-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Khái Luận
- Thích Chơn Thiện
-
Chương Một - Phật Bảo
Tiết VI
- Các Tinh Thần Giáo Dục của
Thế Tôn và
sự Liên Hệ giữa Ngài với các hàng Ðệ Tử, Chư Thiên,
Ác Ma và Ngoại Ðạo.
- --- o0o ---
- Viết về Thế
Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một
đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường
ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng,
một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận
văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng,
và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn
diện và tiên tiến.
- Trong tiết
này, chúng ta tìm hiểu Thế Tôn qua lăng kính giáo dục.
- Như chúng ta
đã biết, giáo dục là nền văn hóa và văn minh của loài người.
Phật giáo, qua hơn hai mươi lăm thế kỷ ảnh hưởng, đã đóng góp
nhiều vào văn hóa nhân loại, nếu không muốn nói Phật giáo có thể
làm nên cái gọi là văn hóa Phật giáo cho nhân loại. Sự kiện đóng
góp này đủ soi tỏ Phật giáo như là một hệ thống giáo dục. Chúng
ta hãy tìm hiểu cụ thể:
- Giáo dục,
hiểu theo nghĩa rộng rãi, như là con đường hai chiều của dạy và
học của con người kể từ lúc sinh ra cho đến khi chết, và có mặt
ở ba môi trường sinh hoạt: gia đình, học đường và xã hội.
- Thuyết Nghiệp
của nhà Phật xem sự hình thành của thân Ngũ uẩn này như là kết
quả của các hành động trong quá khứ. Từ đây "Nghiệp mới" được
hình thành qua các hành động cố ý của thân, khẩu, ý. Chủ trương
của Phật giáo là giải thoát nghiệp: chuyển đổi từ nghiệp ác qua
nghiệp thiện, và từ nghiệp thiện đến giải thoát. Thế có nghĩa:
Phật giáo là con đường giáo dục con ngườ đủ hai mặt nhận thức và
hành động, từ khi sinh ra cho đến khi chết, ở khắp các môi
trường sống.
- Ðấy là điểm
gặp gỡ thứ nhất về ý nghĩa quãng đường giáo dục và môi trường
giáo dục giữa Phật giáo và giáo dục, thế mà mãi cho đến hậu bán
thế kỷ hai mươi giáo dục mới bắt gặp Phật giáo.
-
Niềm Tin Giáo Dục
- Nói đến giáo
dục là nói đến niềm tin căn bản của nói, cái niềm tin mở hướng
phát triển muôn thuở. Giáo dục tin rằng trong con người có một
khả năng gần như vô tận, có thể tiếp thu nhiều kiến thức, và có
thể điều chỉnh mọi lệch lạc của tâm lý, vật lý, sinh lý và tư
duy của tự thân. Ðây là lý do mà học đường đã mở dạy rất nhiều
môn học cho mọi người, gồm cả những người chậm trí.
- Nguồn khả
năng ấy, Phật giáo gọi là khả năng giác ngộ mà mọi người đều có
thể vận dụng qua nỗ lực của tự thân. Ðạo đế, trong Tứ đế của
Phật giáo, là con đường vận dụng khả năng ấy. Có thể nói đây là
cái thấy biết và là niềm tin vô ngã được mở ra từ lời dạy của
Thế Tôn "Nhất thiết pháp vô ngã" (Sabbe dhammà anattà - Dhp.
279).
- Do nhận thức
là vô ngã, và các pháp là vô ngã nên mới có thể thực hiện sự
chuyển hóa nhận thức và chuyển hóa các pháp, và mới có các công
trình sáng tạo.
- Nếu các pháp,
gồm nhận thức, là hữu ngã, thì không bao giờ có thể có nguồn
sáng tạo xuất hiện, và không bao giờ công cuộc giáo dục có thể
được thực hiện. Giáo lý vô ngã của Phật giáo, như thế, quả đã
dựng nên niềm tin căn bản của giáo dục, hay nói cách khác, niềm
tin của giáo dục Phật giáo. Ðấy là điểm gặp gỡ thứ hai.
-
Mục Tiêu Giáo Dục
- Một đường
hướng giáo dục tốt luôn luôn nhắm đến hai mục tiêu: đào tạo con
người xã hội và con người chính nó. Con người xã hội đáp ứng các
nhu cầu xã hội như: kinh tế, văn hóa, giáo dục, quốc phòng,
chính trị. Con người chính nó là con người toàn diện của vật lý,
tâm lý, sinh lý, ý chí, tình cảm và trí tuệ đang trôi chảy. Một
hệ thống giáo dục thiếu một trong hai mục tiêu ấy là một nền
giáo dục không hoàn chỉnh.
