-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Khái Luận
- Thích Chơn Thiện
-
Chương Một - Phật Bảo
Tiết I
- Lược
Sử Ðức Phật
- --- o0o ---
-
Nhận Xét Về Sử Liệu.
- Có rất nhiều
sử liệu ghi lại khác nhau về ngày, tháng, năm liên hệ đến các sự
kiện lịch sử đức Phật. Các nhà học giả Phật giáo và các nhà
nghiên cứu Phật học đã nêu nhiều lý do về sự sai biệt đó. Chẳng
hạn, Lương Khải Siêu trong tập "Phật học Nghiên cứu Thập bát
thiên" cho rằng: "Vì người Ấn Ðộ xem thường lịch sử, vả lại,
quan niệm thời gian của họ rất mơ hồ, nên những sách vở Ấn ngữ
đối với niên đại sanh diệt của đức Phật không một sách nào chép
rõ ràng, minh xác" (1). Về điều này, không hẳn là người Ấn không
có quan niệm rõ ràng về thời gian, hay không có quan niệm lịch
sử rõ ràng. Lịch sử cho thấy người Ấn có quan niệm lịch sử sớm
nhất, đặc biệt là ở Phật giáo. Chúng ta có thể nhìn thấy nhiều
sử liệu qua năm Nikàyas và bốn A-hàm (Agamas), qua bia ký của
vua A-dục (Asoka), trong Thiện Kiến Luật, Tỳ-bà-sa, A-tỳ-đạt-ma
v.v...
- Người viết
nghĩ rằng sự sai khác về các niên đại lịch sử đức Phật có thể là
do các lý do đơn giản sau đây:
- - Lịch ghi
của các nước thời xưa khác nhau, và các lịch ghi ấy lại khác hẳn
với Tây lịch mà thế giới hôm nay đang dùng, nó cũng khác hẳn với
âm lịch của Trung Hoa.
- - Thời đức
Phật tại thế, gồm cả kỳ kiết tập đầu tiên, các vị tu sĩ thiếu
điều kiện ghi chép, chỉ trùng tuyên. Khi trùng tuyên, các vị đệ
tử thường nhớ rõ nội dung giáo lý giải thoát mà khó nhớ đúng
ngay, tháng của các sự kiện lịch sử, hoặc không chú ý ghi lại
các ngày, tháng ấy... Cũng có thể các sử liệu ghi lại đúng các
ngày, tháng lịch sử, nhưng trải qua các thay đổi, chiến tranh,
các thế kỷ truyền thừa v.v... các sử liệu ấy bị thất lạc, hoặc
bị ghi chép sai lầm.
- - Có khi do
sự tranh chấp ảnh huởng giữa các học phái mà ngày, tháng, năm ra
đời của đấng Giáo chủ hay của hệ tư tưởng bị sửa lại khác đi,
như trường hợp cạnh tranh ảnh hưởng Phật, Lão, Khổng ở Trung
Hoa.
- - Cũng có thể
có các tài liệu giả do ngoại đạo đánh tráo vào các tài liệu lịch
sử của Phật giáo để phục vụ ý đồ của ngoại giáo.
- - Cũng có thể
do các lý do xã hội, chính trị của các thời đại, tài liệu bị ghi
lại lệch đi, hoặc do sự ghi chép chủ quan và bị giới hạn của
người biên khảo.
- - Cũng có thể
sử liệu được ghi lại và được điều chỉnh theo quan niệm của bộ
phái.
- Qua một số lý
do vừa nêu, chúng ta không phải quá bận tâm đến sự chính xác của
một số sự kiện lịch sử và các ngày, tháng, lịch sử của đức Phật.
Ðiều đáng ghi nhận nhất là hầu hết các sử liệu, gồm bia ký của
vua A-dục, đều xác nhận đức Phật là một nhân vật lịch sử, chứ
không phải là một nhân vật thần thoại, dù được nhìn dưới cái
nhìn của Bắc tạng hay Nam tạng.
- Ở đây, người
viết lược sử đức Thế Tôn dựa trên kinh tạng Nikàya, kinh tạng
A-hàm (Agama), bia ký của vua A-dục, tài liệu của kỳ đại hội
Tổng Hội Phật giáo Thế giới họp lần II tại Tokyo năm 1952, với
sự tham khảo thêm tài liệu Phật giáo của Edward J. Thomas (tác
giả cuốn "The Life of Buddha as Legend and History", "Buddhist
Thought", "Early Budhist Scriptures") và của Kimura Taiken (tác
giả của bộ "Lịch sử Tư tưởng Nguyên Thủy, Tiểu thừa và Ðại
thừa").
-
Bồ Tát Trước Khi Nhập Thai.
- Nam tạng và
Bắc tạng nhìn khác nhau về đức Phật, Thượng tọa bộ và Ðại chúng
bộ cũng nhìn khác nhau về Ngài.
- Bắc tạng cho
rằng đức Phật đã thành Phật từ lâu, kiếpy nà chỉ là thị hiện.
Nam tạng thì cho rằng kiếp này của Thế Tôn là kiếp cuối cùng
thành Phật; kiếp trước đây, Ngài là Bồ Tát ở cung trời Ðâu-suất
(Tusita) -- cõi trời thứ tư trong sáu cõi trời Dục giới (Tứ
thiên vương, Tam thập tam, Dạ-ma, Ðâu-suất. Hóa lạc và Tha hóa
tự tại). Cõi này có bốn ngàn tuổi thọ, tương đương với năm trăm
bảy mươi sáu triệu năm của con người trên trái đất (theo kinh
Ðại Bổn, Trường Bộ kinh III; kinh Hi Hữu Vị Tăng Hữu Pháp, Trung
Bộ III; Vị Tăng Hữu Pháp, Trung A-hàm, số 32 đại I, 469c; và
Kinh Tập, Tiểu Bộ kinh).
- Quan niệm của Bắc tạng thì tương
tự với quan niệm tôn giáo của phần lớn các tôn giáo khác, thường
có khuynh hướng siêu thực, Thánh hóa vị Giáo chủ.
- Thượng tọa bộ
thì nhìn đức Phật một cách hiện thực hơn, đi sát với các sự kiện
lịch sử. Nhưng cả hai Nam và Bắc tạng, đều xác nhận: trước khi
thành Phật, Thế Tôn được gọi là một Bồ Tát ở Ðâu-suất.
- Cách nay chín
mươi mốt kiếp (1 kiếp "kappa, kalpa": bằng đời sống của một thế
giới, bằng một ngày đêm của cõi trời Phạm thiên, bằng bốn ngàn
ba trăm hai mươi triệu năm ở trái đất: theo Tự điển Sanskrit của
Amarasimhakosa), Thế Tôn Tỳ-bà-thi (Vipassi) ra đời. Cách nay ba
mươi mốt kiếp, Thế Tôn Thi-khí (Sikhi), Tỳ-xá-phù (Vessasbhù),
Câu-lưu-tôn (Kakusandha), Câu-na-hàm (Konàgamana) và Thế tôn
Ca-diếp (Kassapa) đã ra đời. (Theo kinh Ðại Bồn và Vị Tằng Hữu
Pháp, như vừa trích dẫn ở trên).
- Ở Ðâu-suất,
Thế Tôn luôn luôn an trú trong chánh niệm tỉnh giác. Một lần,
một số chư Thiên ở Ðâu-suất và chư Thiên ở các cõi Sắc giới,
"các vị Trời trước đây đã được Thế Tôn Tỳ-bà-thi giáo hóa -
thuật lại cho Bồ Tát nghe về các sự kiện chư Thế Tôn trước đây
đã ra đời và thỉnh cầu Bồ Tát xuống trần để hóa độ chúng sinh".
