như đang nhập định, nói người này kiếp trước có thiện
căn thế này, người kia kiếp trước không có thiện căn, làm ra
vẽ như thật, ra vẽ ta đây có túc mệnh thông hoặc thiên nhãn
thông, có thể giải quyết được những điều người khác không giải
quyết được. Nhưng bản thân bà ta thì trước khó khăn của mình
đành bó tay, không biết làm gì. Cho nên, người có trí kiến
chân chính quyết không thể tin vào những lời ma quỷ của bà ta.
Chỉ những kẻ ngu suẩn vô trí mới đi tin những lời xằng bậy mhư
vậy. Hành giả Phật pháp thực hành chính đạo quyết không làm
những điều dung tục quái đản như thế, vì nó là trái với chính
đạo. Thí chủ phát tâm cúng dường tang bảo vốn có ơn đức lớn,
nhưng không thể trái với đạo thường, nếu không thì không còn
là chính pháp, hoặc giả còn có tác dụng phụ kác, như thế thì
càng xa lìa Phật pháp hơn nữa. Trong thời đại này, kẻ xa lìa
Phật pháp rất nhiều.
-
Dựa trên những điều
nói trên, chúng ta có thể hiểu rằng người xuất gia phải tư
niệm ơn đức thí chủ, đó là điều hợp thiên kinh đại nghĩa,
không được hoài nghi. Thí chủ cúng dường tăng bảo, cũng nên
thuần chính trong sáng, đứng vững trên lập trường hộ trì Tam
Bảo, tuyệt đối không được có dụng ý khác; hoặc để cho động cơ
phụ khác xen lẫn vào. Được như vậy, người trụ trì chính pháp
chịu trách nhiệm của người trụ trì chính pháp, người hộ trì
chính pháp chịu trách nhiệm của người hộ trì chính pháp, thì
từ nay về sau Phật giáo sẽ phát dương quang đại. Không như vậy
mọi người đều đi theo đường thần kỳ quái đản, đua nhau phát
triển theo hướng đó, thì Phật giáo sẽ biến thành thiên ma
ngoại đạo, đâu còn bản chất phác thực của Phật pháp?
-
Nay chúng ta hỏi:
“Niệm ơn thí chủ thế nào?” Tỉnh Am đại sư nói: “Chúng ta nay
cái dùng hàng ngày không phải ta có”. Chữ “ngã” (ta) là Tỉnh
Am đại sư tự xưng, chữ “đẳng” là chỉ tất cả đồng đạo xuất gia.
Tất cả những gì chúng ta dùng hàng ngày, không có cái gì là do
lao động của ta làm ra, hoàn toàn là do các thí chủ bố thí cho
chúng ta. Lại còn “cháo cơm ba bữa, quần áo bốn mùa”, tất cả
cũng là do thí chủ cúng dường. Chữ “tam thời” (ba bữa) có bản
ghi là nhị thời (hai bữa), chỉ bữa ăn sáng và bữa ăn trưa.
Sáng ăn cháo, trưa ăn cơm, ấy là “cháo cơm hai bữa”. Sở dĩ
không nói đến bữa ăn tốei là vì Phật chế, quy định Tỳ khưu
xuất gia, sau giờ ngọ không ăn, cho nên mỗi ngày chỉ được ăn
hai bữa. Nay nói “ba bữa” là để thích ứng với phong tục Trung
quốc. Cái quy định sau giờ ngọ không ăn của Phật chế, chưa
được chấp hành ở Trung Quốc. Cho nên bất luận ở các chùa nhỏ
trong rừng, người xuất gia đều ăn cơm tối “Bốn mùa” là chỉ
xuân, hạ, thu, đông. Khí hậu bốn mùa ở nước ta rất đều hòa đều
đặn, cho nên quần áo bốn mùa hợp với khí hậu nóng lạnh khác
nhau của bốn mùa. Mùa hè có quần áo mùa hè, mùa đông có quần
áo mùa đông, Xuân thu có quần áo xuân thu. Hai chữ “y thường”
(xiêm áo) có nghĩa hơi khác nhau: Áo mặc phần trên mình gọi là
“y”, xiêm mặc phần dưới gọi là “thường”. Sách cổ nói: “thượng
viết y, hạ viết thường” (trên gọi là y, dưới gọi là thường)
không kể áo trên xiêm dưới, đều là để che thân, cũng là để bảo
vệ thân tránh nóng lạnh.