- Thế Tôn đã
giáo dục con người đầy đủ các mặt ấy. Về mặt xã hội, Kinh
Singalà (Trường Bộ Kinh số 31; Hán tạng: Kinh Thiện Sinh, Trường
A-hàm) nói lên việc xây dựng sáu mối tương giao tốt của xã hội:
Tương giao giữa cha mẹ và con cái; giữa thầy và trò; vợ và
chồng; cá nhân và bà con, láng giềng, bạn bè; chủ và thợ; tu sĩ
và cư sĩ.
- Kinh Tăng
Chi, Chương Bảy Pháp, đề cập đến bảy điều làm cho một quốc gia
cường thịnh, Pháp Cú Sớ nói đến một chính phủ tốt cần thực hiện
tốt mười điều gọi là "Thập vương tử pháp" (Pháp Cú Sớ và
Jataka).
- Kinh Chuyển
Luân Thánh Vương Sư Tử Hống, Trường Bộ Kinh III - số 26, cho
rằng nghèo đói là nguyên nhân chính của trộm cắp, hung ác, thù
hằn, bạo động và vô luân. Ðể cải thiện tình trạng xã hội ấy, cần
phải cải thiện kinh tế bằng cách cung cấp hạt giống và phương
tiện canh tác cho nông dân, cung cấp vốn đầu tư cho thương gia,
và trả lương thích đáng cho công nhân. Bấy giờ, Thế Tôn dạy, các
lễ tế đàn cần được thay thế bằng các cuộc đại chẩn thí cho nhân
dân.
- Về mặt cá
nhân, Thế Tôn dạy đến hạnh phúc của đời sống gia đình. Mỗi cá
nhân cần thực hiện đủ: (1)- Giỏi tay nghề, siêng năng, biết điều
hành công việc.- Biết quân bình chi, thu (giữ cho số thu lớn hơn
số chi).
- - Biết làm ra
của cải hợp pháp bằng sức lao đông của mình.
- - Biết đầu
tư.- Biết làm bạn với thiện (Có giới, Tín và Tuệ).
- - Biết quân
bình sức khoẻ và tâm lý.
- - Biết lo cho
đời sau: tu Tín, Thí, Giới và Tuệ.
- - Biết sống
trong hiện tại, làm chủ suy tư, không tiếc nuối quá khứ, không
mộng tưởng tương lai....
- Với nội dung
giáo dục đó, chỉ có nhà trường hiện đại của cuối thế kỷ hai
mươi, với một hệ thống giáo dục hoàn mỹ gồm đủ giáo dục tâm lý,
sinh lý và mỹ thuật, mới bắt gặp tinh thần và nội dung giáo dục
đó của Phật giáo.
-
Tinh Thần Trách Nhiệm Cá Nhân
- Trước tiên là
tinh thần trách nhiệm cá nhân. Thế Tôn không dạy con người phải
lệ thuộc Ngài, phải phó thác đời mình cho bất cứ một quyền năng
nào cả. Ngài dạy "Ngươi phải làm công việc của ngươi, vì Như Lai
chỉ dạy con đường" (Dhp XX 4). "Ngươi là nơi nương tựa của chính
ngươi, không ai khác có thể là nơi nương tựa". (Dhp. X II 4). "Ý
dẫn đầu các pháp, ý là chủ, ý tạo..." (Dhp. I, 1).
- Nói về
nghiệp, Tăng Chi và Trung Bộ Kinh chỉ rõ: "Người là tác nhân,
chủ nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp" (2).
- Nếu không có
tinh thần trách nhiệm cá nhân thì nhân quả của Phật giáo không
có gì để bàn đến nữa, Phật giáo không còn có lý do để có mặt ở
đời. Nếu không có tinh thần trách nhiệm cá nhân thì học đường
cũng không thể thiết lập giáo dục, và luật pháp xã hội sẽ không
có chỗ thi hành, cuộc đời sẽ đại loại.
- Tinh thần
giáo dục trách nhiệm cá nhân luôn luôn phải được thực hiện tốt
trong một hệ thống giáo dục hoàn bị.
- Tinh thần
giáo dục này bắt gặp tinh thần giáo dục của Phật giáo từ hơn hai
mươi lăm thế kỷ qua.