Nay là thời điểm của đức Thế Tôn.
-
Bồ Tát Vào Thai Mẹ.
- (Theo kinh
Hi Hữu Vị Tằng Hữu Pháp; Vị Tằng Hữu Pháp...)
- Khi hết tuổi
thọ ở Ðâu-suất, Bồ tát chánh niệm tỉnh giác đi vào thai mẹ,
Hoàng hậu Ma-da (Màyadevi) ở kinh thành Ca-tỳ-la-vệ
(Kapilavatthu, Skt. Kapilavastu).
- Bấy giờ một
hào quang kỳ diệu, thắng xa hào quang chư Thiên, thắng xa ánh
sáng mặt trời, soi sáng khắp các cõi, khắp đến những nơi tối tăm
mà ánh sáng mặt trời không thể soi thấu, mười nghìn thế giới
rung động, chấn động mạnh Bồ tát ở trong thai mẹ như ở trong
chiếc hộp kim cương trong sáng, có bốn Thiên tử canh gác bốn góc
trời, không để cho loài Người hay khác loài Người xúc phạm đến
thai nhi và Hoàng hậu.
- Trong lúc
mang thai, người mẹ hưởng đầy đủ năm dục công đức (sắc, thanh,
hương, vị, xúc) và thấy rõ thai nhi như thấy rõ viên ngọc ở
trong lòng bàn tay, với đầy đủ các bộ phận của cơ thể, rất hoàn
mỹ. Thời gian mang thai là mười tháng. Trong thời gian này, tâm
người mẹ thường hoan hỷ, không khởi lên dục ý với bất cứ người
khác phái nào.
-
Ngày Ðản Sanh.
- (Theo kinh
Ðại Bổn; Vị Tằng Hữu Pháp...)
- Theo truyền
thuyết Phật giáo, mẹ của Bồ tát đứng mà sanh. Hoàng hậu Ma-da
sanh Hoàng tử nơi cội hoa Vô-Ưu, khi đang thưởng hoa ở vườn Ngự
Lâm-tỳ-ni (Lumbini). Khi ra khỏi lòng mẹ, Thái tử oai nghiêm như
một Pháp sư đang bước xuống Pháp tòa, sáng chói như một viên
hồng ngọc, thanh tịnh, không dính một chất dơ nào từ lòng người
mẹ, chân Thái tử không chạm đất, có bốn Thiên tử đỡ (rồi chuyển
qua tay con người), đặt Thái tử trước Hoàng hậu và thưa: "Hoàng
hậu hãy hoan hỷ. Hoàng hậu vừa sanh một vĩ nhân". Từ hư không có
một dòng nước ấm và một dòng nước mát tắm gội cho Thái Tử và
Hoàng hậu. Thái tử đứng vững chân, mặt hướng về phương Bắc, buớc
đi bảy bước (đây là bảy bước đi truyền thống của chư Phật), có
lọng trắng che, nhìn khắp mọi phương, rồi cất tiếng nói với
giọng êm ả như tiếng chim Ca-lăng-tần-già (sống ở Hi-mã), vừa
trầm hùng như tiếng Ngưu vương, rằng: "Ta là bậc Tối thượng ở
đời. Ta là bậc Tôn kính ở đời. Nay là đời sống cuối cùng, không
còn sanh lại nữa".
- Truyền thống
kinh Bắc tạng và A-hàm (Kinh Ðại Bản Duyên) cho rằng Thái tử
sanh ra từ hông bên hữu của Hoàng hậu, bước đi hay bước, tay chỉ
trời, tay chỉ đất mà nói rằng: "Trên trời và dưói đất chỉ có Ta
là hơn cả".
- Bấy giờ, một
hào quang kỳ diệu... chiếu khắp mưòi nghìn thế giới, các thế
giới đều chấn động, rung động.
- Ðại hội Phật
giáo Thế giới họp kỳ II tại Tokyo (Nhật Bản), 1952, ghi ngày
Phật đản sinh là ngày trăng tròn tháng Vesaskha của Ấn Ðộ, năm
624 trước Tây lịch. Ngày, tháng, năm này dựa vào truyền thống
của Phật giáo Tích Lan. Theo đó, Phật lịch tính từ năm đức Phật
nhập Niết bàn, năm 544 trước Tây lịch.
- Theo Edward
J. Thomas trong cuốn "The life of Buddha as Legend and History",
ấn hành ở London năm 1956, thì ngày Ðản sanh vào năm 563 trước
Tây Lịch. Cách tính này dựa vào bia ký của triều đại các vua xứ
Ma-kiệt-đà, vua A-dục và Chandagupta, liên hệ đến sự kiện lịch
sử của đức Phật.
- Theo tài liệu
của Lương Khải Siêu, trong tập "Phật học Nghiên cứu Thập bát
thiên", dẫn chứng từ "Thiện Kiến Luật" thì Phật nhập Niết Bàn
vào năm thứ 35 vua Kinh Vương nhà Châu, hay là nhằm đời Ai Công
năm thứ 7 nước Lỗ, tức trước Tây Lịch 485 năm; liền sau khi Phật
nhập Niết bàn, Tôn giả Ưu-ba-ly (Upàli) kiết tập Luật tạng, lập
nên bộ Thiện Kiến Luật. Mỗi năm, vào ngày Tự tứ, bộ luật được
dâng hương cúng dường và ghi vào phía sau một điểm (chấm). Bộ
luật này được truyền thừa liên tục. Ngài Tăng-già-bạt-đà-la
(Sanghabhadra) đem bộ Luật sang Trung quốc vào đời Tề, năm 489
Tây lịch và dịch ra Hán văn tại chùa Trúc Lâm, Quảng Châu. Ngày
Tự tứ năm ấy ghi đến điểm thứ 967 (Dựa vào đây để xác định năm
Phật nhập Niết bàn).
-
Thân Thế Hoàng Tử.
- (Theo Kinh
Ðại Bổn; Kinh Tập - Sutta Nipatta; bia ký của vua A-Dục; và tài
liệu Edward J. Thomas).
- Thái tử tên
là Tất đạt đa (Siddhattha, Skt. Siddhar-tha), thân phụ là vua
Tịnh Phạn (Suddhodana) và thân mẫu là Hoàng hậu Ma-da (Màyà),
dòng dõi Thích Ca (Sakya, Skt. Sàkya), giai cấp Sát-đế-lợi
(Khattya, Skt. Kastriya), ở kinh đô Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu,
Skt. Kapilavastu) thuộc xứ Nepal Therai, Ðông Bắc Ấn Ðộ.
- Di mẫu của
Thái tử là Ma-ha-ba-xà-ba-đề (Mahàpajapati) em ruột của Hoàng
hậu Ma-da, con gái của vua Anjana, dòng họ Koliya.
- Bảy ngày sau
khi đản sanh, hoàng hậu Ma-da thác sinh về cung trời Ðâu-suất.
Bà Ma-ha-ba-xà-ba-đề nuôi dưỡng Hoàng tử để về sau kế vị vua
Tịnh Phạn.
-
Tướng Mạo Của Hoàng Tử
- (Kinh Ðại
Bổn, Kinh Tập, Tiểu Bộ Kinh).
