|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
GIẢI THÍCH CHÍNH VĂN
-
-
III- BIỆT THÍCH (Giải
thích riêng biệt)
-
“Niệm Phật trọng ân
phát tâm Bồ Đề”.
-
-
8- Sám hối nghiệp
chướng mà phát tâm Bồ Đề
-
Vì sao phải sám hối
nghiệp chướng? Kinh nói phạm một tội cát la, như Tứ Thiên
vương tuổi thọ năm trăm năm tuổi xuống nê lê địa ngục. Cát la
là tội nhỏ mà còn khổ báo như thế, huống gì tội nặng? Khổ báo
khó mà nói hết!.
-
Đây là nhân duyên
phát tâm Bồ đề thứ tám: sám hối nghiệp chướng mà phát tâm Bồ
đề. Phàm là đồ đệ Phật, hẳn là rất quen với hai chữ “nghiệp
chướng”. Nghiệp có ba loại khác nhau: thiện nghiệp, ác nghiệp
và vô ký nghiệp, nhưng thứ nghiệp cần sám hối để tiêu trừ thì
nặng về ác nghiệp, do gây tội ác mà có. Người ta một khi tạo
ra ác nghiệp thì sẽ gặp những chướng ngại trong quá trình tu
hành, cản trở tu hành tinh tiến thuận lợi. Điều này đã nói sơ
qua trên kia, chỉ khi nêu ra mười nhân duyên phát tâm bồ đề.
-
Khi chúng ta gặp
chướng ngại do ác nghiệp tạo ra thì phải làm thế nào? Theo
Phật pháp , chỉ có một cách duy nhất là sám hối để trừ bỏ, làm
cho tâm địa chúng ta thanh tịnh trở lại. Đó là biện pháp thích
đsang nhất. Như muốn đi qua một con đường nào đó mà trên mặt
đường có một tảng đá to vướng lối đi, thì tất nhiên và trước
hết phải vần tảng đá đó đi thì mới có thể đi được.
-
Nên biết rằng tảng
đá lớn cản trở đường cũng giống như nghiệp chướng. Hành giả
Phật pháp có nghiệp chướng tội ác, bất luận đi con đường nhân
gian, đường giải thoát hayđường lớn Bồ Đề đều sẽ gặp những
chướng ngại ở những dạng thức khác nhau, làm cho cảm thấy
không thuận lợi trên đường tiến tới
-
Nghiệp chướng ai ai
cũng có, không ai phủ nhận được, chỉ có nặng nhẹ khác nhau mà
thôi. Đã là người đều có nghiệp chướng thì khi muốn bước lên
con đường lớn Bồ đề, không sám hối sao được! Cho nên trong
Pháp môn của Phật Đà có môn sám hối. Pháp uyển châu lâm nói:
có một loại người ngu si thường nghĩ rằng: chỉ cần ta không
làm ác thì cũng tức là làm thiện rồi, có gì phải sám hối?
Người đời nghĩ như vậy không phải là số ít. Lại thường nghe có
người nói rằng: chỉ cần tâm tốt là được, cần gì phải tin Phật
niệm Phật? Thậm chí còn có người nói: tâm tốt còn hơn ăn chay.
Những cách nói như vậy đều sai, không những có hại cho mình,
mà còn gây hại cho những người không phân rõ trái phải tà
chính. Những người như vậy, không biết có cái gì tác quái
trong tâm họ mà khi thấy người chay tịnh tin Phật họ không
những không thích, không khen mặt thiện của người, mà còn
không chút xấu hổ, chỉ lấy mồm miệng che đậy lỗi lầm.
-
Trong kinh Phật đã
phê phán những người như thế: nếu nói chưa làm ác tức là làm
việc thiện, thì chưa làm việc thiện phải chăng cũng là làm ác?
Nếu cái lý luận chưa làm việcác cũng như làm việc thiện cũng
có thể đứng vững được , nếu không thừa nhận chưa làm việc
thiện tức là làm điều ác, thì cũng không thể thừa nhận chưa
làm ác tức là làm việc thiện. Từ cái lý mà Phật đã gợi ra này,
có thể thấy cái lý luận chưa làm điều ác tức là làm việc thiện
là hoàn toàn sai lầm, không thể coi là lý do được. Về điều
này, Phật còn nêu thí dụ để làm rõ: nếu chưa làm điều ác cũnh
như làm việc thiện, thì các loại súc vật nhân gian như lợn,
ngựa, bò, dê có làm các điều ác như giết choc, trộm cắp và
những tội khác mà loài người thường phạm đâu, phải chăng các
loài súc vật đó có thể coi như việc thiện? Nếu phủ định điều
này, thì những quan niệm sai lầm đều phải diệt trừ tận gốc mà
không chút nhân nhượng. Không như vậy thì người ta sẽ đi đến
những ý nghĩ không đúng, còn ai tu hành thiện pháp?