-
Ngoài cái ăn cái
mặc cần dùng trong cuộc sống hàng ngày, còn có “thuốc thang
khi ốm đau”, cũng là do thí chủ cúng dường. Người ta ở đời
thân thể là máu thịt khó mà tránh được tật bệnh ốm đau. Có ốm
đau ắt phải có thuốc thang chữa trị, bệnh nhỏ chữa nhỏ, ốm to
chữa to, không có kinh tế, làm sao được? Người xuất gia không
lao động sản xuất, lại không có tài sản tích lũy gì, nhỡ khi
đau ốm nằm xuống có thí chủ phát tâm bố thí thì thuốc thang
chi dùng ta lấy đâu ra?
-
“Xiêm áo bốn mùa”
là cái dùng trên thân thể; “cháo cơm ba bửa” là cái dùng trong
miệng, “thuốc thang khi đau ốm” là nói chung cái dùng cho cả
thân, miệng. Áo quần, ăn uống đồ dùng để nằm ngồi, thuốc thang
tất cả bốn thứ “dùng cho thân miệng” ấy không có cái nào là do
ta vất vả làm ra. Đều do thí chủ lao động làm ra rồi mang đến
cung cấp cho ta dùng. Cho nên nói “tất cả là do sức người khác
làm ra đem đến cho ta dùng”. Chúng ta làm sao có thể không báo
đền thí chủ? Làm sao có thể không tu hành theo đúng Phật pháp?
-
Kẻ kia dốc sức cấy
cầ, khó lòng đủ miệng. Ta đây ngồi không nhận hưởng, còn chẳng
vừa lòng.
-
Trong thí chủ, có
người giàu đủ, cúng dường chút ít, không ảnh hưởng gì đến kinh
tế. Nhưng trong thế gian hiện thực, thường có hiện tượng, kẻ
càng có nhiều tiền càng không chịu bố thí cúng dường, người
càng thiếu thốn khó khăn lại càng phát tâm bố thí. Trong thời
đại mưu sống không dễ dàng gì, bản thân đại đa số thí chủ đời
sống rất khó khăn. Những thí chủ nói dưới đây đều lá những
người nghèo khó. Sở dĩ đặc biệt nêu ra những thí chủ nghèo khó
là để chúng ta phải biết hổ thẹn mà đền ơn.
-
Trước hết nói đến
những thí chủ cày ruộng: những người làm ruộng kia, suốt ngày
tận tâm “dốc sức” tự mình ra ruộng “cầy cấy”, cấy lúa, bón
phân, làm cỏ, cày bừa, gặt hái … đi sớm về khuya, mưa dầm nắng
đốt, chịu đựng bao nhiêu vất vả cực nhọc? Đợi đến ngày gặt
hái, nào giống, nào công, nào tô thuế, bao thứ phâi chi. Phần
còn lại, không đủ miếng ăn trong miệng. Cho nên nói: “khó lòng
đủ miêng” đây không phải là nói quá, từ trong thực tế gia đìng
nông dân có thể thấy rõ như vậy. Ngoái lại nhìn “ta ở đây”
những người xuất gia, “ngồi không” trong chùa, “nhận hưởng”
cái ăn cái uống có sẳn, thế mà có lúc còn chẳng vừa lòng, vừa
ý, thấy không ngon, không hợp khẩu vị. Thử hỏi ta có phúc đức
gì như vậy? Đặc biệt là chúng ta, những tăng ni trong tu viện
“mười ngón tay không chạm nước, trăm công việc không quan tâm,
đũa đến tận tay, cơm và vào miệng” nếu vẫn không vừa ý, thì
thật là tội lõi vô biên.
-
Kẻ kia kéo sợi dệt
vải không ngừng, còn thấy gian nan. Ta đây mặc đủ còn thừa,
biết đâu tiếc của.