- Liền sau ngày
Ðản sanh, vua Tịnh Phạn cho mời các Ba-la-môn đến xem tướng Thái
tử. Các Bà-la-môn tâu rằng: "Thái tử có đủ ba mươi hai tướng
tốt, là một bậc vĩ nhân. Ai có đủ ba mươi hai tướng quý sẽ sẽ là
một Chuyển luân Thánh vương nếu sống tại gia; sẽ là một
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác nếu xuất gia". Riêng Ðạo sĩ A-tư-đà
(Asita) người tu ở núi Hi-mã, vốn đã được nghe lời chư Thiên Tam
thập tam bàn tán về Thái tử rằng Người sẽ là bậc Chánh Ðẳng
Giác, quả quyết nói rằng "Thái tử nhất định sẽ xuất gia, nhất
định sẽ thành Phật và chuyển bánh xe Pháp".
- Ba mươi hai
tướng quý của Thái tử gồm có:
- 1. Lòng bàn chân bằng phẳng.
2. Gót chân thon.
3. Ngón tay, ngón chân thon dài.
4. Tay, chân mềm mại.
4. Chân có màn da lưới.
6. Mắt cá tròn như con sò.
7. Ống chân như chân con dê rừng.
8. Tay dài đến đầu gối.
9. Tướng mã âm tàng.
10. Da trơn mượt, bụi không thể nào dính.
11. Mỗi lỗ chân lông có một lông mọc.
12. Màu da như đồng, màu sắc như vàng.
13. Lông mọc xoáy tròn về phía bên phải, màu xanh đậm như thuốc
bôi mắt.
14. Thân hình cao thẳng.
15. Bảy chỗ tròn đày.
16. Nửa mình trước thân sư tử.
17. Không có lõm khuyết giữa hai vai.
18. Thân cân đối như cây bàng (Nigrodha), bề cao của thân bằng
bề dài của hai sải tay dang rộng.
19. Nửa thân trên vuông tròn.
20. Vị giác hết sức bén nhạy.
21. Quai hàm sư tử.
22. Có bốn mươi răng.
23. Răng không khuyết hở.
24. Răng trơn láng.
25. Răng đều đặn.
26. Lưỡi rộng và dài.
27. Giọng nói êm ả như tiếng chim Ca-lăng-tần-già
28. Ðôi mắt màu xanh đậm.
29. Có lông mi như con bò cái.
30. Có một sợi lông trắng mịn giữa hai lông mày.
31. Hai lòng bàn chân có hai hình bánh xe với một ngàn tăm xe.
32. Có nhục kế trên đầu.
- Một số tài liệu khác còn kể thêm
tám mươi vẻ đẹp phụ nữa.
- Ðời
Sống Và Giáo Dục Của Thái Tử
- (Theo các
Kinh Ðại Bổn, Trường Bộ Kinh III; Kinh Thánh Cầu, Trung Bộ Kinh
I; Ðại Kinh Saccaka, Trung Bộ Kinh I; Nidànakatthà, Tiểu Bộ
Kinh; Kinh La-ma, A-hàm; Ðại I 775C).
- Thuở nhỏ,
Thái tử được vua Tịnh Phạn và Di mẫu cưng chiều, chăm sóc và
giáo dục rất hoàn mỹ, được mọi người yêu vì. Các danh sĩ
Tỳ-sa-mật-đa-la (Visvàmistra) dạy Thái tử về văn; San-đề-đề-bà
(Ksantidiva) dạy về võ kể từ năm bảy tuổi. Không bao lâu sau
Thái tử tinh thông văn võ.
- Ngoài tài
năng lỗi lạc, Thái tử được các bậc thầy và mọi người quý kính về
đức hạnh và tình người.
- Trong một
buổi lễ Xuống ruộng (hạ điền) do nhà vua chủ trì, giữa lúc các
thị nữ mải mê xem lễ, Thái tử, bấy giờ còn nhỏ, một mình ngồi
kiết già dưới cội cây Gioi (Rose-apple) và chứng nhập Sơ thiền.
Khi vua cha trở lại thấy dáng dấp trầm tư, tĩnh mặc của Thái tử
đầy đạo khí, đã phải kinh ngạc thốt lên: "Ôi, con thân yêu! Ðây
là lần thứ hai cha nghiêng mình trước con" (Lần thứ nhất vào lúc
Ðản sanh).
- Lớn lên, Thái
tử Tất-đạt-đa luôn luôn lộ vẻ trầm tư về cuộc sống. Vua Tịnh
Phạn lo lắng, cho xây cất ba tòa nhà hợp với ba mùa khí hậu, và
truyền cho Thái tử hưởng thọ sung mãn năm thứ dục lạc. Nhưng
hạnh phúc trần gian không làm khuây khoả được ưu tư của người
xuất thế, Thái tử vẫn mỗi ngày xích lại gần với quyết định xuất
gia. Nhà vua lại vội cưới Công chúa nước láng giềng Da-du-đà-la
(Yasodhàra), một trang tuyệt sắc, cho Thái tử với hy vọng hương
sắc tình yêu của nàng sẽ buộc chân Thái tử.
- Có những lần
ra khỏi bốn cửa thành, dạo chơi vườn Ngự, chứng kiến các cảnh
sanh, già, bệnh, chết, lòng Thái tử trở nên u buồn, dao động đến
cực độ.
- Một hôm, nói
chuyện với một Ðạo sĩ sống đời ly dục, Thái tử thấy thoáng hiện
đằng sau mẫu người thanh thoát này một con đường giải thoát.
- Bấy giờ, Thái
tử vừa hai mươi chín tuổi, bà Da-du-đà-la vừa mới mang thai (có
tài liệu chép bấy giờ bà đã sanh Ràhula). Thái tử nhất quyết từ
bỏ cung vàng vào rừng xanh tìm đạo.
-
Quãng Ðường Tu Hành Của Thái Tử.
- (Theo Kinh
Thánh Cầu, Trung Bộ Kinh I; Ðại Kinh Saccaka; Kinh La-Ma; Ðại I.
775C; Kinh Sư Tử Hống, Ðại I, Trung Bộ I; Kinh Khô Ấm, A-hàm,
Ðại I. 584-C; bia ký của vua A-dục; và tài liệu Kimura Taiken).
- Nhìn thấy rõ
tướng vô thường và khổ đau đang bủa xuống quanh cuộc sống, đêm
rằm tháng hai âm lịch, Thái tử lên ngựa Kiền-trắc (Kanthaka)
cùng với người hầu cận trung thành Xa-nặc (Chandaka) vượt hoàng
thành vào Hy-mã để lại đằng sau cuộc sống thương yêu và vương
vị.
- Dưới chân núi
Tuyết, Thái tử lại một lần nữa từ giã Xa-nặc thân thương và
Kiền-trắc trân quý (Sử chép, về sau Kiền-trắc bỏ ăn mà chết).
Ðằng trước Ngài là rừng xanh, đằng sau Ngài là sanh tử.
- Thái tử tìm
đến học đạo với A-đa-la Già-đa-na (Alàra Kàlàma), một đạo sĩ đã
chứng đắc Vô sở hữu xứ định. Không bao lâu, Ngài chứng đắc những
gì mà Alàra đã chứng đắc. Biết rằng đây không phải là đích giải
thoát, Ngài từ giã Alàra đến học đạo với Ưu-đà Già-la-ma Tử
(Uddaka Ràmaputta), vị đạo sĩ đã chứng đắc Phi tưởng phi phi
tưởng xứ định. Chỉ trong một thời gian ngắn, Ngài chứng đắc
những gì mà Uddaka đã chứng đắc. Lại biết rằng đây vẫn còn ở
trong vòng sanh tử, Ngài lại ra đi, chẳng còn ai để theo học đạo
nữa. Ngài cùng với năm anh em Tôn giả Kiều-trần-như (Kodanna) tu
khổ hạnh sáu năm. Ngài trở thành đạo sĩ đệ nhất khổ hạnh, đệ
nhất bàn uế, đệ nhất yếm ly, và đệ nhất độc cư Thiền định. Cho
đến khi thân chỉ còn da bọc xương, Ngài nhận ra rằng đây chỉ là
một ngõ đường tu lầm lẫn; rồi một mình một bóng ra đi.
