-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Thuyết Bốn Ðế
- GS MINH CHI
- Chủ
nhiệm bộ môn
- Tôn
giáo học và Phật giáo sử Việt
Nam
- Trường
Phật học cao cấp Thành phố Hồ Chí Minh
- 1996
- ---o0o---
-
- Phụ Lục Của
Phần B:
- B.1 Kinh hạt
muối:
-
Phật nói:
-
– Ví như này, hỡi các Tỳ Kheo có người bỏ một nhúm muối vào một
chén nước nhỏ, này các Tỳ Kheo, các người nghĩ thế nào, nước trong
chén nhỏ có vì nhúm muối nhỏ này mà trở thành mặn và không uống
được hay không?
-
– Thưa có vậy, Bạch Thế Tôn!
-
– Vì cớ sao?
-
– Bạch Thế Tôn, vì nước trong chén quá ít, nhúm muối làm cho nó
trở thành mặn, không uống được.
-
– Này các Tỳ Kheo, ví như có một người bỏ một nhúm muối như vậy
vào sông Hằng, hỡi các Tỳ Kheo, các người nghĩ thế nào? Nước sông
Hằng có vì nhúm muối đó mà trở thành không uống được hay không?
-
– Thưa không, Bạch Thế Tôn.
-
– Vì cớ sao?
-
– Bạch Thế Tôn vì lượng nước sông Hằng lớn, cho nên không bị mặn
và vẫn có thể uống được.
- Cũng vậy, này
các Tỳ Kheo! Ở đây có người làm việc ác nhỏ mọn, khiến người ấy
chịu khổ não. Lại này nữa các Tỳ Kheo, có người cũng làm một việc
nhỏ như vậy, nhưng ngay trong đời sống hiện tại, cũng đền bù hết
rồi, ngay một ít quả báo nhỏ cũng không còn lại ở đời sau, hà
huống là quả báo lớn...
- Như vậy, này các Tỳ Kheo! Có người
không tu tập thân, không giữ giới luật, không tu tập tâm, không tu
tập huệ, ít thiện, ít đức, hằng ngày sống khổ, người như thế, dù
phạm một tội ác nhỏ cũng làm nó khổ sở vô cùng.
- Như vậy, này
các Tỳ Kheo! Lại như có người có tu tập thân, giữ gìn giới luật,
có tu tập tâm, tu tập tuệ, làm nhiều điều thiện, sinh hoạt thoải
mái, người ấy dù có phạm một tội ác nhỏ, thì ngay trong cuộc sống
hiện tại, cũng đủ đền bù hết, dù một quả báo nhỏ cũng không phải
chịu trong đời sống sau, huống hồ là quả báo lớn.
- Này các Tỳ Kheo!
Ví như có người vì bị phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, 100 đồng
tiền mà phải vào tù. Lại có một người cũng bị phạt nửa đồng tiền,
một đồng tiền, hay 100 đồng tiền nhưng không phải vào tù.
- Này các Tỳ Kheo!
Bị phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, 100 đồng tiền mà phải vào tù
là ai đó?
- Này các Tỳ Kheo!
Người nào bần cùng, người đó không đủ sống, cho nên chỉ vì bị phạt
nửa đồng tiền, một đồng tiền, 100 đồng tiền mà phải vào tù.
- Này các Tỳ Kheo!
Bị phạt nửa đồng tiền, một đồng tiền, 100 đồng tiền mà không phải
vào tù, là ai vậy? Này các Tỳ Kheo! Người giàu có, tiền của dư dật,
thì dù bị phạt nửa đồng tiền, một đồng đến 100 đồng tiền (anh ta
nộp phạt dễ dàng), cũng không phải vào tù.
- Như vậy, này
các Tỳ Kheo, có một người phạm một chút ác nhỏ mà khỗ não. Lại nữa,
này các Tỳ Kheo, có một người cũng phạm một chút ác nhỏ như vậy,
nhưng trong cuộc sống hiện tại cũng đủ đền bù rồi, không còn chịu
quả báo ở đời sau, dù là nhỏ, chứ đừng nói gì một quả báo lớn.