-
Thứ đến nói những
thí chủ kéo sợi dệt vải. Khi xưa công nghiệp chưa phát triển,
ở làng quê, thấy những phụ nữ “kéo sợi dệt vải” suốt ngày
không ngừng, không nghỉ, thế mà họ vẫn “còn thấy” cái mặc của
họ “gian nan” lắm, thường vẫn áo chẳng kính thân, hoặc là vá
đụp vá chằng. Tuy thế họ vẫn dành ra một phần vải để cúng
dường người xuất gia. Còn “chúng ta đây”, không những không
phải bỏ ra một tí sức nào, mà xiêm áo bốn mùa “mặc đủ có
thừa”, “biết đâu” xiêm áo ấy là đáng quý , đáng tiếc? Theo
Phật chế người xuất gia chỉ được “tam y nhất bát” nếu có quần
áo thừa thì là “trường vật” (vật quá thừa) phải làm nghi thức
“tác tịnh” (làm cho thanh tịnh) đem quần áo đó biếu tặng cho
tăng ni khác, rồi sau đó người tăng ni ấy giao lại cho ta cất
giữ. Không làm nghi thức “tác tịnh” là phạm giới. Phật giáo
truyền vào nước ta, do khí hậu, phải có quần áo dày mỏng khác
nhau cho bốn mùa để thích ứng với khí hậu nóng lạnh khác nhau.
Nếu chúng ta ngồi không ăn sẵn, mà lại không biết tiếc của giữ
gìn thì thử hỏi có tội hay không?
-
Chu Bách Lư đã nói
trong “Trì gia cách ngôn”: Bát cháo chén cơm, nên nghĩ có dược
chẳng dễ dàng, sợi tơ sợi vải, hằng nhớ kỹ vật này khó được”.
Câu cách ngôn muốn nói đời sống không dễ dàng, làm người, đối
với áo cơm phải luôn nghĩ như vậy, người xuất gia chúng ta,
càng phải luôn luôn nghĩ như vậy, không được có thái độ không
vừa, cũng không được có thái độ không biết tiếc của. Như nói
về ăn uống, Phật bảo chúng ta khi ăn phải nhớ Ngũ quán. Đệ
nhất quán trong Ngũ quán nói “kế công đa thiểu, lượng bỉ lai
xứ” (lượng cái ta ăn đây, có được nó tốn bao nhiêu công sức).
Có thể thấy, Phật dạy các Tỳ khưu phải quý trọng cái ăn cái
mặc như thế nào.
-
Kẻ kia cửa liếp nhà
tre, tất bật suốt đời. Ta thì cửa cao nhà rộng, quanh năm nhàn
rỗi.
-
Dưới đây nói những
thí chủ nghèo hèn. Trên là nói về ăn mặc, bây giờ nói về chỗ
ở. Nói gộp lại, ăn, mặc, ở là ba vấn đề lớn của nhân sinh.
Người sống trên thế gian này, không phải chỉ cần có mặc là đủ,
lại phải có một chỗ ở yên thân, nếu không khó mà tiếp tục sinh
tồn. Từ hiện thực nhân gian, có người ở nhà cao nhà rộng, có
người ở nhà cỏ cửa liếp khác nhau rất lớn. Như ở nhiều thành
phố ngày nay, cạnh những nhà lầu chọc trời, là những khu nhà
tre gỗ chỉ tạm che mưa nắng hình thành một sự tương phản rất
gay gắt. Không chỉ một nơi như vậy khắp nơi đều vậy cả.
-
Hai chữ môn, hộ
thường nói liền nhau, như nói chú ý môn hộ (chú ý nhà cửa)
hoặc mộ hộ tiểu tâm (nhà cửa phải cẩn thận). Cũng còn nói môn.
Kỳ thực, môn và hộ là hơi khác nhau, cửa hai cánh là môn, cửa
một cánh là hộ. Nhà ở của những thí chủ nghèo hèn, thường là
“cửa cỏ tất”, “cửa cỏ bồng”. Bồng và tất đều là cỏ, nói cửa
nhà họ đều chỉ lợp lá lợp rạ. Có thể qua đây thấy họ rất nghèo
khổ. Họ đã phải sống trong nhà lá tồi tàn như vậy, nếu đời
sống ổn định thì còn tạm được, đằng này họ lại phải “tất bật
suốt đời” đâu có thời gian rỗi rãi mà nghĩ ngơi. Tuy vậy mà
vẫn nhịn ăn bớt mặc, phát tâm bố thí.
