-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Thuyết Bốn Ðế
- GS MINH CHI
- Chủ nhiệm bộ môn
- Tôn giáo học và
Phật giáo sử Việt Nam
- Trường Phật học cao cấp Thành phố
Hồ Chí Minh
- 1996
- ---o0o---
- [6]
- IV. ÐẠO ÐẾ
- Ðạo đế là chơn
lý về con đường đạo dẫn tới Niết Bàn, dập tắt mọi khổ đau, thoát
khỏi vòng sanh tử luân hồi, giác ngộ và giải thoát tối hậu.
- Sách Phật nói
37 phương pháp, cấu thành con đưòng đạo này, gọi là 37 đạo phẩm,
cũng gọi là 37 phần Bồ đề (Bồ đề phần). Cụ thể là Bốn niệm xứ, Bốn
Chánh cần, Bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác chi, tám con
đường đạo (Bát chánh đạo). Nay sơ lược giải thích như sau:
- Bốn Niệm xứ:
- Cũng gọi là bốn
niệm trú, tức là mục chánh niệm trong Bát chánh đạo, Bốn niệm xứ
là bốn đối tượng của tư duy và quan sát không bao giờ quên. Ðó là
thân (kaya), thọ (vedana), tâm (citta), và pháp (dhamma). Luôn
luôn nhớ thân, cảm thọ, tâm và các pháp đều là vô thường, khổ và
vô ngã. Nếu phân biệt thì quan sát thân là không trong sạch, mọi
cảm thọ là khổ, tâm là vô thường, và mọi pháp là vô ngã, không
thực thể.
- Theo kinh tạng
nguyên thủy, thì bốn niệm xứ là con đường độc nhứt (ekayana magga),
đưa người tu hành đến sự giáe ngộ và giải thoát hoàn toàn.
- Bốn chánh cần:
- Trong Bát chánh
đạo, gọi là Chánh tin tấn (sách Hán còn gọi là Tứ chánh đạo, tứ
chánh thắng, tứ ý đoạn). Gồm có bốn mục là:
- a. Ðoạn trừ
điều ác đã khởi lên.
- b. Gắng sức để
cho điều ác mới không sinh ra.
- c. Gắng sức để
cho điều thiện mới được sinh ra.
- d. Nổ lực để
cho điều thiện đã khởi lên được tăng trưởng.
- Thiện ở đây là mọi cái
gì lợi cho lý tưởng tu đạo, và ác là mọi cái gì trở ngại cho lý
tưởng tu đạo. Cho nên, theo quan niệm đạo Phật mà nói nỗ lực làm
ác, chính là lười biếng chứ không phải là tinh tấn siêng năng.
- Bốn thần túc :
- Sách Hán cũng
gọi là tứ như ý túc, là bốn điều như ý được đầy đủ. Ý tứ là muốn
có phép thần thông đầy đủ, thì học tập bốn phương pháp này, tức là:
- a. Dục thần túc:
tức là lòng muốn có được thiền định.
- b. Tinh tấn
thần túc: nỗ lực để có được thiền dịnh.
- c. Tâm thần túc:
tức là nhiếp tâm đầy đủ để có được thiền định.
- d. Tư duy thần
túc : tức là để có thiền định, phải biết tư duy quan sát.
- (Có sách gọi tứ
như ý túc hay tứ thần túc là:
- a. Dục thần túc,
- b. Niệm thần
túc,
- c. Tinh tấn
thần túc,
- d. Tuệ thần túc.
)
- Năm Căn:
- Tức là Tín,
lòng tin. Cần là tinh tấn, Niệm là nghĩ nhớ điều phải (chơn lý),
như lý vô thường, vô ngã... Ðịnh và Tuệ. Gọi năm mục này là năm
căn tức là năm cái gốc để cho người tu tiến tới mạnh mẽ trên con
đường đạo. Trong năm cái gốc này thì tín (S.Saddha P.Sraddha) đứng
hàng đầu, vì lòng tin chân chánh và chân thành là động lực của mọi
nỗ lực tu đạo và hướng thiện tránh ác.
- Nên phân biệt
năm căn tín ... với năm căn mắt, tai,.. (năm căn này thường
gọi là năm căn năng).
- Năm Lực :
- Năm căn nói
trên, khi dược phát huy thì biến thành năm sức mạnh, tức năm lực.
- Bảy giác chi :
- Thất giác chi,
sách Hán cũng dịch là Thất Bồ Ðề phần, bảy phần Bồ đề, hay Thất
giác phần, tức là bảy chi phần của giác ngộ.
- a. Niệm giác
chi: sati-samboijhanga
- b. Trạch
pháp giác chi: dhammavicayasamb jjhanga, tức là biết lựa chọn
phải, trái, chân ngụy, thiện ác...
- c. Tinh tấn
giác chi s. viriya s. nỗ lực hướng tới giác ngộ.
- d. Hỷ giác
chi s.piti. lòng hoan hỷ (trong tu đạo và độ sanh).
- e. Khinh an
giác chi s. passaddhi. Kinh A Hàm gọi là Ỷ giác chi, tức thân
tâm nhẹ nhàng, khinh khoái.
- f. Ðịnh giác
chi s. samadhi.
- g. Xả giác
chi s. upekkha.
- Trên đây là bảy
hạng mục tu hành, có liên hệ đến thiền dịnh. Trong kinh tạng
Nguyên thủy, sau khi thực hành phép anapanasati (niệm hơi thở ra
vào) để thành tựu sự thống nhứt nội tâm, hành giả tu sang phép bốn
niệm xứ, và bảy giác chi mà được giác ngộ, giải thoát. Như vậy, có
thể thấy bảy giác chi là những mục tu hành cao cấp trên con đường
tu đạo.
- 7. Bát chánh
đạo:
- Bát chánh dạo
tức là tám con đường đạo hay là con đường đạo tám nhánh.
- a. Chánh
kiến: samma-ditthi, tức là kiến giải chính xác, tín ngưỡng
chính xác.
- b. Chánh tư
duy: samma-sankappa. Tư duy và lập chí chính xác đúng đắn.
- c. Chánh ngữ:
samma-vaca, tức không nói dối, không nói lời ác, không nói chia rẽ,
không nói lời vô nghĩa. Trái lại, chỉ nói lời chơn thực, lời dịu
hiền, lời đoàn kết, lời có ích đối với người nghe.
- d. Chánh
nghiệp: samma-kammanta, tức là các hành vi không sát sanh,
không lấy của không cho, không tà dâm.... thực hành việc tôn trọng
sự sống, bố thí, sống trong sạch không trái đạo lý.
- e. Chánh
mạng: samma-ajiva, tức là sống bằng nghề nghiệp chính đáng
lương thiện. Nói rộng ra, tức là theo một nề nếp sinh hoạt lành
mạnh, giúp cho sức khỏe, tăng năng suất lao dộng, khiến thân tâm
luôn được thư thái, nhẹ nhàng.