-
Đã là người thì ai
cũng có nghiệp chướng, đương nhiên phải sám hối: “Vì sao phải
sám hối nghiệp chướng?” Về vấn đề này, xin kể một câu chuyện:
khi Phật còn trụ thế có một người đàn bà tại tục, tên gọi là
Đề Vi, bà ta nhà nghèo lại góa chồng, đã thiếu sự an ủi của
chồng lại gặp khó khăn quẫn bức trong đời sống đến nỗi bà ta
thấy cuộc sống không còn lạc thú gì, cảm thấy tội nghiệp của
mình rất sâu nặng, muốn đi con đường tự hủy diệt, cho rằng
chết đi thì mọi nghiệp chướng cũng không còn, thân tâm sẽ hoàn
toàn giải thoát.
-
Khi bà ta đang do
dự bên miệng hố sinh tử thì một Tỳ Khưu xuất hiện trước mặt.
Biết được dụng ý của người đàn bà, Tỳ Khưu khai thị bà ta
rằng: con bò già kéo một chiếc xe đi tới, cảm thấy xe nặng,
khốn khổ, muốn xéo gãy nát chiếc xe đang kéo, cho rằng xe gãy
thì nó không phải vất vả kéo xe nữa, thân tâm sẽ khỏi khổ. Nó
biết đâu rằng chiếc xe này bị xéo nát, chiếc xe khác sẽ được
trồng lên cổ nó, hơn nữa chiếc xe mới sẽ còn nặng hơn, làm nó
khổ sở hơn. Từ đó có thể thấy rằng, hủy chiết xe trước không
phải là biện pháp giải thoát.
-
Con bò già mà Tỳ
Khưu nói là để ví với người, chiếc xe bò kéo là ví thân thể
người. Những người ngu si ở thế gian, cảm thấy cuộc đời đau
khổ, muốn hủy diệt một cách không chính đáng sinh mệnh của
mình, cho rằng chết là xong tất cả, mọi cái đều trở thành quá
khứ. Không biết rằng như vậy là hoàn toàn sai. Nên biết rằng,
khi một sinh mệnh kết thúc, do nhân duyên nghiệp chướng, một
sinh mệnh mới sẽ tiếp đến. Mà cái sinh mệnh mới tiếp đến này,
không ai có thể đảm bảo, không ai có thể nắm chắc là sẽ tốt
hơn sinh mệnh cũ. Thế thì, hà tất phải hy sinh cái sinh mệnh
đáng quý này?
-
Tỳ khưu sau khi đưa
ra cái thí dụ trên cho Đề Vi lại nói tiếp: như mặt trăng trên
trời vốn là sáng, vì bị mây đen che khuất, cho nên ánh sáng bị
che chắn. Cái mặt trăng tâm chúng ta, vốn cũng sáng, chỉ vì
cái nghiệp kiếp trước, ánh sáng tâm người bị tội nghiệp che
khuất, vì thế cảm thấy cuộc sống đau khổ. Muốn khỏi phải chịu
khổ quả, trước hết phải trừ bỏ khổ nhân, trừ bỏ tội nghiệp của
khổ nhân, cái biện pháp duy nhất vô nhị là chí thành sám hối.
Nếu biết sám hối thì sẽ như bó đuốc xua tan bong tối, mọi hắc
ám của tội nghiệp.
-
Nhờ ngọn đuốc lớn
chiếu rọi sẽ tự nhiên trở thành không có.
-
Từ sự gợi ý của Tỳ
khưu, chúng ta có thể biết rõ: Sống làm người trên thế gian
này, không sợ thừa nhận có nghiệp, chỉ sợ không sám hối trừ bỏ
nghiệp chướng.Không cố gắng về mặt này mà sợ, không dám thừa
nhận nghiệp chướng thì mới thực sự là không phương cứu chữa.
Người ta học Phật pháp, nên thừa nhận nghiệp chướng của mình
là nặng, tiến lên theo phương pháp sám hối mà Phật đã dạy mà
sám hối một cách chí thành khẩn thiết.