-
Quay lại nhìn những
người xuất gia “chúng ta” ở thì “nhà rộng cửa cao” đi lại
trong những hành lang vắng lặng, nhàn nhã quanh năm, đâu có
nghĩ đến hoàn cảnh khốn khó của những người sống trong nhà rơm
cửa cỏ. Thử xem, bất luận Phật giáo phát triển đến vùng nào,
tất cả chùa chiền đều trang nghiêm đường hoàng. Nhưng chúng ta
đều biết chùa chiền đạo Phật gọi là “đạo trường” hoặc “đạo
trường hoằng hóa”, hoặc đạo trường tu hành, không phải là chỗ
chúng ta đến hưởng phúc. Một ngôi chùa Phật, nếu không phải là
chỗ hoằng hóa tu đạo, thì thật phụ công bố thí tịnh tài của
thí chủ. Đến ngày nay, những chùa lớn nói chung, cố nhiên đều
đã trở thành nơi doanh nghiệp, suốt ngày đánh đánh gõ gõ làm
việc chết người, những chùa nhỏ cũng thành nơi cá nhân hưởng
lạc, không khác gì nhà ở của người thế tục, còn mấy chùa đang
chân tu thực học? Nhìn những khu nà gỗ, nhìn những khu nhà lá,
chúng ta có thể không hổ thẹn được không?
-
Lấy cái lao động
của người kia để cho chúng ta nhàn dật, trong lòng yên chăng?
Đem cái lợi của người khác để nuôi béo chúng ta, với lý có
thuận chăng?
-
Đây là mấy câu nói
bình thường, thông tục mà khẩn thiết, xiết bao cảm động lòng
người. Thật đáng cho mỗi một Phật tử xuất gia ghi vào lòng mà
ngẫm nghĩ.
-
Nên hãy nghĩ xem,
đem cái thành quả lao động quanh năm suốt tháng của những
người làm ruộng, người dệt vải của những đại chúng nghèo khổ
kia đem đếan cho chúng ta được sống thoải mái an nhàn, nếu
chúng ta không dụng công hành đạo, hoằng pháp lợi sinh, giữa
đêm thanh vắng để taylên bụng tự hỏi, lòng ta yên chăng? Người
có ít lương tâm lương tri tôi nghĩ không thể nào yên lòng
được, trừ phi những kẻ không cò tri giác.
-
Hãy nghĩ xem: đem
những của cải của những nông phu, chức nữ, của đại chúng
nghèokhổ kia để về nuôi béo thân ta, làm cho chúng ta không
biết gì là nỗi khổ đói lòng rét cật, nếu ta không tạc gia tu
chân, thuyết pháp độ sinh, thì có thuận lý không? Người biết
chút ít lẽ phải thấy là nói không xuôi được. Đã thế thì làm
sao còn có thể nhàn nhã suốt năm, chơi rỗi cả ngày?
-
Trong Phật giáo có
câu “Ngũ quán nhược tồn kim dị hóa, tam tâm vị liễu thủy nan
tiêu” (ngũ quán nếu còn thì vàng cũng dễ chảy, tam tâm mà chưa
hết thì nước cũng khó tiêu). Ngũ quán là: 1- kể công đa thiểu
lượng bỉ lai xứ (tính công nhiều ít xét nơi nó tới); 2-thổn
đức hạnh toàn khuyết ứng cúng (ngẫm xem đức hạnh mình toàn hay
khuyết nhận cúng) 3-phòng tâm ly quá tham đẳng vi tông (phòng
tâm tham sân là tông chỉ); 4- chính sự lương dược, vi liệu
hình khô (việc phải là thuốc tốt đã chữa thân hình khô gầy);
5- vị thành đạo nghiệp ưng thụ thử thực (để thành đạo nghiệp,
nên nhận thức ăn này). Tam tâm là 1-Tham tâm; 2- Sân tâm 3- si
tâm, cũng tức là Tam độc phiền não. Cho nên Tỳ khưu xuất gia
đã tiếp nhận cúng dường của thí chủ thì phải dụng công hàh,
hoằng pháp lợi sinh thì mới có thể tiêu hóa được. Nếu không,
dù chỉ uống một giọt nước thì cái tội lõi không làm mà ăn cũng
khó mà tránh khỏi. Hãy nói việc ăn cơm: khi đang ăn uống không
nên them muốn những mỹ vị thế gian, mà khải luôn luôn giữ
chính niệm. Cố nhiên đây là một điều kiện không thể thiếu
được, đồng thời còn phải nguyện cho chúng sinh làm cho “thiền
duyệt thực, pháp hỷ sung mãn” (Niềm vui thiền tâm là cơm ăn,
niềm vui Phật pháp lhàm no bụng).