- g. Chánh
tinh tấn: samma-viriya, nỗ lực chính đáng, hướng tới lý tưởng
của đạo, siêng làm điều thiện, siêng trừ bỏ ác.
- h. Chánh
niệm: samma sati, nghĩ nhớ không quên, lý tưởng tu đạo, tỉnh
táo, cảnh giác dù là trong những việc nhỏ, đừng để phạm lỗi, vì
những lỗi nhỏ có thể đem lại hậu quả tai hại lớn. Luôn luôn nghĩ
nhớ: các pháp là vô thường, vô ngã, mọi cảm thọ đều là khổ, không
được mê đắm.
- i. Chánh
định: samma-sammadhi, người tu đạo hằng ngày có gắng giữ tinh
thần an tịnh, tư tưỏng tập trung không tán loạn thì mọi việc làm
mới mong có kết quả như ý. Ngoài ra, người tu đạo cũng tu tập
thiền định, mong đạt tới một nội tâm trong sáng thuần tịnh như
gương, không còn niệm, không còn tưởng.
- BÁT CHÁNH ÐẠO
VÀ BA MÔN HỌC GIỚI, ÐỊNH, TUỆ
- Bát chánh đạo
thực ra là một thể thống nhứt, sở dĩ chia ra tám hạng mục là để
cho tiện thuyết minh, giảng giải mà thôi. Phật giáo Nam phương
thuyết minh mọi quan hệ giữa Bát chánh đạo và ba môn học như sau:
- Chánh kiến và
Chánh tư duy... Tuệ học
- Chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng... Giới học.
- Chánh tinh tấn...
thông cả ba môn học.
- Chánh niệm,
chánh định... Ðịnh học.
- Về chánh tinh
tấn, có sách quy về định học, có sách quy vào tuệ học- Thứ tự tu
học các hạng mục trong Bát chánh đạo như thế nào?
- Theo logic, thì
phải là thứ tự giới, định, tuệ. Thế nhưng trong bát chánh đạo, lại
sắp xếp: Tuệ, giới, định, vì sao?
- Thực ra sau tám
mục còn có hai hạng mục nữa là Chánh trí và chánh giải thoát, tổng
hợp lại thành 10 pháp vô lậu học.
- Chánh trí và
chánh giải thoát thuộc về tuệ học. Như vậy, thứ tự logic của 10
pháp vô lậu học là tuệ, giới, định, tuệ.
- Hai mục chánh
tri kiến và chánh tư duy thực ra là chánh tín đối với những người
mới nhập môn. Do đó, toàn bộ thứ tự sẽ là:
- Tín – Giới –
Ðịnh – Tuệ.
- QUAN HỆ GIỮA 37
PHẨM BỒ ÐỀ VÀ BA MÔN HỌC
- Tín căn và tín
lực không cho cả ba môn giới, định, tuệ. Vì tất cả mọi pháp tu
hành đều xuất phát từ niềm tin (tín) dựa vào chánh tri kiến và
chánh tư duy. Niệm căn, niệm lực, niệm giác chi đều thông cả định
học và tuệ học.
- Giới:
Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng.
- Ðịnh:
Bốn như ý túc, định căn, định lực, định giác chi, xả giác chi,
chánh định.
- Tuệ: Bốn
niệm xứ, bốn chánh cần, tinh tấn cán, tuệ căn, tinh tấn lực, tuệ
lực, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, hỷ giác chi, chánh
kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn.
- V. BA MÔN HỌC
(Tam học)
- V.1. GIỚI HỌC:
- Giới học tức là
môn học đạo đức Phật giáo, hay là luân lý Phật giáo.
- Nghĩa từ Giới:
Giới, chữ Sanskrit là Sila. Giới là các khuôn mẫu ứng xử, phòng
sai, tránh ác của đạo Phật.
- Các loại giới:
giới ngăn điều ác gọi là chỉ ác giới. Chỉ có nghĩa là ngăn chặn.
Cũng gọi là luật nghi Samvara.
- Có hai loại
giới: Giới hữu lậu thế gian và giới vô lậu xuất thế.
- Bộ phận hữu lậu
giới gọi là Biệt giải thoát luật nghi, giúp cho người tu hành
hướng thiện, tránh ác ở cõi Dục giới, đồng thời cũng hướng tới
giải thoát.
- Bộ phận hữu lậu
giới, gọi là Tĩnh lự luật nghi, giúp cho hành giả mau chứng các
cấp thiền thuộc sắc giới.
- Giới xuất thế
gọi là luật nghi vô lậu.
- Biệt giải thoát
luật nghi lại chia thành giới tại gia và giới xuất gia. Giới tại
gia gồm có 5 giới ưu bà tắc và ưu bà đi, hằng ngày cần giữ gìn
không phạm, và tám giới cần giữ, trong các ngày gọi là Bát trai.
- Giới xuất gia
gồm có 250 giới của Tỳ Kheo, 348 giới của Tỳ Kheo ni, 10 giới của
Sadi, 6 giới của chánh học nữ.
- Ưu bà tắc là
chữ Phạn Upasaka. Hán dịch nghĩa là cận sự nam.
-
|
- Hữu lậu giới
|
- Biệt giải
thoát luật nghi (dục giới)
|
- Chỉ ác
giới
|
-
|
- Tĩnh lự luật
nghi (sắc giới)
|
-
|
- Vô lậu giới
|
- Vô lậu luật
nghi (xuất thế gian)
|
-
|
- Giới tại gia
|
- 5 giới Ưu bà
tắc, Ưu bà di
|
- Biệt giải
thoát
|
-
|
- 8 giới trong
các ngày trai
|
- luật nghi
|
- Giới xuất gia
|
- 10 giới cho
sadi và sadi ni
|
-
|
-
|
- 6 giới cho
chánh học nữ
|
-
|
-
|
- 250 giới cho
Tỳ kheo
|
-
|
-
|
- 348 giới cho
Tỳ kheo ni
|
- Thế nhưng,
tác dụng của giới cũng không phải chỉ là tránh ác, mà còn là
hành thiện nữa. Giới làm điều thiện còn gọi là tác trì giới, hay
tác thiện giới.
- Giới và
Luật:
- Giới tương
đương với đạo đức. Luật tương đương với pháp luật. Giới có ý
nghĩa rộng hơn, so với luật Giới là những điều mình giữ cho bản
thân mình, nó thuộc về tinh thần, về nội tâm. Còn luật là điều
mình giữ vì người khác, vì xã hội. Tuy nhiên trong sách thưòng
dùng hai từ này đi kèm với nhau, như trong hợp từ quen thuộc
Giới Luật, vì không có ranh giới phân biệt rõ ràng giữa hai từ.
- Về sự
thành lập Luật tạng:
- Luật tạng
được kết tập ở cuộc đại hội kết tập lần thứ nhứt, ở thành Vương
Xá, vài tháng sau khi Phật Niết Bàn. Người kết tập luật tạng là
tôn giả Upali, trong thời Phật còn sống vốn được ca ngợi là "Giới
luật đệ nhứt".