-
Bây giờ xin giải
thích từ sám hối
-
1-Sám là tự thú,
hối là phục. Như người thế gian đắc tội với vua,ngoan ngoãn
thuận phục, không dám trái.Không trái tức là phục, thuận phục
tức là tự thú. Người tu học Phật pháp cũng vậy, phủ phục dưới
chân Tam Bảo, thuận phục đạo lý chư pháp, từ đó không dám làm
sai trái, thì gọi là sám hối. 2- Sám là tu việc tới, hối là
sửa việc đã qua, việc ác bất thiện đã làm ngày trước, bây giờ
biết rõ là không đúng. Thế là ghét bỏ, xa lánh điều không đúng
đã làm gọi là hối. Còn những thiện pháp trước đây đã bị dứt bỏ
thì nay biết là phải làm, và từ nay về sau, tinh tiến dũng
mãnh tu tập, cho nên gọi là sám. Nói chung lại “khi vãng cầu
lai” (vứt bỏ quá khứ, tìm đến tương lai) gọi là sám hối. 3-
Những điều sai đã làm đem bày ra, mọi tội lỗi đem bộc lộ hết,
không chút che đậy, giấu giếm gọi là sám, từ bỏ dứt trừ cái
tâm làm ác,, dứt bỏ mọi ý nghĩ làm ác, thì gọi là hối. Như
thế, dứt bỏ hết cái tâm làm ác, cái việc làm ác gọi là sám
hối.
-
Sám hối không thể
tùy tiện mà được, phải có chỗ thích đáng, chỗ sám hối lý tưởng
nhất, không gì hơn là dựa vào pháp tính, đây là chỗ sám hối
tối diệu, tối thượng, là chỗ sám hối cao hơn hết thảy. Hành
giả sám hối nghiệp chướng, nếu như thật sự hiểu cái ý nghĩa
đó, trước hết nên tìm đạo lý pháp tính làm chỗ sám hối. Tìm
được chỗ đó rồi thì làm gì tiếp theo? Phổ Hiền quán nói: “Ngồi
ngay ngắn niệm thực tướng, các tội như sương mócm mặt trời trí
tuệ có thể tiểu trừ. Tâm ta tự không, phúc tội vô chủ, thế gọi
là đại sám hối., thế gọi là trang nghiêm sám hối, thế gọi là
vô tướng sám hối”. Hành thực tướng sám hối chỗ y pháp tính,
thì những tội ác ta quán sẽ không còn là tội ác, tội ác lúc đó
sẽ thành thực tướng, phúc đức mà ta quán cũng không còn là
phúc đức, phúc đức lúc đó sẽ thành thực tướng. Mọi tội phục
thuần là thực tướng, ngoài thực tướng ra không còn tội phúc gì
khác cả, thế gọi là chân thực sám hối. Mấy câu thường nói:
“Tội sinh từ tâm, đem tâm sám hối, khi tâm diệt thì tội cũng
không, tâm mất tội diệt thảy là không, sám như vậy là chân”
cũng chính là biểu hiện của tinh thần sám hối đó.
-
“Kinh nói: phạm một
tội cát la, như Tứ Thiên vương thọ năm trăm tuổi phải đày
xuống địa ngục nê lê”. Nói đến tội ác, khỏi phải nói, có tội
nặng nhẹ khác nhau. Tội nặng nhất là 4 tội ba la di; tội nhẹ
nhất là tội Đột cát la, cũng tức là tội cát la đã nói trong
bài này. Đột cát la là tiếng Ấn Độ, Trung Quốc dịch là ác tác,
ác thuyết (việc làm ác lời nói ác) Ác tác là chỉ tội do thân
gây ra; ác thuyết là tội do miệng gây ra. Bất luận là do thân
phạm hay miệng phạm, chỉ cần thuộc loại tội cát la thì nói
chung đều là tội nhỏ, nhẹ nhất. Hãy nói một Tỳ khưu khi khoác
áo, phải khoác cẩn thận lên mình, nếu vấn áo lên cổ, hoặc trùm
áo lên đầu thì đều là phạm tội đột cát la. Lại như đi đường
không để ý đến uy nghi của mình mà tỏ ra khinh xuất coi thường
thì cũng phạm tội đột cát la. Tuy nói rằng đi đứng không đến
nỗi gì ảnh hưởng đến người khác, nhưng đã là Tỳ khưu thì vẫn
phải để ý giữ gìn. Còn nữa, Tỳ khưu mà tư thái ngồi không ngay
ngắn nghiêm trang, cũng tức là phạm tội đột cát la. Trên đây
là nói tội do thân phạm. Còn tội do miệng phạm thì thí dụ như
nói năng khinh bạc cười cợt, khi đang ăn, vừa ăn vừa nói, hoặc
nói với người khác mà không dùng lời lẽ đúng phép v. v… đều là
phạm tội đột cát la.