-
(Tăng Nhứt A Hàm–bản Hán)
-
(Tham khảo thêm bản dịch từ Pàli trong Tăng Chi I, Kinh Pàli,
-
trang 284-290)
-
B.2 Hoặc duyên với nghiệp mà tạo ra sanh tử, sầu, bi khổ não
- DUYÊN KHỞI
- Từ Pàli là
Pratiya-samutpada, từ Sanskrit là paticca-samuppada. Nghĩa là y
duyên mà sanh khởi lên. Duyên là nhân duyên, cũng như hiện nay nói
điều kiện. Theo đạo Phật, tất cả mọi hiện tượng, sự vật ở thế gian
này sở dĩ tồn tại như vậy diễn biến như vậy là do có những điều
kiện nhứt định.
- Trong sách Phật,
thường có những câu hay đoạn câu: mọi pháp đều nhơn duyên sanh,
đều có tính duyên khởi, đều là y tha khởi; ý nói, mọi pháp (tức
mọi sự vật, mọi hiện tượng và quá trình) trong thế gian này không
thể tự mình tồn tại được mà dựa vào nhiều nhơn, nhiều duyên để tồn
tại. Từ y tha nghĩa là dựa vào y vào nhân duyên.
- Mọi sự vật ở
thế gian này đều biến động vô thường, nhưng sự biến động vô thường
ấy không phải là tự nhiên, hay ngẫu nhiên mà theo quy luật, tức là
quy luật nhơn duyên sinh. Đó là một sự biến động có điều kiện (nhơn
duyên).
- Bậc Thánh giác
ngộ là giác ngộ về những điều kiện diễn biến của sự vật, hiện
tượng và quá trình trên thế gian này. Bậc Thánh chỉ bày cho chúng
ta thấy rõ những điều kiện ấy, để chúng ta có thể chủ động đối với
chúng, chi phối chúng, thay vì để chúng chi phối ta, sai sử chúng
ta.
- Ý nghĩa cơ
bản của duyên khởi:
- Ý nghĩa cơ bản
của duyên khởi ở trong câu:
-
"Cái này có cho nên cái kia có,
-
Cái nàysinh, cho nên cái kia sinh,
-
Cái này không có cho nên cái kia không có,
-
Cái này diệt cho nên cái kia diệt".
- Hay là trong
câu:
- "Các pháp do
nhơn duyên sinh mà sinh, cũng do nhơn duyên diệt mà diệt".
- Thuyết duyên
khởi có tầm quan trọng hàng đầu đối với Phật Pháp cho nên có đoạn
kinh đồng nhứt thuyết duyên khởi với Phật Pháp:
- "Thấy Phật Pháp
tức là thấy duyên khởi, thấy duyên khởi tức là thấy Phật Pháp".
- Thuyết duyên
khởi dù là Phật giáo nguyên thủy hay Phật giáo Đại thừa, Phật giáo
Ấn Độ hay Phật Giáo Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam, được xem như tư
tưởng cơ bản của Phật giáo, là chủ thuyết khu biệt Phật giáo với
các tín ngưỡng khác, hệ tư tưởng khác.
- Thuyết duyên
khởi nói chung và thuyết duyên khởi giá trị:
- Quan hệ duyên
khởi là quan hệ thời gian, không gian và quan hệ logic của mọi
hiện tượng, sự vật trong thế giới, vũ trụ. Phật giáo, khi khảo sát
những mối quan hệ đó, không ở ngoài mục đích tìm hiểu ý nghĩa cứu
kính của nhơn sinh, nhằm trả lời câu hỏi: "Vì sao con người lại
tồn tại trên thế gian này, vì sao con người phải già, bịnh và chết,
chịu nhiều đau khổ? Khi nói thuyết duyên khởi giá trị là nói
thuyết Duyên khởi nhằm tìm hiểu giá trị của nhân sanh, cũng gọi là
thuyết Nội duyên khởi.