-
Nếu không phải Bi
trí song hành, Phúc Tuệ nhị nghiêm, bố thí được ơn, chúng sinh
nhận thưởng, thì hạt gạo tấc vải cũng có phận phải đền, ác quả
khó thoát. Ấy là nhân duyên phát tâm Bồ đề thứ tư vậy.
-
Đây là nói phải đền
ơn thí chủ như thế nào. Đương nhiên không phải là hôm nay mời
thí chủ ăn một bửa cơm chay, ngày mai lại biếu thí chủ một lễ
vật, ngày kia làm cho thí chủ việc gì, thì coi là đền ơn thí
chủ. Thí chủ chân chính không cần những cái đó. Người ta nói:
“Vì pháp mà đến, không phải vì ăn mà đến”. Do đó, đền ơn thí
chủ một cách chân chính, phải là phát tâm Bồ đề, dùng Phật
pháp chỉ dẫn thí chủ, làm cho họ theo pháp mà tu hành, từ đó
thân tâm được giải thoát. Giả sử không phải là “bi trí song
tu, phúc tuệ nhị nghiêm” thì không những không đền được ơn thí
chủ mà còn khó thoát khỏi tội lỗi.
-
Bi trí song tu là
hai đại hạnh môn mà hành giả tu hạnh Bồ Tát phải tu trì. Bi có
công dụng để hía độ chúng sinh, trí có đặc năng thượng ccầu
Phật đạo. Hành giả không phát tâm Bồ đề thì thôi, đã phát tâm
thì tất nhiên phải không ngường tiến bước trước hai con đường
thượng cầu Phật đạo và hạ hóa chúng sinh. Phúc tuệ nhị nghiêm
là hai đại trang nghiêm, chứng được Phật quả, cũng tức là phúc
đức trang nghiêm và trí huệ trang nghiêm như vẫn thường nói,
hai đại trang nghiêm phúc tuệ ấy thực ra là do song hạnh mà
có. Vì không ngừng hạ hóa chúng sanh, cho nên teach tạo được
phúc đức vô lượng; vì không ngừng thượng cầu Phật đạo cho nên
tích tập được trí tuệ quảng đại. Thường nói Bồ Tát phải quảng
tu lục độ. Việc tu học, bố thí, trì giới, nhẫn nhục trong lục
độ là tích tập phúc đức, cuối cùng việc tu học thiền định và
trí tuệ là tích tập trí tuệ, còn độ tinh tiến là thông với
phúc tuệ nhị nghiêm. Tu phúc đức cố nhiên phẩi tinh tiến không
ngừng, mà tu trí tuệ cũng phải tinh tiến không mệt mỏi, không
lười biếng uể oải thì cỏ thể được phúc tuệ nhị nghiêm. Đến khi
lục độ tu học viên mãn, thì có thể hoàn thành phúc tuệ lưỡng
túc mà trở thành Phật Đà tối cao chính giác vô thượng, cho nên
Phật được gọi là phúc tuệ lưỡng túc lưỡng tôn, tức là viên
mãn, tức là phúc đức và trí tuệ đều đã được viên mãn.
-
Bi trí song tu là
mới nói về tu học Bồ Tát hạnh ở nhân địa. Phúc tuệ nhị nghiêm
là nói về quả vị đã được vô thượng chính giác. Bất luận là vận
dụng bi trí đi độ hóa chúng sinh ở nhân địa hay là đạt được
Phật quả vị tối cao, hoàn thành hai đại nghiêm, đều có thể làm
cho thí chủ được hưởng ân huệ Phật pháp, cũng có thể làm cho
mọi chúng sinh nhận được sự ân tứ của Phật pháp.