- Trong thời
gian khổ hạnh, có ba tư tưởng đặc biệt chưa từng có trước đây đã
khởi lên trong tâm Ngài.
- - Như với một
khúc cây xanh, đầy nhựa sống, để trong nước thì sẽ không nhúm
lên lửa được. Cũng vậy, với lòng đầy dục vọng, tham ái, người tu
sẽ không chứng được Chánh Ðẳng Giác.
- - Như với
khúc cây xanh ấy, sau khi vớt ra khỏi nước, sẽ không nhúm lên
được lửa. Cũng vậy, với lòng đầy tham ái, nhiệt não, người tu sẽ
không đi đến chứng ngộ Vô thượng Bồ Ðề?
- - Như với
khúc cây khô, được lấy ra khỏi nước, và được để trên một chỗ đất
khô, với đồ làm lửa, người ta có thể nhúm lên được lửa. Cũng
vậy, với lòng xả ly dục ái, tham ái, người tu có thể chứng đắc
A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác (2).
- Ngài bắt đầu
dồn hết nổ lực vào việc tu tập Thiền định, dùng tâm chế ngự tâm.
Nỗ lực tu tập quá mức, thân Ngài bị đau đớn và tâm Ngài dao
động. Ngài tập nín thở đến thời gian lâu nhất có thể nín được,
lại càng nghe đau đớn bất an. Nỗ lực nín thở thêm nhiều lần nữa,
Ngài vẫn không thấy được ánh sáng giải thoát. Bỗng nhiên, trong
một thoáng, Ngài nhớ lại kinh nghiệm vào Sơ thiền trong dịp lễ
Xuống ruộng (Hạ điền), lòng đầy hân hoan, Ngài tin rằng đây là
ngõ vào Chánh giác.
- Ngài đi đến
nước Ma-kiệt-đà (Magadha) tụ lạc Ưu-lâu-tần-loa (Uruvelà), nơi
có một khóm rừng xinh đẹp, có con sông trong trẻo, êm ả chạy
gần, có làng mạc rất dễ khất thực. Ngài dừng chân và chọn đây
làm cứ điểm tìm đạo sau cùng.
- Ngài giữ
chánh niệm, tỉnh giác hành Thiền, ly dục và lần lượt vào Tứ sắc
định, hướng tâm đến Tam minh, Ngài thấy rõ lý Duyên khởi, khéo
tác ý thuận chiều, biết rằng:
- Do cái này có mặt, cái kia có
mặt;
Do cái này sanh, cái kia sanh;
Do vô minh có hành, do hành có thức v.v...
- Ngài thấy rõ
nguyên nhân của khổ đau: chính sự tập khởi của Mười hai nhân
duyên là tập khởi của toàn bộ khổ uẩn. Ở canh một này, Ngài
chứng Túc mệnh thông (Túc mệnh minh) thấy rõ vô lượng kiếp quá
khứ của mình (Tự thân).
- Sang canh
hai, Ngài chứng Thiên nhãn thông (Thiên nhãn minh), thấy rõ vô
lượng kiếp quá khứ của chúng sanh, với các nghiệp nhân và nghiệp
quả, và thấy rõ con đường thọ nghiệp của chúng sanh.
- Qua canh ba,
Ngài tác ý nghịch chiều Duyên khởi:
- Do cái này không có, cái kia
không có;
Do cái này diệt, cái kia diệt;
Do vô minh diệt nên hành diệt v.v...
- Ngài như thật
thấy khổ đau, nguyên nhân của khổ đau, sự đoạn tận khổ đau và
con đường đưa đến đoạn tận khổ đau. Ở canh này, Ngài chứng Lậu
tận thông (Lậu tận minh), biết rằng đây ra đời sống cuối cùng,
không còn tái sanh nữa - Ở đầu canh một, khi vào Thiền định lạc
là khi Ngài đã chứng rốt ráo Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông và
Thần túc thông. Như thế ở canh ba, Ngài chứng đủ Lục thông.
- Ðến canh năm,
Ngài tác ý thuận và nghịch chiều. Duyên khởi, thấy rõ:
- Do cái này có, cái kia có;
Do cái này sanh, cái kia sanh;
Do cái này không có, cái kia không có;
Do cái này diệt, cái kia diệt.
- Ðúng lúc sao
mai mọc, Ngài chứng đắc Vô thượng Chánh Ðẳng Giác. Ngài là vị
A-la-hán Chánh Ðẳng Giác đầu tiên trong hiện kiếp. Về sau, Ngài
được xưng tán là Thế Tôn, đầy đủ mười danh hiệu: Như Lai, ứng
Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
-
Con Ðường Giáo Hóa.
- Ðức Thế Tôn
phân vân trước con đường giáo hóa: Giáo lý giải thoát thì tế
nhị, thâm sâu, ly dục, vô ngã, đi ngược với tập quán ham muốn và
suy tư chấp ngã của con người, làm sao để con người chấp nhận
giáo lý ấy?
- Giữa lúc ấy,
Phạm thiên Sahampati xuất hiện thỉnh cầu Thế Tôn cứu thế, chuyển
bánh xe Pháp vì hạnh phúc cho chư Thiên và loài Người. Rồi hình
ảnh hồ sen trước mặt, có những cọng sen vươn ra khỏi mặt nước,
có những cọng lưng chừng, có những cọng ở sâu trong lòng nước
v.v... gợi lên trong Thế Tôn hình ảnh căn cơ bất đồng của con
người: Có những căn cơ thấp như những cánh sen ở đáy hồ, những
căn cơ trung bình như những cánh sen ở lưng chừng nước, cũng có
những căn cơ cao có thể tiếp nhận giáo lý giải thoát của Ngài,
như những cánh sen đã nhô ra khỏi mặt nước có thể tiếp thu ánh
sáng mặt trời. Thế Tôn liền quyết định lên đường chuyển vận bánh
xe Pháp.
- Ngài dùng tuệ
nhãn quán sát ai sẽ là người có cơ duyên được độ trước. Ngài
nghĩ đến hai vị thầy cũ, Alàra và Uddaka. Hai người đã thác
sanh. Tiếp đến Ngài nghĩ đến năm người bạn cùng tu khổ hạnh,
thấy họ đang trú ở vườn Nai (Lộc Uyển), ở Banares (Bàranàsi).
Ngài liền đi bộ đến đấy. Tại đây, bài pháp đầu tiên về Tứ đế
được giảng gọi là "Sơ Chuyển Pháp Luân". Nghe xong, Tôn giả
Kiều-trần-như (Kodanna) chứng đắc Tu-đà-hoàn. Thế Tôn thu nhận
năm Tôn giả làm các đệ tử đầu tiên.
-
* Lần đầu tiên, Ngôi Tam Bảo được hình
thành, khởi đầu của Giáo hội Phật giáo.
- Thế Tôn giảng
tiếp Vô ngã, rằng Năm uân là vô thường, nếu ai thoát khỏi tham
ái, thì sẽ ra khỏi tái sinh, được giải thoát. Năm Tôn giả:
Kiều-trần-như (Kodanna) Bà-phạ (Vappa), Bà-đề (Bhaddhiya),
Ma-ha-nam (Mahànàma) và Thuyết Thị (Assaji) lần lượt chứng đắc
A-la-hán.