- Còn thuyết
Duyên khởi nói chung có tính chất bao trùm hơn, phổ quát hơn. Nó
không những áp dụngcho vấn đề nhân sinh, mà cả cho toàn bộ hiện
tượng, sự vật và quá trình xảy ra trên thế gian và trong vũ trụ
này. Định đề cơ bản của nó, như đã nói trên là:
-
Cái này có thì cái kia có,
-
Cái này sinh thì cái kia sinh,
-
Cái này không có thì cái kia không có,
-
Cái này diệt thì cái kia diệt...
- Tính phức
tạp của thuyết duyên khởi (giá trị)
- Quan hệ duyên
khởi vô cùng phức tạp. Theo quan điểm Phật giáo, mỗi con người,
ngay sau khi lọt lòng mẹ, đã là một tổng hòa của toàn bộ kinh
nghiệm quá khứ mà con người đã trải qua trong nhiều cuộc sống
trước. Những kinh nghiệm đó không có mất đi với thời gian, mà lưu
lại dấu vết trong thức A lại gia của con người đó, từ đời này sang
đời khác. Rồi sau khi lọt lòng mẹ, con người chịu sự tác động của
gia đình, trường học, xã hội... Tất cả những kinh nghiệm tiếp xúc
đó cũng không mất đi, mà vẫn tích lủy tiếp tục trong thức A lại
gia của con người đó, tạo ra cái gọi là nhân cách của con người đó.
- Con người sống trong một hoàn cảnh,
một môi trường nhứt định, con người chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh,
đồng thời cũng ảnh hưởng trở lại hoàn cảnh. Điều này đúng không
những đối với mặt đạo đức, mà cả về các mặt như thức ăn, đồ uống,
đồ mặc, nơi ở... Qua phân tích kinh tế, chúng ta thấy rất rõ, cuộc
sống dù là rất bình thường của một cá nhân chỉ có thể tồn tại và
tiếp tục, với sự hỗ trợ của biết bao điều kiện, nào nguyên liệu,
nhiên liệu, công lao động, vận tải, không những trong nước mà cả
ngoài nước nữa. Để có một gói mì ăn liền, phải có nguyên liệu bột
mì nhập, có cả một nhà máy kéo mì sợi, bột gia vị, giấy bao bì,
phương tiện vận tải để chuyển những gói mì thành phẩm đến người
tiêu thụ, thông qua một mạng lưới cửa hàng bán buôn, bán lẻ rải
rác khắp cả nước, không kể chi phí quảng cáo và một loạt các chi
phí khác có liên quan. Đó là nói chuyện một gói mì ăn buổi sáng,
giá bán không tới một nghìn. Cuộc sống hàng ngày của chúng ta còn
cần bao nhiêu thứ khác còn phức tạp hơn.
- Trong lãnh vực
văn hóa giáo dục, các mối quan hệ chằng chịt, đan chen lại càng
phức tạp hơn: quan hệ truyền thống văn hóa quá khứ ở trong nước và
quốc tế, quan hệ với các ngành giáo dục, in ấn, tuyên truyền, xuất
bản...
- Có thể nói sự
tồn tại và phát triển của bản thân chúng ta có liên quan mật thiết
và phức tạp với quá khứ , với xã hội và thế giới. Đó chính là chủ
thuyết pháp giới trùng trùng duyên khởi của Tôn Hoa Nghiêm nổi
tiếng. Nó cụ thể hóa quan điểm Phật giáo: "Một là tất cả, tất cả
là một" (nhứt túc nhứt thiết, nhứt thiết tức nhứt).
- Biểu minh họa
thuyết duyên khởi nói chung và thuyết duyên khởi giá trị
-
Thuyết duyên khởi nói chung:
-
Cái này sinh thì cái kia sinh: quan hệ thời gian
-
Cái này diệt thì cái kia diệt (các hạnh vô thường)
-
Cái này có thì cái kia có: quan hệ không gian logic
-
Cái này không có thì cái kia không có
-
Thuyết duyên khởi giá trị: Cũng gọi là nội duyên khởi.