-
Phạm tội đột cát la
thì dễ dàng sám hối, chỉ cần sau khi phạm không lâu thì bộc lộ
với người khác, tỏ ra sám hối là tội có thể tiêu trừ; còn như
nếu đã phạm mà không sám hối thì dù chỉ phạm một tội cát la
rất nhỏ sau khi chết cũng sẽ bị đày xuống nê lê địa ngục. Một
khi đã bị đày xuống nê lê địa ngục thì sẽ phải chịu tội ở dưới
đó trong một thời gian dài dằng dặc, không thể thoát ra sau
một thời gian ngắn. Trên kia đã nói, tuổi thọ của người ở Tứ
Thiên vương thiên là năm trăm tuổi, tuổi thọ của người nhân
gian không thể sánh được. Một ngày đêm ở Tứ Thiên vương bằng
năm mươi năm ở nhân gian. Cứ ba mươi ngày tính là một tháng,
thì một tháng ở Tứ Thiên vương thiên dài bằng một nghìn năm
trăm năm nhân gian. Cứ mười hai tháng tính là một năm, thì một
năm Tứ Thiênvương thiên dài bằng một vạn tám nghìn năm nhân
gian. Tuổi thọ ở Tứ Thiên vương thiên là năm tram tuổi, cứ thế
mà tính, năm trăm năm ở đây dài bằng chín triệu năm ở nhân
gian. Chư vị thử nghĩ xem: phạm tội nhỏ cát la mà phai chịu
khổ báo lâu dài như vậy có đáng sợ không?
-
Đột cát la là tội
nhẹ, bình thường có thể bỏ qua. Thế mà “phạm một tội nhỏ cát
la, khổ báo đến như vậy, huống gì phạm trọng tội thì khổ báo
đến mức nào, thật khó nói hết”.
-
Đến đây, có một vấn
đề cần nêu ra thảo luận:
-
Phạm một tội nhỏ
cát la có thể sám hối, thế thì phạm tội nặng ba la di có thể
sám hối không? Vì vấn đề này, quan niệm của các bộ phái khác
nhau. Có phải cho rằng, phạm trọng tội không thể sám hối được,
vì phạm trọng là đã mất giới thể. Một Tỳ khưu đã mất giới thể
thì cũng mất luôn tư cách Tỳ khưu. Có phải lại cho rằng, dù đã
phạm trọng tội cũng vẫn có thể theo pháp mà sám hối thanh
tịnh, mà trở thành một Tỳ khưu đúng phép. Hai quan niệm này
đều có thể tìm được căn cứ trong kinh. Có kinh nói không thể
sám hối, có kinh nói có thể sám hối. Quan niệm trước nói chung
có thể hiểu, còn quan niệm sau có người không cho là như vậy.
Ở đây xin căn cứ vào kinh mà trình bày như sau:
-
Một lần Phật nói
với Xá Lợi Phất rằng: trước kia có một Tỳ khưu tên là Hân
Khánh đã từng phạm tứ căn bản giới, sau đó vào Tăng đoàn tự
bộc lộ với mọi người, qua chín mươi chín đêm không nghĩ, không
ngũ, xin được sám hối một cách khẩn thiết chí thành, thế là
“giới căn vẫn sinh như lúc đầu mới thụ giới”. Từ đây có thể
nói, đã phạm bốn giới luật căn bản, vẫn có thể sám hối được,
nhưng phải chí thành khẩn thiết phát lộ sám hối thì mới có thể
sám hối thanh tịnh, không phải qua quít mà lại sinh giới căn
được.
-
Một bộ kinh khác có
quan niệm hơi khác. Phật bảo Tỳ khưu: phạm bón giới căn bản,
cố nhiên có thể sám hối, nhưng phải nói cho người khác biết
ngay sau khi phạm tội, không được che giấu chút nào, nếu che
giấu tội đã phạm thì không những không thể sám hối tiêu trừ mà
còn phạm thêm tội che dấu tội lỗi.
-
Theo những điều đã
nói trên, có thể hiểu rằng bất cứ tội gì cũng có thể sám hối,
vấn đề chỉ là tội nặng hay nhẹ mà phải vận dụng phương pháp
sám hối khác nhau. Phương pháp sám hối phải đúng phép và cái
tâm cầu xin sám hối càng phải khẩn thiết chí thành. Như vậy,
không có tội gì không thể sám hối thanh tịnh.
-
Nay chúng ta trong
sinh hoạt hàng ngày, nhất cử nhất động luôn luôn phạm giới
luật, ăn cơm uống nước phạm thi la.