-
Đàn, và đàn na,
tức là thí chủ như nay ta nói, tín là tín tâm, tức là tín
ngưỡng Phật, Pháp, Tăng – Tam Bảo. Vì hành giả phát tâm Bồ Đề
đi hóa độ chúng sinh, thí chủ cũng là chúng sinh, qua sự nghe
Phật pháp mà tin nhân quả, cải ác hướng thiện, quảng chúng
phúc điền, lại hành chính đạo theo Phật Pháp, hoặc là được
thiện quả nhân thiên, hoặc là được giải thoát nhị thừa, hoặc
là được Bồ Đề vô thượng. Đây là chứng minh lớn nhất việc thí
chủ chỗ Bồ Tát phát tâm Bôb đề mà được ân trạch. Không cỉ đàn
tín được chịu ân, mà chúng sinh nói chung cũng được ân tứ là
được Bồ Tát hóa độ.
-
Tỳ khưu xuất gia
nếu làm được như vậy, thì vô luận nhận cúng dường bao nhiêu
của cải của người cũng không những không có tội gì, mà còn có
công đức lớn. Giả sử không như thế thì dù chỉ nhận của thí chủ
một hạt gạo, một tấc vải cũng có phận sự tương lai phải trả
lại. Nợ kiếp trước mà còn không thể trốn thoát được ác quả. Cổ
đức nói: “Thập phương nhất lạp mễ, đại như Tu Di sơn, nhược
hoàn bất liễu đạo, phi mao đới giác hoàn” (Một hạt gạo thập
phương, to như núi Tu Di; nếu không trả hết đạo, mang lông đội
sừng về). Nói “mang lông đội sừng” là nói biến thành trâu ngựa
để trả nghiệp kiếp trước.
-
Vấn đề này, có thể
kể một chứng minh thực tế: Xưa kia có một người xuất gia tu
hành, rất có đạo tâm, một lòng dụng công ở lều cỏ. Ở lều cỏ tu
hành, không thể không sống. Hồi đó có hai mẹ con nhà nọ cúng
dường cơm áo cho người xuất giakia, để ông có thể yên tâm tu
đạo, khỏi phải xuống núi đi độ hóa. Vị sư này tu liền 20 năm
trong núi, nhưng trước sau không ngộ được. Thiền lý cẩm thấy
hổ thẹn, và thường nghĩ: ta nhận sự cúng dường của người ta
như thế này mãi, công phu lại không tương ứng, sau này biết
trả ơn người ta thế nào? Vì nghĩ như vậy nên định đi khắp nơi
tầm sư học đạo. Mong được minh tâm địa. Một hôm vị sư nói điều
đó với tín đồ và từ giả tín đồ để đi, tín đồ khẩn thiết lưu
giữ tỏ ý nguyện sẽ cúng dường suốt đời, bất tất phải đi nơi
khác.
-
Người xuất gia nói
thật ý nghĩ của mình với tín đồ: Tôi không phải không thích
nơi này, nhưng vì chưa minh được tâm địa, nhận mãi sự cúng
dường của quý đạo hữu thế này thì nuốt không trôi được, không
thể không đi chõ khác tu học, để mong giải thoát đại sự sinh
tử. Tín đồ thấy sự quyết định như vậy thì không ccầu xin nữa
mà chỉ mời lưu lại mấy ngày, may biếu cho nhà sư một chiếc áo
ấm.
-
Sư thấy tín đồ khẩn
thiết như vậy, đã nhận lời. Mẹ con nhà kia đã tận dụng mấy
ngày ngắn ngủi, cắt may chiếc áo ấm cho nhà sư, cứ may một mũi
kim thì niệm một câu thánh hiệu A Di Đà Phật. May xong, gói
bốn đĩnh bạc chân ngựa biếu sư làm lộ phí. Một hôm hai mẹ con
thành tâm đưa đến cho nhà sư, nhà sư cũng thật thà nhận lấy
định sáng hôm sau lên đường, đêm đó cũng tinh tiến tọa thiền
như thường lệ.
-
Nửa đêm thấy có một
đòng tử thanh y tay cầm một lá cờ, cùng mấy người theo sau
trống dong cờ mở đi vào, lại còn mấy người khách khênh một tòa
sen lớn đến trươc mặt nhà sư nói: Kính mời lên tòa sen. Thiền
sư nghe xong nghĩ bụng: ta tu thiền định chưa bao giờ tu tịnh
độ, làm sao lại đó taq vãng sinh Tây Phương? Đây không phải sự
thực, hẳn là ma đến quấy rầy ta. Nghĩ vậy nhà sư mặc kệ không
để ý. Nhưng đồng tử kia vẫn một mực khuyên mời, xin nhà sư
đừng chần chừ lâu.