-
(12 nhơn duyên và bốn đế)
-
Duyên vô minh, có hành (khổ quả)
-
Duyên hành có thức lưu chuyển (tất cả các hành là khổ (nhân) tập)
-
Duyên sanh có già chết... với tất cả mọi khổ não kèm theo.
-
Vô minh diệt cho nên hành diệt
-
Hành diệt nên thức diệt (Diệt (quả) Niết bàn vắng lặng)
-
Sanh bị diệt cho nên già chết cũng diệt: (Đạo (nhân))
- Qua biểu trên,
thấy: Vế "cái này sinh thì cái kia sinh, cái này diệt thì cái kia
diệt"... nói lên quan hệ thời gian trước sau. Còn, vế : "cái này
có thì cái kia có, cái này khỏng có thì cái kia không có", nói lên
quan hệ không gian và quan hệ logic.
- "Các hành đều
là khổ" nói lên mặt trái của giá trị, mặt mê vọng luân hồi. "Niết
bàn vắng lặng", nói lên mặt phải, mặt chính diện của giá trị, mặt
giác ngộ và an lạc.
- Các câu duyên
vô minh có hành, duyên hành có thức... duyên sanh, có già chết...
đó là chuỗi duyên khởi của mê vọng luân hồi.
- Các câu vô minh
diệt cho nên hành diệt, hành diệt cho nên thức diệt... là chuỗi
duyên khởi của giác ngộ và giải thoát.
- Trong bốn đế
thì hai đế khổ và tập là quan hệ nhơn quả dẫn tới lưu chuyển trong
vòng mê vọng luân hồi. Hai đế diệt và đạo là quan hệ nhơn quả dẫn
tới giác ngộ và giải thoát. Do dó, bốn đế eũng thuộc phạm vi
thuyết duyên khởi: lưu chuyển duyên khởi và giải thoát duyên khởi.
- Thuyết 12
nhơn duyên:
- Trong kinh
Nguyên thủy thuộc văn hệ Pàli, có đoạn văn giới thiệu 12 nhơn
duyên như sau : "Này các tỷ kheo! Thế nào là duyên khởi ? Này các
tỷ kheo! Duyên vô minh mà có hành, duyên hành mà có thức, duyên
thức mà có danh sắc, duyên danh sảc mà có sáu xứ, duyên sáu xứ mà
có xác, duyên xúc mà có thọ, duyên thọ mà có ai, duyên ái mà có
thủ, duyên thủ mà có hữu, duyên hữu mà có sinh, duyên sinh mà có
già chết, sầu bi khổ não sinh ra. Như vậy, là duyên khởi của tất
cả mọi đau khổ.
- Ngược lại, vô
minh diệt cho nên hành diệt, hành diệt cho nên thức diệt, thức
diệt cho nên danh sắc diệt... sáu xứ... xác... thọ.. ái... thủ...
hữu... Hữu diệt nên sinh diệt sinh diệt nên già chết, và mọi sầu
bi khổ não đều diệt. Như vậy, tất cả mọi đau khổ đều diệt."
- Trong 12 chi
nhơn duyên, hai chi đầu vô minh và hành thuộc về nhân của thời quá
khứ, năm chi thức danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ, là năm quả thuộc
thời hiện đại. Ðó là lớp nhơn quả quá khứ và hiện tại (hai nhơn
quả quá khứ và năm quả hiện tại).
- Ái, thủ, hữu là
ba nhân thuộc thời hiện tại. Sinh và già chết là hai quả thuộc
thời vị lai. Ðó là một lớp nhân quả nữa : ba nhân hiện tai và hai
quả vị lai. Ðó là lớp nhân quả thứ hai hiện tại và vị lai.
- Biểu sau đây
minh họa hai lớp nhân quả quá khứ hiện tại và hiện tại vị lai như
sau :
- Mười hai
duyên khởi
-
Vô minh tức là hoặc
-
hai nhân thời quá khứ
-
Hành tức là nghiệp
-
Thức, danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ....