- Luật tạng,
sau khi kết tập, dần dần được hoàn chỉnh và được định hình trong
các bộ luật của các bộ phái. Như đã nói trên, luật tạng bao gồm
hai nhóm giới luật chính là chỉ trì giới (tránh điều ác) và tác
trì giới (làm điều thiện), ứng với hai câu kệ nổi tiếng của Chư
Phật.
- Chư ác mặc
tác
- Chúng thiện
phụng hành
- Dịch:
- Chớ làm các
điều ác,
- Làm mọi điều
lành
- Chỉ trì
giới: gồm 250 giới cho Tỳ Kheo và 348 giới cho Tỳ Kheo ni.
Tùy theo các bộ phái mà con số giới luật có xê xích khác nhau,
nhưng mức độ xê xích không lớn. Trong luật tạng, có phần phân
biệt chú giải các giới điều, gọi chung là kinh Phân biệt, P.Suta
vibhanga.
- Tác trì
giới: gồm các quy định sinh hoạt của tăng đoàn, như quy định
về cách thức thọ giới của người xuất gia, về tổ chức tụng giới (Bồ
tát) tổ chức an cư kiết hạ, ngày tự tứ, một số quy định về ăn,
mặc, ở của tu sĩ, kèm theo phần chú thích những quy định này. Cả
phần này gọi là kiền độ (khandhaka). Ngoài hai phần trên, trong
luật tạng còn có một phần phụ lục, gọi là phụ tùy (parivara).
- Như vậy luật
tạng Pali (Thượng tọa bộ) cũng như luật tạng các bộ phái khác
bao gồm 3 bộ phận:
- (1) Kinh phân
biệt: giới điều cho Tỳ Kheo và Tỳ Kheo ni, bao gồm cả chú giải.
- (2) Kiền độ:
quy định cách thức sinh hoạt cho tăng đoàn, đại phẩm và tiểu
phẩm, gồm 22 kiền độ.
- (3) Phụ tùy.
- Nói chung,
luật tạng (bất cứ thuộc bộ phái nào) đều do ba bộ phận trên tạo
thành. Hiện nay, còn giữ lại được 5 bộ luật tạng:
- 1. Luật tạng
Pali, thuộc Thượng tọa bộ của Phật giáo Nam Phương.
- 2. Ngũ phần
luật : thuộc Hóa địa bộ (tên một bộ phái Phật giáo).
- 3. Tứ phần
luật : thuộc Pháp tạng bộ.
- 4. Ma ha tăng
kỳ luật : thuộc Ðại chúng bộ.
- 5. Thập tụng
luật : Nhất thiết hữu bộ.
- 6. Hữu bộ tân
luật : Căn bản nhứt thiếu hữu bộ.
- 7. Luật tạng
bằng chữ Tây Tạng : Căn bản nhứt thiết hữu bộ.
- (Hóa địa bộ, Pháp
tạng bộ, Ðại chúng bộ, Nhất thiết hữu bộ, là tên của một số bộ
phái quan trọng, xuất hiện trong thời kỳ Phật giáo bộ phái,
khoảng 200 năm sau khi Phật Niết Bàn. Vì từ bộ phái Nhất thiết
hữu bộ tách ra một số bộ phái khác, cho nên bộ phái gốc sau này
được gọi là căn bản nhất thiết hữu bộ).
- Trong 7 bộ luật được
lưu lại hiện nay, và có ghi tên trên đây thì hai bộ thứ sáu và
thứ bảy giống nhau, chỉ có khác là bộ luật thứ 6 (thập tụng luật)
là một bộ luật không hoàn chỉnh của Hữu bộ. Còn bộ thứ bảy, dịch
ra chữ Tây Tạng là một bộ luật hoàn chỉnh và đầy đủ của Hữu bộ.
Luật tạng là văn bản cơ sở để quy định sinh hoạt của tăng đoàn.
Hiện nay, sinh hoạt của tăng đoàn Phật giáo Nam Phương hoàn toàn
dựa vào bộ luật tạng của Thượng tọa bộ. Ở Trung Quốc vào đời
Đưòng, tăng sĩ Ðạo Tuyên ở Nam Sơn, lập ra luật tạng, là dựa vào
bộ luật Tứ phần của Pháp Tặng bộ. Vì vậy tông phái của ông cũng
có tên gọi "Tứ phần luật Tông".
- Các giới điều của Tỳ
Kheo và Tỳ Kheo ni được xếp làm 8 loại như sau :
- (1) Ba la
di: S. Parajaka là giới điều quan trọng nhứt của Tỳ Kheo,
người phạm lỗi Ba la di lập tức mất tư cách tăng sĩ vì vậy mà
Trung Quốc dịch nghĩa là đoạn đầu, nghĩa là chém đầu. Cũng như ở
ngoài đời, nếu phạm tội cực nặng thì bị chém đầu Ðó là các tội:
dâm dục, trộm cắp, giết người, đại vọng ngữ (chưa chứng quả
Thánh mà dám tuyên bố đã chứng).
- (2) Tăng
tàn : S.Sanghavasera P.Sanghade sera. Tội tăng tàn, có mức
độ nghiêm trọng, chỉ kém tội Ba la di một bậc. Nếu phạm thì sẽ
phải sống biệt trú, và mất quyền lợi tăng sĩ trong một thời gian.
Tổng cộng có 13 tội : sờ mó thân phụ nữ, làm môi giới hôn nhân,
nói vu và phỉ báng người, làm tăng chúng mất đoàn kết....
- Có sách giải thích tăng tàn là
người phạm tội sám hối và cầu xin tăng chúng thương xót, cho duy
trì mạng sống tăng sĩ tàn tạ của mình.
- (3) Bất
định: S.Aniyata, đây là tội chưa rõ, tuy tăng sĩ có phạm,
cho nên gọi là bất định. Gồm có hai loại tội: vi phạm bí mật hay
công khai.
- (4) Xã đọa:
Naiksirajika-payattika. P.pissaggiya pacittika.
- Tội có lấy
của phi pháp, nhưng sau biết đem nộp lại cho tăng đoàn và xin
sám hối. Tổng cộng có 30 tội, gọi là 30 pháp xã đọa. Ðó là các
tội có liên quan đến y phục và dụng cụ của tăng sĩ.
- (5) Ðơn
đọa: S.Payattika, P. Pacittika. Một loại tội nhẹ, chỉ cần
sám hối là miễn tội. Tổng cộng có 90 tội đơn đọa, cũng gọi là
đơn đề. Thí dụ: làm hư hỏng cỏ cây là một tội đơn đọa, ăn quá
ngọ (đối với Tăng sĩ Nam Tông) cũng là một tội đơn đọa,v.v...
- (6) Hối
quá: S.pratidesamya P.patidesanya. Các lỗi nhỏ liên quan tới
ăn uống, chỉ cần sám hối là đủ. Có sách dịch âm là Ðề xá ni (S.desana).