-
Tứ chúng Phật tử
chúng ta ngày nay, trong đời sống hàng ngày, nhất cử, nhất
động cùng luôn luôn phạm vào giới luật của Như Lai. Các vị chớ
nên nghĩ rằng đây là nói qua sự thật là như vậy, vì giới luật
là rất tỉ mỉ chi tiết, chỉ hơi không lưu tâm một tí là trái
với giới luật. Như Tử Bách đại sư rất nổi tiếng, hơn bốn chục
năm trời lưng không chạm chiếu, vẫn tự nhận rằng chưa thể trì
giới thanh tịnh đúng phép, không dám thụ giới sa di, Tỳ khưu
cho người khác. Khi bất đắc dĩ không thể thoái thác được cũng
chỉ thụ ngũ giới mà thôi. Lại như Ngẫu Ích đại sư tuy đã thụ
giới Tỳ Khiêu, sau đó cảm thấy mình chưa đủ tư cách một Tỳ
khiêu đã tự động rút xuống bậc tam quy, về sau tinh thiến dũng
mãnh tu chiếm sát sám, cầu đượcquẻ thẻ Bồ Tát, mới tự nhận là
Bồ Tát sa di. Tỳ khiêu giới cực kỳ tỉ mỉ, trong đời sống
thường ngàynếu không chú ý thật chặt chẻ thì khó có thể thủ
trì thanh tịnh. Thái Hư đại sư từng khiêm tốn nói: “Tỳ khiêu
không phải là Phật vị thành”, Hoàng Nhất luật sư cũng khiêm
tốn nói: “Nói ngay như tôi, về Bồ Tát giới chỉ có danh không
có thực, sa di giới và Tỳ khiêu giới quyết hẳn là chưa được,
chính ngay ngũ giới cũng không dám nói là hoàn toàn, chỉ có
thể nói là ưu bà tắc (thiện sĩ)xuất gia mà thôi. Đây là nói
thật có thể thấy muốn làm một Tỳ khưu đúng phép, còn khó hơn
làm một Bồ Tát!
-
Không chỉ nhất cử
nhất động thường vi phạm giới luật Như Lai, cả đến “Ăn cơm
uống nước” cũng “luôn phạm thi la”. Thi la là tiếng Ấn Độ,
dịch ra tiếng Trung Quốc là “thanh lương” (trong mát), cũng là
một tên khác của “giới”. Đại thừa nghĩa phương nói: “cái gọi
là thi la, cũng tức là thanh lương, cũng tức là giới. Cái sai
trái tam nghiệp thiêu đốt hành giả. Sự và nghiệp như nhiệt,
giới có thể dập tắt được nên gọi là thanh lương. Cái tên thanh
lương là trái nghĩa với nó (chỉ nghiệp-ND). Vì có thể phòng,
ngăn, nên gọi là giới, Đại trí độ luận đã giải thích từ thi la
như sau: thi la tiếng Tần (các nước Tây vực xưa gọi Trung Quốc
là Tần-ND) là tính thiện. Thích Ca làm việc thiện, không tự
buông thả mình gọi là thi la. Có người thụ giới làm việc
thiện, có người không thụ giới mà làm việc thiện đều gọi là
thi la”. Như vậy thi la thông nghĩa với thiện hạnh. Người có
thể xa lìa tội ác mà làm các việc thiện, tất nhiên sẽ cảm thấy
yên tâm, thoải mái và phải đạo. Nhìn mình nhìn người đều không
có gì phải hổ thẹn, đương nhiên lòng không nóng nay sầu não mà
cảm thấy thanh thản, tự tại lìa xa mọi thứ uế ác.
-
Ăn cơm uống nước
hàng ngày vì sao cũng nói là phạm thi la? Đó là vì trong khi
ăn cơm uống nước không thể tránh được việc thương tổn tàn hại
bao nhiêu sinh vật nhỏ bé. Nói “Phật nhìn một bát nước, bốn
vạn tám nghìn con trùng” là vậy. Đây cũng có thể coi là tá
chứng của việc phạm thi la trong ăn uống. Ấn Thuận đạo sưđã
từng nói: “Thụ giới dễ mà giữ giới khó”. Thụ giới dễ dàng bao
nhiêu! Chỉ cần làm những nghi thức cần thiết trước chúng sư
truyền giới thì có thể coi là đã thụ giới rồi. Nhưng thụ giới
rồi, muốn trì thụ thanh tịnh thì lại khá khó khăn. Vì thế Phật
nói: “Ở Diêm phù đề phương nam này nếu có năm Tỳ khưu thanh
tịnh đúng phép, thì chính pháp có thể trụ thế rồi. Trong thời
mạt pháp ngày nay, chưa nói là khó tìm được năm người Tỳ khưu
thanh tịnh đúng phép, dù chỉ muốn tìm một thanh niên phát tâm
xuất gia cũng đã không dễ dàng rồi. Vốn dĩ, thế tục nói:
“Người ta không phải thánh hiền, ai có thể không có lỗi lầm?