-
năm quả thời hiện tại.
- Trên đây là lớp
nhân quả quá khứ hiện tại.
-
Ái thủ, hữu... Ba nhân thời hiện tại.
-
Sinh, già, chết... hai quả thời vị lai.
- Là lớp nhân quả
thứ hai : nhơn hiện tại quả vị lai.
- Cho nên gọi
thuyết 12 nhơn duyên gồm hai lớp nhơn quả, thuộc ba đời. Trong
biểu,
-
1) Vô minh tức là phiền não thuộc đời trước;
-
2) Hành là các nghiệp thiện ác tạo ra trong thời quá khứ.
-
3) Thức: Là dạng đầu tiên nhứt (sát na dầu tiên) của thân năm uẩn
trong thai mẹ.
-
4) Danh sắc: là tổ hợp thân tâm bắt đầu hình thành trong thai mẹ,
trong bốn tuần dầu tiên.
-
5) Sáu xứ (cũng gọi là lục nhập) là sáu căn năng. Ðến tuần thứ năm
thì bào thai đã có sáu căn đầy đủ.
-
6) Xúc : thai nhi lọt lòng mẹ, bắt đầu tiếp xúc với ngoại cảnh.
-
7) Thọ : là cảm xúc, vui, không vui...
-
8) Ái : thích thú đồ vật hoặc người thuộc giới tính khác.
-
9) Thủ : là vơ lấy nắm lấy làm của mình.
-
10) Hữu : cũng gỉống nghĩa chữ Hành, tứe là tạo ra các nghiệp
thiện hay ác, dẫn tới quả vị lai.
-
11) và 12) Sinh và Già chết : do tạo nghiệp ở đời trước mà sinh ra
ở đời này, với cái thân sẽ già, bịnh, chết với mọi khổ não kèm
theo.
- Quan niệm
của phái Du Già tức học phái Duy Thức:
- Phái Du Già xem
10 chi từ vô minh cho đến hữu là thuộc đời hiện tại. Hai chi sau,
sinh và già chết là thuộc đời vị lai. Ðó là thuyết một lớp nhân
quả trải qua hai đời.
- Quan niệm
của Hữu bộ:
- Phái Hữu bộ (sarvastivada)
quan sát lý 12 nhơn duyên theo 4 loại duyên khởi :
- 1/ Sát na
duyên khởi : tức trong một sát na (đơn vị thời gian ngắn nhứt
có thể tưởng tượng được) cả 12 chi nhơn duyên cùng tồn tạỉ một
cách logic.
- 2/ Liên
phược duyên khởi : khi quan sát 12 nhơn duyên được thể hiện cụ
thể trong thân tâm con người, hàng giờ phút biến đổi, và cả hoạt
động bình thường của con người hằng ngày cũng dựa vào 12 nhơn
duyên đó.
- 3/ Phân vị
duyên khởi: tức là 12 nhơn duyên chia thành hai lớp nhơn quả
trong ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai.
- 4/ Viên tục
duyên khởi : viễn tức là tiếp tục mãi, cho tới khi con người
chứng được Niết bàn. Chuỗi 12 nhơn duyên này nối tiếp mãi không
ngừng đời này sang đời khác cho tới khi đương sự chứng Niết bàn,
không còn luân hồi sanh tử nữa.
- Giải thích
các chi trong 12 nhơn duyên, theo kinh Nikàya Pàli và A Hàm:
- 1/ Vô minh :
S.Avidya P.Avijja, tức là không biết, không hiểu đối với nhân sinh
quan và thế giới quan đúng đắn, đối với thuyết bốn đế. Trái với vô
minh là mục chánh kiến trong Bát chánh đạo.
- 2/ Hành:
S.samskara P.sankhara, tức ba hành nghiệp ý, lời nói, thân. Do vô
minh mà có hành động tạo nghiệp thiện, ác nơi ý nghĩ, lời nói và
thân. Những nghiệp thiện ác này đều lưu lại dấu vết trong con
người dưới dạng hạt giống, hình thành nhân cách, tập quán của con
người đó.