- Thế Tôn tiếp
độ Da-xá (Yasa) ở Benares với bốn người khác nữa, tất cả đều đắc
A-la-hán. Thế là, tại Benares, Giáo hội được hình thành gồm mười
một vị A-la-hán (kể cả Thế Tôn).
- Sau khi dạy
mười vị A-la-hán đầu tiên mỗi vị đi về một phưong để hoằng hóa,
Thế Tôn tiếp tục đi đén Ưu-lâu-tần-loa (Uruvela) thuyết pháp độ
ba anh em Ca-diếp (Kassapa) và ngót một ngàn đệ tử của ba Ngài.
Ở đây, vua Tần-bà-sa-la (Bimbisàra) yết kiến Thế Tôn. Sau khi
nghe Thế Tôn thuyết giảng, nhà vua hiểu pháp, liền cung thỉnh
Thế Tôn cùng một ngàn vị A-la-hán thọ trai, rồi dâng cúng Thế
Tôn và chư Tăng tịnh xá Trúc Lâm (Veluvana), một khuôn viên rộng
lớn gần thành Vương Xá. Bấy giò là tháng Vesakha, giữa tháng tư
và tháng năm dương lịch, đầu mùa kiết hạ. Giáo hội của Thế
Tôn an cư mùa mưa đầu tiên ở đây. Hai tháng tiếp theo mùa an
cư, Thế Tôn và chư Tăng trú ở Vương Xá. Chính trong thời gian
này, một đạo sĩ tu khổ hạnh có ngót năm trăm đệ tử, trong đó có
tôn giả Xá-Lợi-Phất (Sàriputta) và Mục-Kiền-Liên (Moggallàna),
được Thế Tôn hóa độ. Từ đấy, thường có một ngàn hai trăm năm
mươi vị Tỳ-kheo tháp tùng Thế Tôn.
- Tôn giả
Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên vốn là hai người bạn chí thân. Trên
đường tìm đạo giải thoát, trước khi gặp Thế Tôn, Tôn giả
Xá-lợi-phất đã chứng đắc Tu-đà-hoàn quả khi lần đầu tiên nghe
Tôn giả Thuyết thị nói tóm tắt giáo lý Duyên khởi. Sau đó, trước
Thế Tôn, hai Tôn giả đều chứng đắc A-la-hán.
- Tôn giả
Xá-lợi-phất là bậc trí tuệ bậc nhất của Giáo hội, Tôn giả
Mục-kiền-liên là bậc thần thông đệ nhất. Do lẽ đó, Thế Tôn chọn
Tôn giả Xá-lợi-phất làm trưởng tử, bậc Tướng quân Chánh pháp và
chọn Tôn giả Mục kiền liên là đại đệ tử thứ hai. Từ đấy, hai Tôn
giả thường thay mặt Thế Tôn để hướng dẫn Tăng chúng. Ðây là thời
điểm đánh dấu sự phát triển mạnh của Giáo hội Phật giáo dưới sự
lãnh đạo của Thế Tôn.
- Giữa mùa đông
năm ấy, Thế Tôn trở về Ma-kiệt-đà, Vua Tịnh Phạn hay tin, liền
gởi một sứ thần và phái đoàn gồm một ngàn người đến thỉnh mời
Thế Tôn về thăm hoàng triều. Cả phái đoàn đều xuất gia. Nhà vua
lại phái một phái đoàn gồm một ngàn người khác đi thỉnh mời. Tất
cả lại đều xuất gia, không trở về triều. Lần thứ ba nhà vua cử
Ka-lưu-đà-di (Kàludàyi), con một đại thần, là bạn cùng tuổi thời
trai trẻ của Thái tử Tất-đạt-đa, Ka-lưu-đà-di cũng xuất gia. Tất
cả hai ngàn người của hai đoàn sứ giả và Ka-lưu-đà-di đều chứng
đắc A-la-hán. Liền sau đó, Ka-lưu-đà-di bạch lên Thế Tôn lời
thỉnh cầu của vua Tịnh Phạn. Thế Tôn nhận lời, rồi cùng một ngàn
hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo lên đường hóa độ Hoàng tộc.
- Bấy giờ,
Nan-đà (Nanda), em trai của Thế Tôn, và La-hầu-la (Ràhula) con
của Thế Tôn đều xuất gia. Vua Tịnh Phạn đắc Tư-đà-hàm, di mẫu
Ma-ha-ba-xà-ba-đề đắc Tu-đà-hoàn (về sau di mẫu cùng bà
Da-du-đà-la xuất gia và đắc A-la-hán); vua Tịnh Phạn ở tại vị và
đắc A-la-hán vào lúc xả báo thần, đúng theo truyền thống của
Phật-đà ghi ở Kinh Ðại Bổn. Các hoàng thân Bà-đề (Bhaddiya),
A-nậu-lâu-đà (Anuruddha), A-nan (Ananda), Bà-già (Bhagu),
Bạc-câu-la (Kimbila), Ðề-bà-đạt-đa (Devadatta) cùng người thợ
hớt tóc của các hoàng thân, Ưu-ba-ly (Upàli), cũng xin xuất gia.
Bà-đề từ đầu đắc liền Tam minh, A-nậu-lâu-đà đắc Thiên nhãn và
Túc mệnh minh, A-nan đắc Tu-đà-hoàn. Ưu-ba-ly về sau đắc
A-la-hán, Ðề-bà-đạt-đa đắc Tứ thiền sắc giới.
- Tiếp tục cuộc
hành trình hoẵng hóa, Thế Tôn đến Xá-vệ (Sàvatthì) độ cư sĩ Cấp
Cô Ðộc (Anàthapindika), nhận ngội vườn và Tịnh xá Kỳ Hoàn
(Jetavana) do cư sĩ này dâng cúng, và độ nữ cư sĩ Lộc Mẫu
(Visàkhà). Hai người cư sĩ này hộ pháp rất đắc lực, hàng ngày
đến vấn an sức khỏe đức Thế Tôn và lo tứ sự cúng dường (y áo,
thức ăn, thuốc men và sàng tọa) cho chư Tăng.
- Năm thứ năm
sau ngày Thế Tôn thành đạo, bà Ma-ba-xà-ba-đề được Thế Tôn nhận
lời, qua lời khẩn khoản thỉnh cầu của Tôn giả A-nan, cho xuất
gia kèm theo điều kiện "Bát Kỉnh Pháp". Giáo hội Ni ra dời từ
đây.
- Từ đây, khi
Giáo hội Tăng và Ni thành lập với số Tăng-Ni khá đông, nhiều qui
luật tu hành bắt đầu được thiết lập.
- Theo tài liệu
của Edward J. Thomas, Chương X, trong cuốn "The Life of Buddha
as Legend and History", thì một số vấn đề giới luật bắt đầu
tượng hình vào năm thứ sáu sau ngày Thế Tôn chuyển bánh xe Pháp,
và thành hình rõ từ năm thứ mười sau ngày thành đạo. Theo Luật
tạng thì giới luật hẳn nhiên được đặt ra từ năm thứ mười ba, do
Tôn giả Ưu-bà-ly đặc trách (vấn đề này sẽ được bàn đến ở phần
Giới học, chương Pháp Bảo).
- Trong giáo
hội Tăng và Ni, Thế Tôn đã tuỳ duyên hóa độ đủ mọi giai cấp
trong xã hội, không phân biệt giàu nghèo, nam nữ, sang hèn,
ngưòi có trình độ văn hóa cao, thấp, địa vị v.v.:
- - Tôn giả Xá lợi Phất và
Mục-kiền-liên đại biểu thành phần học giả, trí thức.
- Tôn giả A-nậu-lâu-đà, A-nan... đại biểu cho thành phần hoàng
tộc, vua chúa.