Phật pháp nói; “Người chưa chứng quả, ai có thể không phạm
giới”?Vấn đề là có thể sửa chữa lỗi lầm và sám hối hay không.
“Quá nhi năng cải, thiện mạc đại yên” (có lỗi mà sửa được, thì
đó là việc không điều thiện nào lớn hơn). “Phạm tội phải sám
hối, sám hối có thể trở thành thanh tịnh”. Trên lập trường
Phật pháp mà nói: có thể không phạm giới đương nhiên là tốt
nhất, nhưng một khi đã phạm giới thì nên thấy hổ thẹn, thấy đó
là nghiệp chướng của mình, luôn luôn đòi hỏi sám hối thanh
tịnh. Còn nếu đã phạm giới mà vẫn cho là đúng, thì đó là tội
lỗi không thể tha thứ.
-
Tội lỗi phạm trong
một ngày cũng đã là vô lượng, huống gì tội lỗi đã phạm suốt
đời suốt kiếp, thì thật không thể nói hết.
-
Tội lỗi mà thân
tâm, hành vi hoạt động của ta đã phạm trong một ngày từ sáng
đến tối đã là vô lượng vô biên, huống gì tội lỗi đã phạm cả
đời suốt kiếp? Độ nhiều của những tội lỗi đó thật là không thể
nói hết. Tội lỗi của chúng sinh đã gây ra không thể tính . Nếu
như nó có thể tính, thì như Phật nói trong Phổ Hiền hành
nguyện phẩm: tận hư không biến pháp giới cũng không chứa hết
tội lỗi đã gây ra. Thử nghĩ có bao nhiêu là tội?
-
Hãy lấy ngũ giới mà
nói, mười người thì chín người phạm, lộ ra thì ít, che giấu
thì nhiều. Ngũ giới gọi là ưu bà tắc giới, còn chưa thể thủ
trì đầy đủ, huống gì sa di giới, Tỳ khưu giới, Bồ tát giới v.
v… thì càng bất tất phải nói.
-
Phật đã quy định
giới luật khác nhau cho thất chúng đệ tử, nay “hãy lấy ngũ
giới mà nói”. Ngũ giới là giới luật giành riêng cho những Phật
tử tại gia gồm: không sát sinh (bất sát), không trộm cắp (bất
đạo), không tà dâm (bất tà dâm) không nói dối (bất vọng ngữ)
và không uống rượu (bất ẩm tữu). Người thụ ngũ giới rất nhiều,
nhưng mười người thụ giới, thì có lẽ đã chín người phạm giới.
Người có thể thủ trì thanh tịnh là rất ít, rất ít, đã thế
những tội lỗi phạm giới phát lộ ra thì ít mà che giấu thì
nhiều. “Ngũ giới gọi là Ưu bà tắc (thiện nam, thiện sĩ) giới,
mà còn khó trì thủ đầy đủ, viên mãn huống gì sa di giới, tỳ
khiêu giới, Bồ tát giới khó giữ hơn nhiều thì bất tất phải nói
nữa. Sa di phải giữ mười giới, Tỳ khưu phải giữ 250 giới, Bồ
tát có ba tụ tịnh giới, hoặc Phạm võng kinh nói mười giới
chính và 48 giới phụ, hoặc như Ưu bà tắc giới kinh nói 6 giới
chính loại 8 giới phụ. Các loại giới nói trên đều khó giữ cho
thanh tịnh đúng phép. Nhất là Bồ Tát giới so với Tỳ Khiêu
giới, thì về đại thể, Bồ tát giới không khắt khe về tiểu tiết,
nhưng trên thực tế thì khó giữ hơn nhiều. Bởi vì Tỳ khưu giới
thì phải qua việc làm và lời nói mà coi là phạm giới, còn Bồ
Tát giới thì tính từ tâm, chỉ cần nói có một chút ý nghĩ bất
chính đã coi là phạm giới rồi. Lấy những việc bình thường hàng
ngày mà nói: một người đã thụ giới Bồ Tát, tuyệt đối không
được nói lời của tứ chúng. Xem ra ngày nay số người thụ giới
Bồ Tát rất nhiều nhưng đã có mấy người giữ được điều giới này?