- 3/ Thức:
S.vijinana, P.Vinnana, thức là tâm thức phân biệt. Kinh A Hàm khi
nói về "duyên thức mà có danh sắc", phân biệt có: 1. Thức nhập
thai; 2. Thức trong bào thai; 3. Thức sau khi lọt thai. Thức nhập
thai kinh Pàli gọi là : Kiết sanh thứe.
- 4/ Danh sắc: S.
và P. manarupa, danh là các hành tướng của tâm như thọ, tưỏng,
hành... sắc chỉ sắc thân. Cũng có sách giải thích sắc là năm ngoại
trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc. Nhưng có thể giải thích sắc là
sắc thân thì đúng lý hơn.
- 5/ Sáu xứ: S.
sad-ayatana P.salayatana, cũng gọi theo chữ Hán là lục nhập hay
lục nhập xứ: Tức là sáu căn năng, qua đó, thân tâm tiếp xúc với
ngoại cảnh.
- 6/ Xúc:
S.aparsa P.phassa, tức là sự tiếp xúc của ba yếu tố căn, cảnh, và
thức.
- 7/ Thọ: S. và
P.vedana, tức là cảm thọ vui, buồn hay không vui, không buồn.
- 8/ Ái: S.trsna
P.tanha, tức là sự thèm khát, cũng như khát thèm nước vậy. Như
thấy cảnh vui, thì thèm muốn, gặp cảnh nghịch thì xa tránh.
- 9/ Thủ: S. và
P. upadana, sau khi trong tâm khởi lên lòng thèm khát, thì ở nơi
ý, lời nói và thân, cũng khởi lên hành vi cụ thể bám lấy, vơ lấy,
và đó chính là tạo nghiệp.
- Có thể phân biệt có:
-
- Dục thủ: là thèm muốn, bám vào năm đối tượng của dục vọng như
sắc đẹp, của cải, danh vọng, ăn, ngủ.
-
- Kiến thủ: tức là bám lấy kiến giải mà mình vốn thích thú, dù là
kiến giải sai.
-
- Giới cấm thủ: Tức là bám vào những giới diều vô lý, sai trái,
như một số ngoại đạo cho rằng tắm nước sông Hằng thì được xóa sạch
mọi tội lỗi, sống ép xác khổ hạnh cũng xóa bỏ được mọi tội lỗi quá
khứ.
- 10/ Hữu: S. và
P.bhava, tức là sự tồn tại. Vì tạo nghiệp trong quá khứ cho nên
con người mới tồn tại, mới có thân năm uẩn, trong các cõi sống
khác nhau. Nếu ở cõi Dục giới thì gọi là Dục hữu. Nếu là ở cõi Sắc
giới thì gọi là Sắc Hữu, và nếu ở cõi Vô sắc thì gọi là Vô Sắc hữu.
- 11/ Sinh: S. và
P. Jati, tức là loài hữu tình, do nghiệp tạo ra trong quá khứ mà
sanh trong các cõi sống khác nhau, thành các loại chúng sinh khác
nhau.
- 12/ Già chết:
S. và P.Jara-marana. Trong kinh nguyên thủy, sau già, chết còn
thêm sầu P.soka, bi P. parideva, Khổ P.dukkha, não P.upayasa, ưu
P.domanassa.