Có tất cả 4 tội. Thí dụ: nhận thức ăn tín thí quá mức cần thiết...
- (7) Chúng
học: S.saíksa P.sekhiya. Các lỗi nhỏ trong sinh hoạt hằng
ngày, chỉ cần tự mình phản tĩnh là được. Tổng cộng có 100 lỗi,
sách Hán gọi là bách chúng học pháp. Thí dụ: mặc áo không chỉnh
tề, cười lộ cả hai hàm răng, nhảy qua lạch nước...
- (8) Diệt
tránh: S. adhikarma - samatha. P.adhikarana-samatha Thực sự
đây không phải là tội mà là những phương thức giải quyết các vụ
tranh cãi trong tăng đoàn. Có 7 điều, sách Hán gọi là thất diệt
tránh pháp.
- Tỳ Kheo ni
thọ một số giới nhiều hơn Tỳ Kheo, tức 341 giới so sánh như sau:
- Tỳ Kheo Tỳ
Kheo ni
- Ba la di 4 8
- Tăng tàn 13
17
- Bất định 2 17
- Xả đọa 30 30
- Ðơn đọa 90
178
- Ðề xá ni (hối
quá) 4 8
- Chúng học 100
100
- Diệt tránh 7
7
- Có bộ phái
đưa số giới của Tỳ Kheo ni lên 348.
- Hai mươi
kiền độ của tác trì môn:
- Kiền độ là
dịch âm từ chữ Phạn Khanda, dịch nghĩa là phần hay chương. Hai
mươi Kiền dộ là 20 chương, nói về các quy tắc sinh hoạt của tăng
già như:
- Kiền độ I:
nói về phép thọ giới.
- Kiền độ II:
nói về phép thuyết giới và sám hối mỗi tháng hai lần (gọi là
ngày Bồ tát).
- Kiền độ III:
nói về phép an cư kiết hạ hàng năm.
- Kiền dộ IV:
nói về tổ chức ngày tự tứ, kết thúc mùa an cư, kiết hạ.
- Kiền dộ V:
nói về quy tắc các Tỳ Kheo dùng các đồ vật bằng da.
- Kiền độ VI:
nói về ba áo của tu sĩ (tam y).
- Kiền dộ VII:
nói về bốn loại thuốc dùng cho tăng sĩ.
- Kiền độ VIII
: nói về công đức y, mà Tỳ Kheo nhận được vào ngày Tự tứ, ngày
kết thúc kỳ an cư kiết hạ.
- Kiền độ IX:
nói về phép giáo hóa trong vụ Tăng sĩ mất đoàn kết ở Kausambi.
- Kiền độ X:
nói về phép đối đãi với Tỳ Kheo là khách từ các nơi khác đến.
- Kiền độ XI:
nói về phép khiển trách, xử phạt Tỳ Kheo phạm giới.
- Kiền độ XII:
nói về trường hợp Tỳ Kheo phạm tội, nhưng không giấu, thì nên
sám hối như thế nào.
- Kiền dộ XIII
: Tỳ Kheo phạm tội nhưng che giấu, không bộc lộ, phải được xử
phạt như thế nào.
- Kiền độ XIV:
nói về cách thức phạt Tỳ Kheo phạm tội không được ở trong chúng.
- Kiền độ XV:
nói về cách xử lý tội phá hòa hợp tăng.
- Kiền độ XVI:
nói về bảy pháp xử lý các vụ tranh cãi trong tăng chúng.
- Kiền độ XVII:
nói riêng về quy tắc sinh hoạt của Tỳ Kheo ni.
- Kiền độ
XVIII: nói về uy nghi của Tỳ Kheo.
- Kiền độ XIX:
nói về việc Tỳ Kheo ở trong phòng.
- Kiền độ XX:
một số quy tắc sinh hoạt không được quy định trong 19 Kiền độ
trên.
- Giới thể,
giới tướng và giới hạnh
- Giới thể
là chủng tử lưu lại trong tạng thức của người thọ giới, sau
khi được truyền giới. Chủng tử đó có tác dụng bảo vệ người thọ
giới cho khỏi phạm giới. Có sách gọi đó là vô biểu sắc.
- Giới hạnh:
là hành vi theo đúng giới luật được thọ trì.
- Giới tướng:
do có giới thể, giới hạnh mà biểu hiện ra ngoài thành giới tướng
thanh tịnh, tốt đẹp. Vị tăng sĩ giữ giới, nói năng hành xử, đi
đứng nằm ngồi đều uy nghi mực thước.
- Tông Chân
Ngôn (Mật giáo) ở Nhật riêng lập ra hệ thống giới gọi là "Tam
muội gia", lấy ba loại bồ đề tâm làm giới. Nhưng đó chỉ là sự
khác biệt về danh từ mà thôi. Còn về nội dung thì cũng không
khác gì mười giới thiện (thập thiện giới). Chân Tông ở Nhật Bản
(một nhánh của Tông tịnh dộ) thì không có bàn gì tới giới luật
cả.
- Tín và
giới :
- Vào thời đại
Kamakura (Kiếm Thương) ở Nhật, các tông như Nhật Liên Tông, Chân
Tông, Thiền Tông đều không chú trọng nhiều tới giới luật. Nhưng
theo sự nhận định của nhà Phật học nổi tiếng Nhật Bản là Thủy
Giả (xem cuốn Phật giáo yếu ngữ đích cơ sở tri thức tr 233) Phật
giáo Nhật Bản thời đại Kiếm Thương rất coi trọng đức tin, và cho
rằng đức tin triệt để, bao hàm đầy đủ giới luật rồi. Thí dụ,
chuyên tâm niệm Phật, chuyên tâm ngồi thíền, thì ngay từ ở trong
ý nghĩ và lời nói, mọi nghiệp đều đã được thanh tịnh rồi.
- Ðây là do
giới và tín vốn có quan hệ rất mật thiết. Tăng sĩ trong thời kỳ
Phật giáo nguyên thủy, có câu : "Nếu có đức tin triệt để, thì tự
nhiên có được giới”. (tín nhược triệt để, tự khả hoạch đắc giới).
- Trong kinh
Phật nguyên thủy, có khái niệm "Tứ bất hoại tính" tức là bốn
niềm tin trong sạch, không mất tức là tin Phật, tin Pháp, tin
Tăng và tin ở Giới luật.
- Trong kinh Phật nguyên thủy, có
bài kệ nổi tiếng là:
- Chư ác mặc
tác,
- Chúng thiện
phụng hành,
- Tự tịnh kỳ ý,
- Thị chư Phật
giáo
- Nghĩa là :
- Mọi điều
ác đều không làm,
- Làm mọi
điều thiện
- Tự làm
trong sạch tâm ý
- Là lời dạy
của các Ðức Phật
- Bài kệ này
được gọi là bài kệ của bảy vị Phật (gồm cả Phật Thích Ca), cho
nên cũng gọi là thất Phật thống giới kệ (bài kệ răn dạy chung
của bảy vị Phật). Tinh thần của giới luật là tránh mọi điều ác,
làm mọi điều thiện. Làm được như vậy là giới. Tâm ý trong sạch
là định và tuệ. Bởi vì tâm có lặng (định) mới sáng (tuệ).