Nhưng chư vị không nên vì thấy giữ giới khó khăn mà không dám
thụ giới, nên biết rằng thụ giới có công đức của thụ giới, thụ
giới mà có thể giữ giới, công đức của nó cũng là vô lượng.
-
Hỏi danh nghĩa thì
nói rằng tôi là Tỳ khiêu. Nhưng thực chất thì chưa đáng là Ưu
bà tắc, há không đáng hổ thẹn sao?
-
Mấy câu này là nhằm
vào Tỳ khiêu. “Hỏi danh nghĩa thì trả lời là Tỳ khưu, nhưng
hỏi thực chất thì vẫn chưa xứng là ưu bà tắc tại gia học Phật.
Hữu danh vô thực, danh thực không phù hợp nhau như thế, chẳng
lẽ không cảm thấy hổ thẹn hay sao? Hiện tượng này vẫn tồn tại
trong Phật giáo từ xưa, nhưng nay nghiêm trọng hỡnưa mà thôi.
Phật giáo đến ngày nay, có thể nói là suy bại đến cùng cực!
Tìm căn nguyên của hiện tượng này, thì căn bản là do tăng lữ
ngày càng kém cỏi, mà sở dĩ tăng lữ ngày càng kém, thực ra là
vì giới học bị buông lỏng. Kéo dài mãi hiện tượng này thì tiền
đồ của Phật giáo thật là khó mà tưởng tượng nổi.
-
Nên biết được rằng
không thụ Phật giới thì thôi, đã thụ giới thì không được phạm
giới. Không phạm giới thì thôi, khi đã phạm giới thì cuối cùng
ắt phải rơi vào tam ác đạo.
-
Anh lạc bản nghiệp
kinh nói: “Mọi chúng sinh khi mới vào biển Tam Bảo, phải lấy
lòng tin làm gốc; xuất gia tu Phật phải lấy giữ giới làm gốc”.
Cho nên làm một đẹ tử Phật, nhất là Phật tử xuất gia tu hành
thì phải thụ giới, trì giới. Điều này cũng như ra nhập bất cứ
một đoàn thể xã hội nào thì đều phải tuân thủ điều lệ của đoàn
thể đó. Hơn nữa, trong kinh Di giáo, Phật đã đặc biệt răn dạy
chúng ta: “nếu như người ta có thể trì giới thanh tịnh thì tất
sẽ có thiện pháp. Nếu không trì giới thanh tịnh thì mọi công
đức thiện đều không yên ổn thứ nhất của công đức”. Phật Đà sở
dĩ nhiều lần răn dạy đệ tử phải thụ giới, trì giới “nên biết
rằng những giới cấm của Phật “, không thụ giới thì thôi , một
khi “đã thụ giới” thì không thể phạm giới. Vì đây là căn bản
của mọi thiện pháp, là cánh cửa lớn đóng cặt ác thú, là chỗ
xuất phát để người ta vươn lên, là chính nhân để hướng về giải
thoát. Nếu đã thụ giới mà lại phạm giới thì cuối cùng ắt phải
“rơi vào tam ác đạo” để hứng chịu khổ quả của tam ác đạo, vĩnh
viễn khó mà thoát ra.
-
Trí độ luận kể câu
chuyện như sau: có một người nghèo khó, vì đói khổ không biết
dựa vào đâu, nên ngày ngày cầu trời xin của cải, trước sau đã
cầu khẩn mười hai năm. Thời gian mười hai năm đâu có ngắn ngủi
gì, do đó đã làm trời cảm động. Một hôm thiên thần bỗng hiển
hiện trước mặt người nghèo khổ kia và hỏi rằng: “Ngày nào
ngươi cũng thành kính xin ta , ngươi muốn xin cái gì?” “Con từ
nhỏ đến nay nghèo khổ, cho nên điều cầu xin duy nhất của con
là làm sao từ nghèo chuyển thành giàu để con được chút vui
sướng”. Người nghèo khổ trả lời thiên thần như vậy. Thiên thần
nghe rõ lời cầu xin của người nghèo liền ban cho người ấy một
lọ quý kỳ diệu. Cái lọ quý kì diệu ở chỗ nó có thể biến hóa vô
cùng, trong lòng muốn gì thì cái lọ quý lập tức biến ra cái
đó, cầu gì được nấy, chưa bao giờ người ngheo kia phải thất
vọng. Thế là cái người nghèo gặp vận may đó, chẳng mấy chốc
không những có nhà đẹp, lại có cả áo đẹp, thất bảo, thật đúng
như người trời đã nói, nghĩ được áo, nghĩ ăn được ăn, muốn nhà
có nhà, muốn xe có xe, nhờ đó lập tức trở thành một phú ông
giàu có. Sự giàu lên đột ngột của ông ta làm bạn bè ông ta chú
ý, mọi người đèu kinh ngạc hỏi ông ta có cái nguyên nhân gì đã
giúp ông ta giàu lên trong một thời gian ngắn. Ông ta cũng vui
vẻ kể lại đầu đuôi việc thiên thần ban cho ông cái lọ quý, lại
còn đắc ý đứng trên cái lọ quý hoa chân múa tay. Ngờ đâu khi
ông ta đang cao hứng nhảy múa như vậy, cái lọ bỗng vỡ ra, nhà
đẹp áo đẹp và mọi cái khác trong khoảng khắc không thấy đâu
nữa, giấc mộng đẹp của ông ta vụt tan biến. Câu chuyện này
muốn nói: Một người đã thụ giới thì mọi công đức, pháp tài có
thể từ đó mà nảy sinh, nhưng một khi đã phạm giới, tất cả công
đức sẽ vì vậy mà mất hết. Cho nên, sau khi đã thụ giới mà lại
phạm giới thì tất nhiên sẽ rơi xuống ác đạo. Trì giới khó khăn
như vậy, ai cũng không thể nắm chắ là không phạm giới chút
nào. Thế thì, khi đã phạm giới phải bố cứu thế nào?