- B.3 CÁC ĐOẠN
TRÍCH DẪN KINH ĐIỂN VỀ BỐN ĐẾ (liên hệ tới chân lý về sự khổ)
- Khi Phật sắp
nhập Niết bàn, Phật đã nhắc lại thuyết bốn đế:
- "Này các Tỷ
Kheo, đối với thuyết bốn đế, có điều gì nghi hoặc thì mau mau hỏi
đi, đừng để còn nghi hoặc mà không gạn hỏi... Lúc bấy giờ Thế Tôn
hỏi lại ba lần mà không ai nói cả. Vì sao như vậy? Là vì trong
Tăng chúng không còn ai nghi hoặc về thuyết bốn đề nữa. Khi ấy,
Tôn giả A nâu Lâu Ðà (Anurrudha), quan sát tâm tư trong chúng,
thấy như vậy bèn bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, mặt trăng có thể
nóng lên, mặt trời có thể lạnh đi, còn Thế Tôn giảng bốn Chân lý
thì không bao giờ đổi khác được, Thế Tôn nói chơn lý về sự khổ thì
thực là khổ, khổ không thể biến thành vui được. Tập đế là nhân của
khổ, không thể có nhân khác. Nếu khổ diệt tức là nhân diệt. Nhân
diệt cho nên quả diệt. Ðạo diệt khổ là đạo chân chính. Không còn
có đạo khác. Bạch Thế Tôn, trong Tăng chúng, tâm tư đối với bốn đế
đã quyết định, không còn nghi hoặc điều gì nữa." (Kinh Di giáo
bản dịch của Cưu Ma La Thập)
- Trích kinh Hỏa Dụ: (Phật
nói mọi sự vật trong thế gian đều như bốc lửa).
- “Thời bấy giờ,
đức Thế Tôn sau khi ở lại Uruvela một thời gian đủ thỏa thích bèn
lên dường đi Gaya (Già da). Ði theo Phật, có một nghìn Tỷ Kheo,
trước đây vốn là du sĩ ngoại đạo bện tóc, theo Kỳ Na giáo. Sau khi
đến Tinh Xá Tượng Ðầu (Gaya head), Phật nói với đại chúng Tỷ Kheo
rằng: Này các Tỷ Kheo! Tất cả trong thế gian đều đang bốc cháy!
Này các Tỷ Kheo, con mắt đang bốc cháy, nhãn thức đang bốc cháy,
sắc cảnh mà nhãn thức nắm bắt đang bốc cháy, tất cả mọi cảm thọ do
thấy sắc khởi lên, dù vui hay buồn, hay không vui không buồn, đều
đang bốc cháy. Chúng bốc cháy như thế nào? Chúng bốc cháy do lửa
tham, lửa sân, lửa si và cùng với sanh, già, bịnh, chết, ưu, bi,
khổ, não, đồng thời bốc cháy...
- (Ðối với tai, mũi,
lưỡi, thân, Phật cũng phân tích như vậy và Phật tiếp lời)...
- Và vị đệ tử có chánh kiến như vậy,
bèn sanh tâm nhàm chán đối với mắt, sắc pháp, nhãn thức, mọi cảm
thọ sanh ra từ nhãn thức, sanh tâm nhàm chán đối với tai, âm thanh,
nhĩ thức, với mũi, mùi vị, tị thức... nhờ nhàm chán mà vị đệ tử
đoạn trừ được tham dục, đạt được tự do và giải thoát..."
- Trích kinh Lăng
Nghiêm:
- Một đoạn trong
kinh Lăng Nghiêm, dẫn lời của vua Ba Tư Nặc (Pasenadi):
- "Bạch Thế Tôn,
con xưa còn nhỏ, da dẻ mượt mà, lúc lớn lên huyết khí sung mãn, mà
nay đã già trở thành suy yếu, thân hình khô héo tiều tụy, tinh
thần u ám, tóc bạc da nhăn, chắc là... không còn thọ được bao lâu
nữa. Làm sao có thể so sánh dược với thời trai tráng? Sự thay đổi
là dần dần, thực ra con không thể nào cảm giác được, mùa qua tháng
lại, dẫn tới tình trạng ngày nay. Cớ vì sao? Năm con hai mươi tuổi,
tuy gọi là còn nhỏ, nhưng dung nhan đã có già đi so với hồi 10
tuổi, đến năm 30 tuổi lại già đi so với tuổi 20. Năm nay, con sáu
mươi tuổi, nếu ngó lại cách đây 10 năm thì lúc đó con còn cường
tráng. Bạch Thế Tôn, con thấy sự thay đổi không chỉ hạn chế trong
10 năm. Nếu suy nghĩ kỹ, thì sự thay đổi không phải hạn chế trong
một kỷ hay hai kỷ, mà sự thay đổi đó diễn ra hàng năm, mà không
phải từng năm mà từng tháng đã có thay đổi. Mà không phải từng
tháng có thay đổi, mà là từng ngày. Thậm chí nếu xét kỹ, thì sự
thay đổi đó chưa từng nghỉ dừng, dù là trong từng sát na, trong
từng niệm. Vì vậy con biết thân của con, cuối cùng sẽ phải biến
diệt !..."