- Giới đại
thừa:
- Ðặc điểm của
giới đại thừa là cường điệu tính lợi tha. Ðại thừa có khái niệm
ba nhóm giới trong sạch:
- 1. Nhiếp luật
nghi giới.
- 2. Nhiếp
thiện pháp giới.
- 3. Nhiếp
chúng sanh giới (cũng gọi nhiêu ích hữu tình giới).
- Vì cả ba nhóm
giới này, cả đại và tiểu thừa đều tôn trọng cho nên gọi là thông
giới.
- Nhiếp luật
nghi giới:
- S
samvarsa-sila. Gọi tắt là luật nghi giới tương đương với các
giới tại gia, xuất gia của Phật giáo Nguyên thủy, nhưng theo Ðại
Thừa giáo thì là Thập thiện giới, hay là thập trọng cấm giới và
48 khinh giới.
- Nội dung của
Nhiếp luật nghi giới, chủ yếu là ngăn chặn mọi điều ác.
- Nhiếp
thiện pháp giới:
-
S.kusala-oharma-samgraha-sila. Chỉ riêng cho 10 giới thiện.
- Nhiếp chúng sanh
giới:
-
S.sattrarthakriya-sila. Chỉ mọi việc làm, có ý nghĩa từ bi và
lợi lạc đối với chúng sanh.
- Ba nhóm giới
này được các kinh như "Anh lạc bổn nghiệp kinh",... nói tới, và
thường được gọi là ba nhóm giới thanh tịnh (tam tụ tịnh giới).
- Thập thiện
(10 thiện) và ba nhóm giới:
- Các kinh Bát
Nhã (kể cả Ðại phẩm và tiểu phẩm) đều lấy 10 thiện làm giới đại
thừa, kinh Hoa Nghiêm cũng theo thuyết này.
- Trong kinh
Bát Nhã, giới Ba La Mật tức là Bồ tát tự mình làm 10 thiện, và
khuyến khích người khác cũng làm 10 thiện thực hành đầy đủ cả
hai mặt nhiếp luật nghi giới và nhiếp thiện pháp giới.
- Kinh Hoa
Nghiêm thì thêm Nhiếp chúng sanh giới thành có ba nhóm giới đầy
đủ.
- Bộ luận Du
Già sư địa nói cả ba nhóm giới Nhiếp luận nghi giới, nhiếp thiện
pháp giới và nhiêu ích hữu tình giới, đầy đủ như kinh Hoa Nghiêm.
Ba nhóm giới này cũng gọi là Du Già giới.
- Mười thiện
giới:
- 1. Không sát
sanh,
- 2. Không trộm
cắp,
- 3. Không tà
dâm,
- 4. Không nói
dối,
- 5. Không nói
ác,
- 6. Không nói
chia rẽ ,
- 7. Không nói
phù phiếm,
- 8. Không tham,
- 9. Không sân,
- 10. Chánh
kiến.
-
- Mười cấm
giới nặng (trọng giới)
- Bồ tát nếu
phạm mười giới nặng này, vi phạm tội nặng gọi là Ba La di. Ðiều
này được ghi trong kinh Phạm Võng, cho nên cũng gọi là Phạm Võng
giới. Mười cấm giới nặng là:
- 1. Không sát
sanh,
- 2. Không trộm
cắp,
- 3. Không phạm
dâm (tà dâm)
- 4. Không nói
dối,
- 5. Không bán
rượu,
- 6. Không nói
lỗi người khác,
- 7. Không tự
khen mình và vùi dập người,
- 8. Không keo
kiệt đối với Pháp và tài sản,
- 9. Không giận,
- 10. Không phỉ
báng Tam bảo.
- Giới Ðại
thừa của Phật giáo Trung Quốc và Phật giáo Nhật Bản:
- Người Trung
Quốc kết hợp Du già giới (tức ba nhóm giới), Phạm Võng giới (10
giới nặng và 48 giới nhẹ) thành ra Ðại thừa giới, cũng gọi là Bồ
tát giới, Phật tính giới, Kim cang bảo giới. Phật giáo Trung
Quốc kết hợp dùng luật Tứ Phần (Thường gọi là luật Tiểu thừa),
với luật Ðại thừa (Kinh Phạm Võng). Nói chung, từ đời Tùy Ðường
về sau, đều kết hợp sử dụng như vậy.
- Ở Nhật Bản,
vào đời Nại Lương (Nara) có sư Giám Châu truyền kinh nghiệm kết
hợp dùng giới Ðại thừa và Tiểu thừa (của Trung Quốc) vào Nhật
Bản. Nhưng đến thời Ðại sư Tối Trừng, thì Ngài bỏ giới Tiểu thừa,
chỉ dùng giới Ðại Thừa mà thôi gọi là viên đốn giới (hay Viên
giới). Tông Thiên Thai (tendai) và các lưu phái khác ở Nhật, đều
theo lập trường đó của Ngài Tối Trừng.
- Tông Tào Ðộng
của sư Ðạo Nguyên lập ra 16 giới gọi là Bồ tát giới, gồm Tam quy
giới, Tam tụ tịnh giới và thập trọng cấm giới. Cái khác của Ðạo
Nguyên là xem thọ Tam quy là giới. Còn Tam tụ tịnh giới (ba nhóm
giới thanh tịnh) và thập trọng cấm giới thì giống như trên.
- Tông Lâm Tế ở
Nhật cũng theo lập trường này của Tào Ðộng.
- V.2. ÐỊNH HỌC
- Nghĩa của
từ Định
- Ðịnh nghĩa là
tâm không tán loạn, là nhất tâm.
- Bốn cảnh
giới định cúa Phật giáo Nguyên thủy:
- Phật giáo
Nguyên thủy nói về 4 cảnh giới định (gọi là bốn cấp thiền) như
sau:
- + Cấp thiền
thứ nhứt: (Sơ thiền) xa lìa dục vọng, xa lìa mọi pháp bất thiện,
có tầm và tứ, Hỷ lạc nhờ xa lìa dục vọng và pháp bất thiện mà có.
- + Cấp thiền
thứ hai: (Nhị thiền) ngưng chỉ tầm và tứ, nội tâm an tịnh, hỷ
lạc nhờ định tâm mà có.
- + Cấp thiền
thứ ba: (Tam thiền) xa lìa tâm hỷ, trú ở xả, thân trú ở lạc +
Cấp thiền thứ tư: (Tứ thiền) bỏ khổ lạc, bỏ hỷ ưu, xả niệm thanh
tịnh.