-
Giáo Dục Cá Nhân
- Phương thức
giáo dục hữu hiệu và hợp lý nhất của học đường hiện đại là
phương thức giáo dục cá nhân mà không phải là giáo dục tập thể.
Bởi mỗi học viên có các điều kiện tâm, sinh, vật lý, tình cảm,
trí tuệ và điều kiện sống khác nhau, nên cần được đón nhận các
điều kiện và phương thức giáo dục khác nhau.
- Tinh thần
giáo dục cá nhân này phản ảnh tinh thần giáo dục "Khế cơ" của
Phật giáo. Ðức Thế Tôn đã thực sự áp dụng nguyên tắc khế cơ từ
buổi đầu giáo hóa. Hình ảnh hồ sen có những cọng sen chưa ra
khỏi bùn, có những cọng sen vừa ra khỏi bùn, có những cọng sen ở
lưng chừng nước, cũng có những cọng sen vươn ra khỏi mặt nước,
tiếp thu được ánh sáng mặt trời và tỏa ngát hương. Cũng thế, con
người có những căn trí bất đồng, có người chóng hiểu, có người
chậm hiểu, có người nặng về tham, có người nặng về sân, có người
nặng về si, có người thích tịnh, có người thích hiếu động v.v...
Nhưng tất cả, qua quá trình giáo dục, lần lượt sẽ như cánh sen
vươn ra khỏi nước để trực tiếp tiếp thu giáo lý giải thoát. Thế
là Thế Tôn không ngần ngại lên đường giảng dạy, giáo hóa tuỳ
theo căn cơ, khích lệ khiến cho mọi người đều được lợi ích, an
lạc và giải thoát. Thuật ngữ Phật giáo thường nói có đến 84.000
pháp môn tu, thích ứng với 84.000 căn cơ khác nhau của con
người.
- Về sau, trong
thời kỳ phát triển của Phật giáo Bắc tông, tinh thần "Khế cơ"
lại được xiển dương qua các giáo lý "Ngũ thừa", "Tam thừa", "Nhị
thừa" và "Nhất thừa" của Kinh Pháp Hoa.
- Thế Tôn đã
vận dụng rất thiện xảo tinh thần "Khế cơ" vào cả mặt ngôn ngữ
diễn đạt, cung cách diễn đạt và tâm lý thích ứng đối với đối
tượng nghe Pháp, mà chúng ta gặp rất nhiều qua kinh điển của các
bộ phái Phật giáo.
- Khi đến với
nông dân, Thế Tôn dùng ngôn ngữ và hình ảnh nhà nông; đến với
chúng Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Thế Tôn biểu hiện cung cách và ngôn
ngữ của chính họ.
- Ngoài việc nói Pháp đúng đối
tượng nghe, Thế Tôn còn nói Pháp đúng thời và đúng chỗ, khiến
cho tác dụng của thời Pháp được tăng thêm hiệu quả. Ý nghĩa này
cũng được gồm vào tinh thần "Khế cơ" ấy.
- Giới luật
cũng được Thế Tôn thiết lập trên nguyên tắc Khế cơ: Tăng, Ni,
Nam, Nữ cư sĩ có giới luật riêng.
- Các đối tượng
tu tập Thiền chỉ và Thiền quán cũng được dạy khác nhau đối với
các căn cơ khác nhau (Phần dẫn chứng sẽ được trình bày ở chương
Pháp Bảo).
- Ðể thấy rõ tác dụng của tinh
thần Khế cơ này, chúng ta có thể trưng dẫn ví dụ đơn giản sau
đây:
- Cơm là thức
ăn dinh dưỡng cho mọi ngưòi (đây là ý nghĩa "Khế lý"). Nhưng
lượng cơm phải dùng khác nhau giữa người lớn và trẻ em, giữa lúc
khoẻ với lúc bệnh (đây là ý nghĩa "Khế cơ"). Cơm đến với mình
lúc no khác với lúc đói. Ðây cũng thuộc ý nghĩa "Khế cơ".
- Giáo dục hiện
đại đã vận dụng nguyên tắc "Khế cơ" vào việc dạy học, vào việc
chọn môn học, ngành học, nghề nghiệp cho học viên với một kỹ
thuật tốt gọi là kỹ thuật giáo dục. Kỹ thuật giáo dục đi kèm
theo với tâm lý giáo dục là điểm nổi bật tân kỳ, tiến bộ của
giáo dục hiện đại. Ðiểm giáo dục Khế Cơ này của Phật giáo phải
chờ đến hậu bán thế kỷ hai mươi, con người mới vận dụng vào học
đường, mới bắt gặp nó.