- Trích Kinh Niết Bàn:
- Kinh Niết Bàn
có đoạn nói lên đặc điểm của nhân sanh, vui và buồn, lạc và khổ đi
kèm với nhau như bóng với hình:
- “Có hai chị em,
người chị cực kỳ xinh đẹp, dễ thương, đi dến đâu cũng đem lại sự
phát đạt, phồn vinh giàu có, và được mọi người hoan nghinh, tiếp
đón, giữ lại không cho đi nơi khác. Nhưng người em, thì trái lại
cực kỳ xấu xí, đi đến đâu cũng gieo rắc tai họa, sự phá sản và tử
vong, cho nên mọi người đều ghét bỏ, cự tuyệt không cho đến. Nhưng
người chị nói : “Tôi và em tôi, đi đâu cùng đi với nhau, không bao
giờ rời xa nhau".....
- Ở đâu tôi cũng
làm diều lành, em tôi thì làm điều ác, tôi đem lại niềm vui, em
tôi thì gây đau khổ. Mọi người nếu yêu tôi, thì cũng phải đừng
ghét em tôi....
- Nhân sinh là
như vậy. Có vui có buồn, có sướng có khổ, có vinh có nhục. Cho nên,
Phật dạy rằng, trong thế gian này, con người không thể hưởng được
niềm vui thường tại, không thể có tự ngã biệt lập không thể có
dung sắc đẹp mãi mãi không bị tàn phai. Vì chúng sinh si mê cho
nên lấy buồn làm vui, lấy cái vô ngã làm ngã, lấy vô thường làm
thường, lấy cái không thanh tịnh làm thanh tịnh, Phật gọi đó là
thấy điên đảo."
- Có lần, Phật dạy các
đệ tử:
- "Này các Tỷ
Kheo! Các người hãy nghĩ xem, nước trong bốn biển là nhiều, hay là
từ vô thỉ đến nay, lăn lộn mãi trong vòng sanh tử, nước mắt của
các người đổ xuống trong ngày tháng đêm dài là nhiều? Này các Tỷ
Kheo! Các người trong một thời gian dài, đã biết bao lần, các
người chịu đựng nỗi thống khổ mất cha, mất mẹ, đã bao lần các
người chịu nỗi thống khổ mất con, mất anh em, mất chị em. Ðã biết
bao lần, chịu nỗi thống khổ mất tài sản, nỗi thống khổ bịnh tật
triền miên. Biết bao lần, các người phải chịu nỗi thống khổ xa
người mình yêu, gần người mình ghét. Ðúng như vậy một điểm cũng
không sai, đã bao nhiêu lần, các người đã chịu những nổi thống khổ
như vậy mà phải khóc và chảy nước mắt. Lượng nước mắt đổ ra thực
là nhiều hơn nước của bốn biển cộng lại. Này các Tỷ Kheo trong một
thời gian dài, các người đã chịu đựng những nỗi thống khổ, sầu bi,
khổ não, như vậy, chịu đựng bao nhiêu bất hạnh, bao nhiêu đã kích,
bao nhiêu dày vò... thây xác, xương cốt các người lấp đầy mồ mả.
Các người chịu khổ như vậy đã đủ lắm rồi. Ðã đến lúc, các người
nhàm chán thế gian này, đã đến lúc các người phải nổ lực thoát
khỏi nỗi khổ của sanh tử...
--o0o--
|
|