- Tôn giả Ưu-ba-ly đại biểu giai cấp công nhân.
- Tôn giả Angulimàla là một tướng cướp.
- Nữ tôn giả Patàcàrà là người bình dân, đã loạn trí vì đau khổ
cùng độ (mất hết cha mẹ, em, chồng và con).
- Một cô gái giai cấp cùng đinh.
- Ni cô Addahakasi vốn là kỹ nữ, v.v... (Trưởng lão Ni kệ).
- Thế Tôn tiếp
tục giáo hóa độ sanh cho đến tám mươi tuổi mới vào Niết bàn vô
dư y. Kinh chép, hàng đệ tử nổi bật của Ngài gồm có:
- * Về chư
Tăng: (Tăng Chi Bộ Kinh I, Phẩm Tối Thắng).
- - Tôn giả Kiều-trần-Như là vị xuất
gia đầu tiên.
- Tôn giả Xá-lợi-phất: Trí tuệ đệ nhất.
- Tôn giả Mục-kiền-liên: Thần thông đệ nhất.
- Tôn giả Ca-diếp: Ðầu đà đệ nhất.
- Tôn giả Ưu-ba-ly: Trì giới đệ nhất.
- Tôn giả A-nậu-lâu-đà: Thiên nhãn đệ nhất.
- Tôn giả Bà-đề (Bhaddiya): Âm thanh vi diệu đệ nhất.
- Tôn giả Phú-lâu-na (Punna Mantàniputta): Thuyết pháp đệ nhất.
- Tôn giả Ca-chiên-diên (Mahà Kaccana): Thuyết giảng rộng rãi đệ
nhất
- Tôn giả Bà-đề (Bhaddiya): Quí tộc đệ nhất.
- Tôn giả Pindola Bhàradyàja: Nói pháp với tiếng rống sư tử đệ
nhất.
- Tôn giả La-hầu-la: Ưa thích học tập đệ nhất.
- Tôn giả Tu-bồ-đề (Subhùti): Thanh tịnh và vô tránh đệ nhất,
được cúng dường đệ nhất.
- Tôn giả Ràdha: Biện tài đệ nhất.
- Tôn giả Kiếp-tân-na (Mahà Kappina): Giáo giới đệ nhất.
- Tôn giả Revata: Ðộc cư Thiền định đệ nhất.
- * Về chư
Ni:
- - Nữ tôn giả Ma-ha-ba-xà-ba-đề:
Trưởng lão Ni đệ nhất (tu đầu tiên).
- Khemà: Trí tuệ đệ nhất.
- Uppalavannà: Thần thông đệ nhất.
- Dhammadinnà: Thuyết pháp đệ nhất.
- Nandà: Tu thiền đệ nhất.
- Bakulà: Thiên nhãn đệ nhất.
- Bhaddakàccàna: đại thắng trí đệ nhất.
- Kisagotami: Ðệ nhất mang thô y.
- Sigalàkamàtà: Tín giải đệ nhất.
- Sonà: Tinh cần đệ nhất.
- * Về Nam
cư sĩ:
- - Cư sĩ Tapassubhalli: quy y đầu
tiên.
- Cấp Cô độc: Bố thí đệ nhất.
- Citta: Thuyết pháp đệ nhất.
- Hatthaka Alavaka: Nhiếp phục hội chúng đệ nhất.
- Hatthigàmaka Uggata: Hộ trì chư Tăng đệ nhất.
- Ambattha: Tịnh tín đệ nhất.
- Nakulapità: Thân mật đệ nhất.
- ...
- * Về Nữ
cư sĩ:
- - Sujàta (Tu-xà-đề): Quy y đầu
tiên.
- Visàkhà: Bố thí đệ nhất.
- Khujjutarà: Ða văn đệ nhất.
- Uttara: Tu thiền đệ nhất.
- Suppiyà: Săn sóc bệnh nhân đệ nhất.
- Kàtiyàni: Tịnh tín đệ nhất.
- Nakulamàtà: Thân mật đệ nhất.
- ...
- Những
Ngày Cuối Cùng.
- (Theo kinh Ðại Bát Niết bàn.
Trường Bộ Kinh III).
- Năm tám mươi
tuổi, trở nên già yếu, Thế Tôn quyết định nhập Niết Bàn Vô dư y,
sau ba lần Ma vương (Màra) thỉnh cầu, và sau ba lần Thế Tôn gợi
ý cho Tôn giả A-nan thỉnh cầu Thế Tôn trú thế mà Tôn giả không
nhận ra ý của Ngài.
- Ba tháng cuối
cùng, Thế Tôn cùng Tôn giả A-nan đi bộ từ thành Vương Xá đến
Beluva.
- Trên đường
đi, trong thời gian này, Thế Tôn đã ngăn được một chiến sắp xảy
ra giữa xứ Ma-kiệt-đà của vua A-xà-thế (Ajatasattu) và xứ Bạt-kỳ
(Vajji).
- Thế Tôn tiếp
tục độ những ai đáng được độ. Du sĩ ngoại đạo Subbaddha là ngưòi
sau cùng được Thế Tôn cho xuất gia, thọ đại giới. Không bao lâu
sau đó, Subbaddha đắc A-la-hán. Ðây là vị A-la-hán sau cùng
trước khi Thế Tôn nhập diệt.
- Một cư sĩ
khác, Cư sĩ Thuần-đà (Cunda), người thợ sắt, được Thế Tôn thuyết
pháp khích lệ, đã dâng cúng Thế Tôn chiếc áo kim sắc (vàng chói)
và cúng dường bữa ăn sau cùng. Trong bữa ăn này, ngoài món ăn
thượng vị còn có thứ mộc nhĩ (Sùkara-madde). Dùng xong, Thế Tôn
bị bệnh l?uyết, đau đớn, nhưng Thế Tôn dùng định lực nhiếp phục
khỏi bệnh cùng Tôn giả A-nan tiếp tục cuộc hành trình đến
Kusinàra. Thế Tôn dạy Cunda "Ðó là một loại nấm độc; chỉ trừ Như
Lai ăn xong mới không bị chết, hãy đem chôn phần thức ăn còn
lại". Thế Tôn lại dặn dò Tôn giả A-nan hãy đánh tan mọi hối hận
có thể xảy ra trong lòng Cunda về bữa cơm cúng dường ấy, và đánh
tan dư luận bàn tan hiểu lầm về lòng thành cúng dường của Cunda
- (Theo kinh Ðại Bát Niết-Bàn, Trường Bộ III).
-
Những Lời Dạy Cuối Cùng.
- - "Này A-nan,
Pháp và Luật mà Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt
độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là bậc Ðạo sư của các Ông" (Ibid.
tr. 154).
- - "Này A-nan,
sau khi Ta diệt độ, có thể huỷ bỏ những học giới nhỏ nhặt"
(Ibid. tr. 154).
- - "Này các
Tỳ-kheo (Bấy giờ có mặt năm trăm vị Tỳ-kheo đều là Thánh hữu
học), vô học, nếu có Tỳ-kheo nào nghi ngờ về Phật, Pháp và chúng
Tăng, Ðạo hay phương pháp, thời hãy hỏi đi, về sau chớ có hối
tiếc...".
- Thế Tôn hỏi
ba lần, nhưng tất cả đều im lặng, biểu lộ sự không còn có nghi
ngờ.
- - "Này các
Tỳ-kheo, nay Như Lai khuyên các Ông; Các pháp hữu vi là vô
thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật" (Ibid. tr. 156).
- Chính đây là
lời dạy sau rốt trong những lời dạy sau cùng của Như Lai.