- Các loại định
: định là tâm an tịnh, thống nhất. Người còn ở Dục giới, thành
tựu được tâm định tạm thời gọi là Dục giới định.
- Các cảnh giới
định ở sắc giới và Vô sắc giới mới gọi là căn bổn định.
- Cần nhắc lại
ở đây các khái níệm Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
- Dục giới:
(S.Kama dhatu) là cõi sống trong đó cảm quan có nhiều dục vọng,
hướng tới sắc, thinh, hương, vị, xúc pháp, tức sáu ngoại trần.
- Sắc giới
(S.rupa dhatu): là cõi sống mà dục vọng của cảm quan không
còn nữa, nhưng thân vật chất vẫn còn. Chúng sanh ở đây, luôn ở
trong trạng thái thiền định từ sơ thiền đến tứ thiền.
- Vô sắc
giới (S. Arupa dhatu): là cõi sống ở đây chúng sanh không
còn có thân vật chất nữa mà chỉ sống cuộc sống thuần túy tinh
thần mà thôi.
- Cũng như Sắc
giới, Vô sắc giới có 4 cấp thiền, gọi theo thứ tự từ thấp đến
cao:
- 1. Không Vô
biên xứ,
- 2. Thức Vô
Biên xứ.
- 3. Vô sở hữu
xứ
- 4. Phi tưởng
phi phi tưởng xứ.
- Các thuật
ngữ liên quan tới Ðịnh học:
- Samadhi dịch
là Ðịnh:
- định ý;
- tam muội;
- tam ma địa;
- đẳng trì;
- chánh thọ
- dhyana, jhana
Hán dịch là Thiền:
- thiền na;
- tĩnh lự;
- Tư duy tu
- Samapati Hán
dịch là Ðịnh, tam ma bát đề, đẳng chí samatha Hán dịch là chỉ,
xamatha.
- S. Cittankragrata,
P.Cittegaggata Hán dịch là tâm chuyên một cảnh.
- Yoga Hán dịch
âm Du già.
- Samadhi:
là danh từ chung nhứt, bao gồm các loại định thế gian hữn lậu,
cũng như xuất thế vô lậu hữu tâm dịnh, vô tâm định, toàn là các
định trong ba giới.
- Dhyana:
chỉ loại định của sắc giới mà thôi, không có định của Dục giới,
và của Vô sắc giới.
- Samapatti: là
loại định của riêng Sắc giới, và Vô sắc giới không bao hàm định
Dục giới. Như vậy, nó bao gồm 9 cấp định từ Sơ thiền sắc giới
cho tới Tứ thiền Vô sắc giới, kể cả diệt thọ tưởng định. Gọi
chung tất cả là Cửu thứ đệ định (chín cấp định xếp theo thứ tự
từ thấp tới cao).
- Samatha: hay
dùng đồng thời với Vipasvana, vipassana (quán Tỳ bát xá na).
Samatha là chỉ, Samatha vipassana là chỉ quán. Chỉ là nội tâm
vắng lặng, Quán là quan sát. Dùng hai từ chỉ quán là muốn nói
hai môn định học và tuệ học cần phát triển cân bằng.
- Yoga là từ ngữ có
trước Phật giáo, cũng chỉ cảnh giới nội tâm thống nhứt. Phật
giáo cũng dùng từ Yoga (Du già) trong các khái niệm như Du già
hạnh, Du già sư, bộ phái Du già (yogacara) cũng gọi bộ phái Duy
Thức.
- Samahita Hán
dịch âm Tam ma sất da, Hán dịch nghĩa Ðẳng dẫn, nhập định.
- Samapanna :
Hán dịch âm Tam ma bác ra, dịch nghĩa căn bổn định.
- Hiện pháp lạc
trú: S. drstadhanoma-suk-havihara P. dittha-dhamma-sukhavihara.
- Năm loại thiền:
- Ðời nhà Ðường
ở Trung Quốc, các thiền sư Khuê Phong, Tôn Mật, phân biệt có năm
loại thiền là:
- (1) Ngoại đạo
thiền;
- (2) Phàm phu
thiền;
- (3) Tiểu thừa
thiền;
- (4) Ðại thừa
thiền;
- (5) Tối
thượng thừa thiền (cũng gọi là Như Lai thiền).
- Và kết luận
là Như Lai thiền và Tổ Sư thiền đều bao hàm có yếu tố giác ngộ
tối cao.
- Các
phương pháp tu tập thiền định:
- Về phương
pháp tu tập thiền định, kinh sách Phật giáo Nguyên thủy, cũng
như các sách luận của Phật giáo bộ phái đều có ghi chép khá cụ
thể.
- Bốn mươi nghiệp
xứ:
- Kinh sách
Pali nói tới 40 tối tượng quán, có tác dụng dẫn tới định tâm,
gọi là 40 nghiệp xứ (kammatthana), chia làm:
- 10 biến xứ :
địa, thủy, hỏa, phong, sắc xanh, sắc vàng, sắc đỏ, sắc trắng,
ánh sáng, hư không.
- 10 tướng bất
tịnh: tướng xác phồng to, tướng xác màu xanh bủng, tướng máu mủ;
tướng gân cốt rời rã, tướng thây xác bị côn trùng ăn, tướng
xương cốt phân tán rơi vải, tướng gân cốt bị chặt đứt, tướng máu
chảy lênh láng, tướng trùng hôi bọ thối, tướng hài cốt.
- 10 tùy niệm:
Phật, Pháp. Tăng, Giới, thí (xả), các cõi Trời, chết, hơi thở ra
vào, sự vắng lặng ngưng chỉ.
- Bốn vô lưọng
tâm: từ, bi, hỷ, xả.
- Bốn cấp thiền
Vô sắc: hư không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi
tưởng phi phi tưởng xứ.
- Tướng chán
ghét thức ăn.
- Tưởng về giới
sai biệt.
- Quan hệ giữa
tính cách con người và các đối tượng quán nghiệp xứ:
- Tính cách
người gồm có:
- 1. Bản tính
tham (tham hạnh)
- 2. Bản tính
sân giận (sân hạnh)
- 3. Bản tính
si mê (si hạnh)
- 4. Bản tính
tán loạn (tầm hạnh)
- 5. Bản tính
dễ tin (tín hạnh)
- 6. Bản tính
thiên lý trí (giác hạnh)
- Người bản
tính tham nên chọn các pháp quán 10 tướng bất tịnh, quán thân
bất tịnh.
- Người bản
tính sân, chọn phép quán bốn vô lượng tâm, bốn sắc xanh, vàng,
đỏ, trắng.
- Người bản
tính si và tán loạn, chọn các phép quán theo dõi hơi thở vào ra,
(sổ tức quán).
- Người bản
tính giàu đức tin, chọn phép quán niệm Phật, Pháp, Tăng, giới,
thí, cõi Trời.
- Người bản
tính thiên lý trí, chọn các phép quán niệm chết, niệm chán thức
ăn, niệm giới sai biệt.