-
Nếu không tự mẫn
mẫn tha, tự thương thương tha, thương mình thương người, tự
xót mình xót người, thân khẩu khẩn thiết miệng khấn lệ rơi,
cùng khắp chúng sinh cầu xin sám hối, thì ác báo nghìn đời
muôn kiếp khó thoát; Ấy là nhân duyên phát tâm Bồ Đề thứ tám
vậy.
-
Thụ giới rồi mà
phạm giới thì biện pháp bổ cứu duy nhất là cầu xin sám hối,
chỉ có đau buồn cầu xin sám hối thì tội nghiệp mới có thể tiêu
trừ, nếu không thế thì rất khó đạt được thanh tịnh. Vậy sám
hối thế nào? Trước hết phải tự mình thương mình vì sao đã gây
ra nhiều tội nghiệp đến thế? Từ mình suy ra người khác, thương
người khác tại sao cũng gây ra nhiều tội ác như mình. Tiến tới
đau lòng cho mình vì sao mê hoặc đảo điên như vậy? Từ mình suy
ra người khác vì sao cũng mê hoặc điên đảo như mình. Vì mình,
vì chúng sinh trong mê hoặc điên đảo đã đời đời kiếp kiếp tạo
ra tội ác, nay phải quỳ trước Tam Bảo kính thành lễ bái, miệng
thì bộc lộ tội lỗi, thân khẩu hai nghiệp cùng khẩn thiết như
vậy, miệng khấn lệ rơi, cùng khắp mọi chúng sinh “dau buồn cầu
xin sám hối” Thân và miệng cùng khẩn thiết là biểu thị tam
nghiệp cùng khẩn thiết đồng thời, vì họat động của hai nghiệp
thân và khẩu tất phải do sự thôi thúc của ý nghiệp, cho nên
trong thân khẩu là bao hàm cả ý nghiệp. Miệng khấn lệ rơi là
tỏ trạng thái chí thành khẩn thiết. Hai chữ “nếu không” (nhược
phi) trong bài là biểu thị ý giả dịnh. Giả định không cầu xin
sám hối như vậy, thì tội nghiệp không tiêu trừ được, thì như
Kinh nói: “giả sử qua trăm kiếp mà nghiệp đã gây ra không mất,
thì khi nhân duyên gặp nhau, quả báo vẫn tự mình gánh chịu”.
Như vậy, “muôn đời nghìn kiếp” rơi vào trong nẻo ác, mãi mãi
chịu mọi “ác báo” muốn trốn cũng không thể trốn thoát được,
thân thể trên thé gian này, trốn sự trờng trị của phép nước
còn có thể được. Chỉ có nghiệp báo là không có cách nào trốn
tránh được, “chỉ có sám hối có thể tiêu trừ nghiệp chướng”.
Chỉ có khi nào nghiệp chướng tiêu trừ, thì mới có thể không
phải chịu ác báo. Vì như thế cho nên, trong rất nhiều kinh,
Phật dạy mọi người phải sám hối, không chỉ vì mình mà còn phải
vì chúng sinh mà sám hối làm cho mình và chúng sinh đều sám
hối thanh tịnh, từ đó mà thâm tâm được giải thoát. Đây là nhân
duyên phát tâm Bồ đề thứ tám.
--o0o--
|
|