-
Thế Tôn Nhập Vô Dư Y Niết-Bàn.
- Thế Tôn dạy
Tôn giả A-nan cùng đi đến rừng Ta-la (Sàlà) của dòng họ Mallà ở
Kusinàra. Ta-la tự nhiên trổ hoa trái mùa đầy cành. Thế Tôn dạy
dọn chỗ nằm, đầu hướng về phía Bắc, giữa hai cây Ta-la song đôi.
Thế Tôn nằm nghiêng về hông bên phải, hai chân để lên nhau. Sau
khi dạy xong những lời dạy cuối cùng. Thế Tôn nhập định sơ Thiền
rồi xuất sơ Thiền, nhị Thiền rồi xuất nhị Thiền.... Phi tưởng
phi phi tưởng rồi xuất Phi tưởng phi phi tưởng, nhập Diệt thọ
tưởng rồi xuất Diệt thọ tưởng định, nhập Phi tưởng phi phi tưởng
rồi xuất phi tưởng phi phi tưởng... nhập sơ Thiền, xuất sơ
Thiền, cho đến nhập tứ Thiền, xuất tứ Thiền, Thế Tôn lập tức
diệt độ.
- Sau khi Thế
Tôn nhập diệt, chư Thiên và loài Người, những ai chưa tận trừ
trừ tham ái thì khóc than, áo não; những ai đã tận trừ tham ái
thì vững trú trong chánh niệm rằng: "Các hành là vộ thường, làm
sao có thể khác được?"
-
Lễ Hỏa Thiêu Xá Lợi Và Dựng Tháp Tôn
Thờ Xá Lợi.
- Dân chúng
Mallà ở Kusinàrà liên tục đảnh lễ, cung kính cúng dường kim thân
Thế Tôn với các điệu múa, điệu nhạc, hướng và hoa, rồi lập những
dàn hỏa thiêu tại đền Makuta Bandhana.
- Kim thân của
Thế Tôn được học 500 lớp vải (cứ một lớp vải tinh, một lớp vải
thô), đặt vào một hòm đầu bằng sắt, hòm này lại được bọc kín bởi
một hòm sắt khác. Dàn hỏa thiêu làm bằng loại gỗ hương thơm.
- Dàn hỏa thiêu
không thể bắt lửa cho đến khi Tôn giả Ðại Ca-diếp kịp về đảnh lễ
dưới chân Thế Tôn. (Khi được tin Thế Tôn thị tịch thì Tôn giả
Ðại Ca-diếp đang ở giữa chặng đường từ Pàvà đến Kusinàra).
- Khi thiêu
xong, không có thân hay tro còn lại, mà chỉ có Xá lợi. Một dòng
nước từ hư không và một dòng nước từ cây ta-la rưới tắt dàn hỏa.
Dân Mallà thì rưới tắt với các thứ nước thơm.
- Dân Mallà tôn
tri Xá-lợi trong giảng đường, suốt bảy ngày cung kính đảnh lễ,
dâng vũ, nhạc, hương hoa cúng dường.
- Xá Lợi được phân chia làm tám phần
cho:
- 1. Vua nước Maggadha.
2. Dòng họ Licchavi ở Vesàni (Dòng Sát-đế-lợi).
3. Dòng Thích-ca ở Ca-tỳ-la-vệ.
4. Dòng người Puli ở Allakappa (Dòng Sát-đế-lợi).
5. Những người Koli ở Ràmagàma (Dòng Sát-đế-lợi).
6. Những người Mallà ở Kusinàra.
7. Những người Mallà ở Pàvà.
8. Bà-la-môn Vethadipaka.
- Mười ngôi tháp được dựng lên để
tôn thờ Xá-lợi:
- - Tám tháp tôn thờ tám phần
Xá-lợi.
- Một tháp thờ cái bình dùng để phân chia Xá-lợi.
- Một tháp tôn thờ tro Xá-lợi.
-
Sự Khác Biệt Giữa Tư Tưởng Ấn Ðộ Và
Phật Giáo Dưới Thời Thế Tôn.
- Tư tưởng Ấn
Ðộ trước thời đức Phật và trong thời đức Phật:
- Các nhà
nghiên cứu về tư tưởng Ấn Ðộ thường có nhiều nhận định khác
nhau. Phát biểu về sự liên hệ giữa Vệ-đà và Phật giáo cũng thế.
Phải là một công trình nghiên cứu thật công phu mới có thể có sự
phân biệt rõ ràng và có giá trị về những điểm dị đồng giữa tưởng
Ấn Ðộ và Phật giáo.
- Trong phần
trình bày ngắn gọn này, chúng tôi chủ trương trưng dẫn vài nhận
định tiêu biểu và thêm vào ý kiến của riêng mình dựa vào năm
Nikàya và bốn Agàma.
- Theo
Radhakrishnan và Moore, trong cuốn "Indian Philophy", Triết lý
Ấn Ðộ chia ra làm năm giai đoạn:
- * Giai đoạn I: Từ 2500 TTL đến 600
TTL là giai đoạn của tư tưởng Vệ-đà.
- * Giai đoạn II: Từ 600 TTL đến 200
TL là giai đoạn tư tưởng Anh hùng ca.
- * Giai đoạn III: Là giai đoạn của
những thế kỷ đầu Tây Lịch, giai đoạn của Kinh (Sutra). Giai đoạn
này gồm các phái Triết học:
- - Nyàna hay Thực tại luận lý
(Logical Realism).
- Vaisesika hay Thắng luận, hay Ða nguyên thực tại luận.
- Sàmkhya hay số luận, hay Tiến hóa nhị nguyên luận
(Evolutionary Dualism).
- Yoga hay Thiền định.
- Pùrva Mìmamsa: những công trình diễn dịch đầu tiên về Vệ-đà
liên hệ đến Giới, và Uttara Mimamsa hay những khảo cứu về sau về
Vệ đà liên hệ đến tri kiến, cũng gọi là Vệ-đàn-đà (Vedanta),
đích của Vệ-đà.
- * Giai đoạn
IV: là giai đoạn học thuật, giai đoạn của các bản luận viết để
giải thích các Kinh đã ra đời.
- * Giai đoạn
V: Tư tưởng Ấn Ðộ đương thời.
- Giai đoạn
Vệ-đà là giai đoạn tư tưởng của văn hóa và văn minh Aryans, từ
Trung Á truyền qua. Ðây là giai đoạn triết học tựu thành ở
Upanishads. Có bốn loại Vệ-đà: Xưng tụng cái Biết (Rig-Veda),
Vệ-đà về Tế tự (Yajur-Veda); Vệ-đà về Thần chú, Ca vịnh
(Samma-Veda), và Vệ-đà do Ðạo sĩ Atharva truyền lại, có tính
cách tham bác và triển khai ý nghiã của ba bộ kia
(Atharva-Veda).
- Tư tưởng chủ
yếu của người Ấn trong thời Vệ-đà này là: Chân lý do Thượng Ðế
mặc khải cho loài Người ở đầu mỗi chu kỳ vũ trụ (mỗi chu kỳ:
4320 triệu năm trên trái đất. Rig-Veda đề cập đến rất nhiều vị
thần như thần Mặt trời (Sùrya), thần Lửa (Aggi), thần Bầu trời
(Dyaus), thần Bão tố (Maruts), thần Gió (Vayu hay Vàta), thần
Nước (Apas), thần Bình minh (Usas), thần Ðất (Prthivì), v.v...