- Ngoài ra, còn
có các phép quán, thích hợp với mọi tính cách, như quán về bốn
cấp thiền Vô sắc, quán các biến xứ địa, thủy, hỏa phong.
- Năm phép
quán định tâm và ngũ môn thiền:
- Phép quán Ngũ
đình tâm, là phép quán của Hữu bộ được chỉnh lý từ các phép quán
đã được nói trong kinh sách Nguyên thủy.
- 1/ Quán
bất tịnh: (tức mười phép quán bất tịnh của Phật giáo Nguyên
thủy) hợp với loại người có bản tính tham.
- 2/ Quán từ
bi: (tức quán bốn vô lượng tâm) : từ, bi, hỷ, xả, thích hợp
với bản tính sân hận.
- 3/ Quán
nhơn duyên: (tức quán 12 nhơn duyên) thích hợp với căn tính
si .
- 4/ Quán
giới sai biệt: (tức là quán 4 đại: địa, thủy, hỏa, phong cấu
tạo ra thân nguời), thích hợp với loại người nặng về ngã kiến.
- 5/ Quán
hơi thở: (sổ tức quán), đối trị loại người hay có tâm tán
loạn.
- Hữu bộ cũng
lập ra phép ngũ môn thiền thích hợp với mọi bản tính con người.
Ngũ môn thiền là ngũ đình tâm, trong đó thay phép quán giới sai
biệt bằng phép quán niệm Phật.
- Hai mươi
lăm phuơng tiện: (chuẩn bị cho tu thiền định)
- Tông Thiên
Thai cho rằng, để chuẩn bị cho việc tu thiền có kết quả, cần có
đầy đủ:
- 1/ Năm duyên
:
- - Giữ giới
thanh tịnh.
- - Thức ăn, áo
mặc đầy đủ,
- - Nơi ở yên
tịnh,
- - Dẹp các
duyên vụ (bỏ bớt các việc không cần thiết)
- - Gần gũi
thiện tri thức.
- 2/ Bỏ năm dục
(vọng)
- - Sắc
- - Thanh,
- - Hương,
- - Vị
- - Xúc
- 3/ Bỏ năm
triền cái (tức năm cái ngăn che vưóng mắc)
- - Tham,
- - Sân,
- - Hôn trầm
thụy miên,
- - Trạo cử (lăng
xăng)
- - Nghi.
- 4/ Ðiều hòa
năm sự :
- - Ăn uống,
- - Ngủ nghỉ,
- - Thân,
- - Hơi thở,
- - Tâm.
- 5/ Thực hành
năm pháp
- - mong muốn
thực tiễn.
- - Tinh tấn.
- - niệm,
- - trí huệ
thiện xảo,
- - Nhứt tâm.
- Mục đích tu
tập thiền định: Phật giáo Nguyên thủy nói tới năm công đức của
việc tu tập thiền định:
- (1) có sức
khỏe, thân tâm an vui.
- (2) có trí
tuệ giác ngộ, tức trí tuệ vô lậu.
- (3) có thần
thông: thiên nhỉ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thiên
nhãn thông...
- (4) Khi mệnh
chung, tái sanh lên các cõi Trời Sắc giới và Vô sắc.
- (5) Chứng
diệt tận định: (nirodha-samapatti), cấp định này cao hơn cấp tứ
thiền của Vô sắc giới, và chỉ có hàng Thánh mới chứng được.
- Kinh A Hàm có
nói tới 10 công đức của người tu tập phép quán Tứ vô lượng tâm:
(tức là bốn tâm vô lượng từ bi hỉ xả)
- 1. Ngủ yên,
- 2. Không có
ác mộng,
- 3. Ðược mọi
người yêu mến,
- 4. Ðược loài
phi nhân yêu sủng,
- 5. Ðược thần
phù hộ,
- 6. Không bị
hại bởi lửa, đao kiếm và thuốc độc
- 7. Nhanh
chóng vào định,
- 8. Dung mạo
sáng đẹp,
- 9. Khi lâm
chung không hôn mê,
- 10. Nếu chưa
giác ngộ thì ít nhứt cũng được tái sanh lên các cõi Trời Phạm
Thiên.
- Các phép
tu từ định vào tuệ:
- Các kinh A
Hàm nói đến các phép tu:
- 1. Quán năm
uẩn,
- 2. Quán bốn
đế,
- 3. Quán ba
tam muội và quán không, quán vô tướng, quán vô
- nguyện (vô
nguyện là không còn mong cầu gì bên ngoài).
- 4. Tám phép
giải thoát.
- 5. Tám thắng
xứ.
- V.3. TUỆ HỌC
- 1. Các
loại Trí tuệ - các từ ngữ:
- Mục đích cuối
cùng của Phật Pháp là có được sự giác ngộ bằng trí tuệ. Vì vậy,
nên dù là Tam học (ba môn học), hay thập vô học pháp (10 pháp
dẫn tới quả vô học) tức quả A la Hán, sáu pháp Ba la Mật, đều
xem trí tuệ là thành quả cuối cùng.
- Nhưng có
nhiều loại trí tuệ. Có trí tuệ hữu lậu, và trí tuệ ở Dục giới,
có trí tuệ sơ bộ chứng ngộ, có trí tuệ của A la Hán, có trí tuệ
của Bích Chi Phật, có trí tuệ của Bồ tát và cuối cùng là trí tuệ
tối cao của Phật.
- Cổ ngữ
Sanskrit, Pàli và dịch ngữ chữ Hán có nhiều từ ngữ tương đương
với trí tuệ: (xếp theo thứ tự sanskrit, Pàli, Hán)
- - Prajna,
panna – tuệ, trí tuệ, bát nhã, ba nhã.
- - jnana,
jnana – trí, trí tuệ, xà na, (âm dịch từ jnana)
- - Vidyà,
vijja – minh
- - Buddhi –
Giác,
- - medha bhuri
– quảng, quảng tuệ, trí tuệ, rộng lớn.
- - Dharsana -
dastana, kiến Nại lạt xá nang (dịch âm từ dharsana)
- -
drsti-ditthi - kiến,
- - Vipasyana -
vipassana – quán, Tỳ bát xá na (âm dịch Vipasyana)
- - Anupapyana
- anupastana – tùy quán.
- - Parijna -
parinna – biến tri, biết tất cả.
- - Abhijna -
abhinna – chứng trí, thần thông,
- - Ajna - anaa
- liễu tri, dĩ tri, A nhã.
- - Samprajana
- sampajana - chánh tri.
- - Mimamsa -
vimamasa – quán, quán sát.
- - Pariksa -
parikkha - quán, quán sát.
- -
Pratyaveksana-paccavekkhana – quán sát.
- - Dhamma -
vicaya - dhamma vicaya – Trạch pháp
- - Pratisamvid
- patisambhida – vô ngại giải, vô ngại biện,
- Ngoài ra, còn
có những từ ví dụ để nói trí tuệ:
- - Caksu -
cakkhu – là nhãn, con mắt
- - Aloka – ánh
sáng (quang minh).