-
Trong tình hình đó
nhà sư cầm cái dẫn khánh cắm vào trong tòa sen. Đến giờ, đồng
tử lại dẫn đoàn người trống dong cờ mở mà đi.
-
Sáng sớm hôm sau
con ngựa cái nhà tín đồ kia bỗng đẻ ra một cái dẫn khánh. Phu
ngựa trông thấy rất lấy làm quái lạ vội đi báo với chủ. Mẹ con
nhà kia chạy ra xem thì thấy cái dẫn khánh vốn là của nhà sư,
không rõ nguyên nhân gì mà lại có thể vào bụng ngựa, bất giác
vô cùng kinh hải, lập tức vào chỗ nhà sư, thì sư sắp sửa lên
đường. Hỏi sư có mất gì không thì nhà sư nói không mất gì. Mẹ
con nhà kia đem cái dẫn khánh cho nhà sư xem và nói là của nhà
sư, không rõ vì sao lại đẻ từ bụng ngựa ra. Nhà sư nhìn cái
dẫn khánh, nghe nói vậy cũng sợ hãi mồ hôi đầm lưng, bèn làm
bài kệ rằng: “Nhật tập nạp y nhất trương bì, tứ cá nguyên bảo
tứ cá đê. Nhược phi lão sư định lực túc, cơ dữ chữ gia tác mã
nhi” (một nếp áo sư là một bộ da, bốn đĩnh bạc là bốn móng
chân ngựa, nếu không phải lão tăng này có định lực mạnh, cơ hồ
đã trở thành con ngựa con nhà bà rồi). Đọc hết bài kệ, nhà sư
đem chiếc áo và bốn đĩnh bạc trả lại cho mẹ con nhà kia, rồi
dứt khoát lên đường đi học đạo.
-
Từ câu chuyện có
thể hiểu rằng, Tỳ khưu xuất gia, nếu không tu hành đúng phép
của bố thí của tín đồ khó mà tiêu hóa được. Có điều là, trong
thời mạt pháp ngày nay, những người xuất gia trong sạch biết
tự trọng không nhiều, đa số là hạng cơ hộitùy tiện thả mình
trôi theo dòng nước, thậm chí có người cam tâm bỉ tục. Nhưng
trên lập trường những tín đồ hộ trì chính ppháp thì không nên
chê cười lỗi lầm của người tu hành, vì như vậy vô ích cho Phật
giáo lại có ảnh hưởng bất lợi cho Phật giáo.
-
Trong Phật giáo vẫn
lưu hành câu nói: “Tiền đến sơn môn, phúc về thí chủ”. Người
xuất gia có dụng công tu hành đúng pháp hay không, đó là việc
của người xuất gia. Là một nhà sư có đạo hẳn có công đức, là
một hòa thượng vô đạo thì phải có lỗi. Thí chủ phát tâm cúng
dườnglà theo đạo không theo người. Người có thể có chỗ chưa
được tốt, nhưng pháp thì vĩnh hằng là chân lý, cứ làm theo
pháp, không thể sai lầm. Bố thí người nghèo khổ thì có công
đức bố thí người nghèo khổ, cúng dường Tam Bảo, thì có công
đức cúng dường Tam Bảo, và công đức này chỉ thuộc về bản thân
người bố thí và cúng dường, không ai được chia sẻ một li một
tí, cho nên một Phật tử tại gia, nên đứng trên lập trường bản
thân, mọi cái khác có thể không quản, để tránh mang tiếng chê
bai tăng ni. Người tu tại gia cố nhiên nên như vậy, người xuất
gia tu hành nên thể niệm tấm lòng xuất thế của Phật Đà, qua bi
trí song hành của tu phát tâm Bồ đề mà báo oán đền ơn thí chủ,
thành tựu hành công đức tu kỷ hóa tha. Ấy là nhân duyên phát
tâm Bồ Đề thứ tư.
--o0o--
|
|