Nhưng theo Radhakrishnan và Moore (Ibid, tr. 5) khi dân Ấn thờ
vị thần nào thì vị thần ấy trở nên vị Thần chúa tể (đấng sáng
tạo và hủy diệt vũ trụ.) Vì thế, Vệ-đà vừa mang ý nghĩa đa thần,
vừa mang ý nghĩa nhất thần, có thể được gọi là Ưu đẳng thần
(Henotheism hay Kathenotheism).
- Ðến thời kỳ
thứ hai của tư tưởng Ấn Ðộ, Phật giáo xuất hiện cùng với Kỳ-na
giáo (Jainism), Saivism và Vaisnavism.
- Phật giáo
xuất hiện có nghĩa là Phật giáo mang một nội dung khác với nội
dung tư tưởng Ấn Ðộ bấy giờ và trước đó.
- P.D. Mehta,
trong cuốn "Early Indian Religious Thought", nhà xuất bản Lusac
và Company Limited xuất bản ở London năm 1956, viết rằng: "Tôn
giáo được đức Phật đề xuất thì rất độc đáo, nó khác biệt một
cách sửng sốt với tất cả các tôn giáo lớn khác. Chánh pháp, mà
không phải là một con người thần thánh hay tuyệt đối, là suối
nguồn. Mục đích là vô ngã, sự chấm dứt khổ đau, và sự chứng ngộ
bất tử, Niết-bàn...".
- (But
Religion as pronounced by the Buddha is so orginal that it is
startling different from all the other great religions. The
Dhamma, and not a Divine Person or Absolute, is the fountain
head. The goal is selflessness, the cessation from being a
source of sufffering and evil, and the realization of the
Deathlessness of Nirvàna...) (p. 186-187).
- Geogre Grimm, một học giả người
Ðức, là một Phật tử, trong phần phụ lục "The Doctrine of the
Buddha as the Flower of Indian Thought" của cuốn "The Doctrine
of the Buddha" (Bản dịch ra Anh ngữ của Tỳ-kheo Sìlàcàra) viết:
"Giáo lý của đức Phật cũng gọi là giáo lý của Vô ngã, tương phản
với giáo lý Ngã của Vệ-đàn-đa" (..."The Doctrine of the
Buddha is also called the doctrine of not-I, anattà-vàda, as
contrasted with the I-doctrine, the Attà-vàda, of the Vedanta")
- (p. 370).
- Có rất nhiều
kinh ở Nikàya và Agama trình bày sự khác biệt rõ ràng giữa các
học thuyết Ấn Ðộ và Phật giáo. Chúng tôi, người viết, ghi nhận
đây là quan điểm riêng của Thượng tọa bộ và Nhứt thiết hữu bộ.
- Kinh Phạm
Võng (Brahmajàla Suttam) trình bày có sáu mươi hai luận chấp của
các học thuyết Ấn Ðộ bấy giờ khác biệt hẳn với Phật giáo. Trong
đó có mười tám luận chấp về quá khứ (gồm bốn thường trú luận,
bốn bán thườụng bán vô thường luận, bốn hữu biên vô biên luận,
bốn ngụy biện, và hai vô nhân luận), ba mươi chín luận chấp về
tương lai (gồm mười sáu luận chấp có tưởng sau khi chết, tám
luận chấp vô tưởng sau khi chết, tám luận chấp không phải có
tưởng không phải không có tưởng sau khi chết, và bảy đoạn diệt
luận) và năm luận chấp về hiện tại Niết bàn luận (Hán tạng tương
đương: kinh Phạm Ðộng, A-hàm).
- Phẩm Tương
ưng Không Thuyết (Avyàkata), Tương Ưng Bộ Kinh IV, trình bày các
luận chấp, các quan điểm sở dĩ có mặt là do sự có mặt của ái
thủ, ái hữu, ái ái, là do có chấp thủ ngã (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành
và Thức). Ðây là điểm khác biệt rõ ràng giữa các học thuyết Ấn
Ðộ dưới thời Thế Tôn với Phật giáo. Một đằng chủ trương các
thuyết liên hệ đến Ngã, một đằng chủ trương hết thảy các pháp là
Vô ngã. Một số các học giả bấy giờ cho rằng tư tưởng Vệ-đà và
Phật giáo gặp gỡ nhau ở thuyết Nghiệp báo (Kamma, Skt. Karma),
Luân hồi (Samsàra) và Giải thoát. Người viết nghĩ rằng đây chỉ
là sự giống nhau ở tên gọi (danh từ), nhưng nội dung thì chứa
đựng những gì khác hẳn nhau. Chủ trương về nghiệp báo, luân hồi,
nhân quả, giải thoát của Phật giáo sẽ được trình bày ở Chương
Pháp Bảo.
- Kinh Phạm
Ðộng (Hán tạng, Trường A-hàm, quyển 14) trình bày tương tự về
sáu mươi hai luận chấp trên và có kết luận ngay trong phẩm kinh
này rằng "Ngoại đạo do chấp thủ ngũ uẩn mà khởi xướng sáu mươi
hai luận chấp ấy".
- Lập trường
của Nikàya và Agama có thể được xem như là lập trường trung
thành với Phật giáo khởi nguyên (nguyên thủy) nhất. Ở đây hiện
rõ điểm khác biệt rất là nền tảng giữa Phật giáo và các tư tưởng
Ấn Ðộ đương thời và trước đó.
- Ði vào hiện
tượng xã hội của sự phân biệt giai cấp Ấn Ðộ, điểm khác biệt so
với Phật giáo lại càng dễ thấy hơn. Hiện tượng phân chia giai
cấp ấy có từ ngàn năm trước đến thời Thế Tôn và kéo dài cho đến
cận đại và hiện đại.
- Bốn giai cấp
của xã hội Ấn (Gồm Bà-la-môn, Sát đế lợi, Phệ-xá và Thủ-đà) có
nguồn gốc từ kinh Rig-Veda, bản kinh xưa nhất của Ấn giáo.
Rig-Veda, chương X, 90, 11 ghi rằng: "Miệng Ngài thành tu sĩ
Bà-la-môn (Brahmana), hai tay Ngài được tạo thành chiến sĩ
(Kshatriya), hai bắp chân Ngài thành thương nhân (Vaishya), hai
bàn chân Ngài thành tôi tớ (Shudra)".
- Các người
giai cấp khác nhau không được cưới hỏi nhau, không được ăn chung
bàn, không được cùng hành lễ. Giai cấp cùng đình Thủ-đà-la đặc
biệt bị hành hạ và khinh miệt.
- Trong khi đó,
Phật giáo chủ trương bình đẳng giai cấp, bình đẳng giữa con
người có máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn. Quan điểm này được
trình bày trong nhiều kinh của Nikàya và Agama. Chính vì điểm
khác biệt này mà có một số Bà-la-môn giáo cho đến nay, xem Phật
giáo như là thù nghịch, cho rằng chính đức Thế Tôn đã làm đảo
ngược truyền thống Ấn Ðộ.
- Chủ trương
bình đẳng bốn giai cấp Ấn là chủ trương mang đầy tính cách mạng
tư tưởng và cách mạng xã hội. Chủ trương đó của Thế Tôn, cùng
với quan điểm về giáo lý giải thoát của Ngai, nói lên vị trí độc
đáo của Phật giáo trong lịch sử Ấn, cũng như trong lịch sử nhân
loại. Cho dù các bộ phái Phật giáo có nhìn một số nét khác biệt
nhau về Thế Tôn, điều đó cũng không làm thay đổi giá trị độc đáo
đó./.
-
Ghi chú:
- (1) Bản dịch
của Nguyên Hồng, Phật học viện Nha Trang, 1957.
- (2) Ðại kinh
Saccaka (Mahàsaccakasuttam), Trung Bộ I.
--o0o--
|
|