- Với sự thể
nghiệm cụ thể của trí tuệ, chúng ta có các từ ngữ
- - Bodhi – bồ
đề, tức là giác, đạo
- - sambodhi,
tam bồ đề cũng có nghĩa chánh giác đẳng giác.
- 2. Tuệ và
trí:
- Các từ được
dùng nhiều nhất là prajna, panna mà Hán dịch đều là trí tuệ.
Nhưng Huyền Trang dịch Prajna (panna) là tuệ và dịch jnana là
trí.
- Ý nghĩa của
tuệ rất rộng. Theo văn chương A Tỳ Ðàm thì tuệ có các nghĩa từ
thấp đến cao như biết thế nào là thiện là ác; tuệ hữu lậu của
phàm phu (gọi là liệt tuệ) và tuệ siêu việt vô lậu của hàng
Thánh... và trí tuệ Ba la Mật được hiểu như là trí tuệ toàn
thiện, đầy đủ của các Ðức Phật.
- Trí:
jnana, nana, được dùng để chỉ trí tuệ đã khai ngộ, do đó mà có
các khái niệm tận trí (trí tuệ cùng cực, rốt ráo). Vô sinh trí,
(trí tuệ chứng được lý vô sinh) chánh trí.
- Trí ba la mật
là trí tuệ tối cao của Bồ tát thập địa, tức là Bồ tát sắp thành
Phật.
- Sách Duy thức
nói tới 5 trí của vị Bồ tát đã chứng ngộ:
- (l) Thành sở
tác trí
- (2) Diệu quan
sát trí
- (3) Bình đẳng
tánh trí,
- (4) Ðại viên
cảnh trí,
- (5) Pháp giới
thể tánh trí.
- Có sách Phật
phân biệt ba trí là:
- (1) Nhất
thiết trí,
- (2) Ðạo chủng
trí,
- (3) Nhất
thiết chủng trí (cũng gọi nhất thiết trí).
- Tuy nhiên,
cũng có sách dùng từ trí không khác gì từ tuệ nghĩa là gồm cả
hữu lậu và vô lậu. Như Luận Câu Xá nói về mười trí:
- 1/ Thế tục
trí
- 2/ Pháp trí,
- 3/ Loại trí,
- 4/ Khổ trí,
- 5/ Tập trí,
- 6/ Diệt trí,
- 7/ Ðạo trí,
- 8/ Tha tâm
trí.
- 9/ Tận trí,
- 10/ Vô sanh
trí,
- Trong 10 trí
nói trên, trừ thế tục trí ra, còn tất cả đều là vô lậu trí. Nếu
thêm vào Như thực trí, thì chúng ta có 11 trí của pháp tướng
tông Duy thức. Trong số này "như thật trí" là trí tuệ hữu lậu
cao nhứt của hàng phàm phu. Có sách phân biệt bốn tuệ là:
- - Hữu sanh
đắc tuệ (cũng như nói trí tuệ bẩm sinh)
- - văn tuệ,
- - Tư tuệ,
- - Tu tuệ.
- Giải thích
các từ đồng nghĩa với tuệ:
- 1. Minh
vidya, Giác Budhi, Tuệ medha, Quang Bhùri, Nhãn (con mắt)
quang minh, (từ minh dùng trong thành ngữ minh hạnh tức là bậc
Thánh có đầy đủ trí tuệ và đức hạnh, tức Phật).
- 2. Kiến:
Darsana, tri kiến, chánh tri kiến, (trong Bát chánh đạo).
- 3. Quán:
Vipasjana. Dùng trong hợp từ chỉ quán. Tùy quán anupasyana (tức
là trí tuệ quán sát trong bốn niệm xứ), biến tri, pari-jna, và
chứng trí abhijna tức phép thần thông.
- 4. Liễu
tri: ajna, là trí tuệ dựa vào pháp nhãn mà sơ bộ chứng ngộ.
- A Nhã là liễu
tri, trong số năm nguời đầu tiên dược nghe Phật thuyết pháp tại
vườn Nai, gần Bénarès, ông Kiều Trần Như là người đầu tiên được
Liễu tri, tức là sơ bộ chứng ngộ bằng trí tuệ. Do vậy mà
ông có danh hiệu A Nhã (ajna). Chánh trí samprajàna. Nghĩa đầy
đủ là nhận thức đúng đắn, chính xác.
- 5. Quán:
mimamsa, có nghĩa "tuệ giải" trong bốn thần túc và trong phép
quán nhơn duyên. Ý tứ không khác gì lắm với quán Vipasyana.
- 6. Trạch
pháp: Dhamma-vicaya, là một giác chi trong bảy giác chi, tức
là trí tuệ khéo chọn lựa, nhận biết đúng sai, phải trái.
- 7. Vô ngại giải:
cũng gọi là Vô ngại trí, vô ngại biện, tức là trí tuệ thấy hết,
biết hết của Phật, không có gì có thể gây trở ngại được Ðức Phật
có trí tuệ vô ngại đối với Pháp (hết thảy mọi pháp), từ (mọi từ
ngữ), nghĩa (mọi ý nghĩa), biện (có khả năng biện thuyết về mọi
vấn đề với mọi người), đó là bốn biện giải vô ngại của Phật.
- Bồ đề: S.Bodhi (giác, đạo) hay
tam Bồ đề (sambodhi) Hán dịch nghĩa chánh giác, là sự thể hội
trực tiếp đối với chân lý.
- Tác dụng
của trí tuệ: sách Phật phân biệt có hai loại trí tuệ :
- "Phân biệt
trí và Vô phân biệt trí":
- + Phân
biệt trí:
- S.
savikalpa-jnana là trí tuệ có đối tượng để phân biệt, trí tuệ
“đối lập" với đối tượng.
- + Vô phân
biệt trí:
- S.
Nirvikalpa-jnana là trí tuệ hòa nhập làm một với đối tượng. Ðó
là trí tuệ chứng ngộ cao nhứt.
- Với trí tuệ
Vô phân biệt, bậc Thánh thấy "sắc tức là khỏng" (sắc tức thị
không) thấy các pháp là vô ngã, bậc Thánh chứng ngộ đạo lý sâu
sắc, vi diệu đó, cho nên đạt tới trình độ tự tại vô ngại đối với
mọi pháp.
- Nhưng bậc
Thánh không dừng ở đấy. Ðể cứu vớt chúng sanh ra khỏi vòng sanh
tử luân hồi, các Ngài mở lòng đại bi để cứu độ chúng sanh. Các
Ngài dùng trí tuệ tối cao để phân biệt căn cơ hoàn cảnh của mỗi
chúng sinh. Trí tuệ này lại là trí tuệ (có) phân biệt (phân biệt
trí), nhưng là một phân biệt trí thành tựu được trên cơ sở vô
phân biệt trí, vì vậy mà gọi là phân hiệt hậu đắc trí./
--o0o--
|
|