-
Tinh Thần Thực Tiễn, Thực Tại
- Một tinh thần
giáo dục đặc sắc khác mà Thế Tôn truyền dạy là tinh thần "Thiết
thực hiện tại", hay tinh thần thực tiễn, thực tại.
- Phẩm "Cây
Lau" dạy: (3)
- "Không
than việc đã qua,
- Không mong
việc sắp tới,
- Sống ngay
với hiện tại,
- Do vậy,
sắc thù diệu,
- Do mong
việc sắp tới,
- Do than
việc đã qua.
- Nên kẻ ngu
héo mòn,
- Như lau
xanh lìa cành".
- Kinh "A-nan
Nhất Dạ Hiền" ghi : (4)
- "Quá khứ
không truy tìm,
- Tương lai
không ước vọng,
- Quá khứ đã
đoạn tận,
- Tương lai
lại chưa đến,
- Chỉ có
pháp hiện tại,
- Tuệ quán
chính là đây...".
- Với kiếp sống
của con người thì chỉ hiện tại là có thực (tương đối). Sống có
nghĩa là sống với hiện tại, sống vào hiện tại; hay nói cách
khác, chỉ có hiện tại là sống. Sống ngay với hiện tại là tinh
thần thiết thực. Than thở tiếc nuối quá khứ, hay mơ ước tương
lai chẳng những để mình rơi vào chỗ phi thực, còn để mình vướng
mắc vào rối loạn tâm lý, khổ đau và đánh mất hiện tại đang là,
cái hiện tại sống động, mới mẻ, đầy sáng tạo, đầy nghĩa sống, và
có thể hiện tại là vĩnh cửu nếu mình biết nhiếp phục (xóa tan ý
niệm về thời gian).
- Nếu không
biết chấp nhận hiện tại như nó đang là, để vận dụng hiệu quả khả
năng và trí tuệ của mình đi đến an lạc, hạnh phúc và giải thoát,
thì, như Thế Tôn đã dạy, dung sắc cuả mình sẽ khô héo nhanh
chóng như lau xanh lìa cành. Hạnh phúc và đời mình cũng khô héo
như thế.
- Nếu đi vào
tâm lý giáo dục hiện đại, nhất là ngành tâm lý trị liệu
(Psychotherapy), chúng ta sẽ bắt gặp liền kết quả này, phần lớn
các rối loạn, sầu muộn của tuổi trẻ (hay của con người, nói
chung) đều do tư duy của con người gây ra, nhất là những tư duy
về những quá khứ không thiết thực, về những tương lai hảo huyền.
Có những kết quả thống kê của giáo dục kết luận rằng: Có thể 90%
cuộc sống mình bị đánh mất bởi các tư duy và mộng tưởng sai lầm
ấy.
- Thật là dễ
hiểu! Những sự kiện bất như ý xảy đến với mình, gây phiền muộn
cho mình thì ít, mà tư duy của mình về các sự kiện ấy quấy rầy,
phiền hà mình thì nhiều. Vả lại, nghĩ nhiều về quá khứ và tương
lai không thiết thực chỉ đánh mất thời gian và năng lượng, cái
thời gian và năng lượng đáng lẽ được dùng vào các việc đem lại
an vui cho mình và người.
- Như thế, hiện
tại và tại đây như là hòn đảo an toàn mà Thế Tôn đã chỉ cho con
người nương tựa để khỏi bị rơi chìm vào trong đại dương phiền
muộn của vọng tưởng, và để từ đó có thể đi vào nghĩa sống, hạnh
phúc mà nghìn năm con người đi tìm kiếm.
- Sau khi trở về với hiện tại, con
người phải biết làm chủ tư duy và dục vọng (Tôn giả
Ca-chiên-diên cắt nghĩa kinh Nhất Dạ Hiền Giả): Muốn hay không
muốn những gì, tư duy hay không tư duy những gì để được lợi ích
thiết thực.
- Trong kinh
Cùla-Màlunkyaputta (5), Màlunkyaputta đặt ra mười câu hỏi siêu
hình để hỏi Thế Tôn (Thế giới thường hay vô thường? Như Lai có
tồn tại sau khi chết? v.v...) Thế Tôn đã im lặng không trả lời.
Ngài nói cho Màlunkyaputta nghe câu chuyện một người bị mũi tên
độc. Vấn đề cấp thiết là giải phẩu giải độc ngay, chứ không phải
là vấn đề tìm cho ra ngọn ngành mũi tên và người bắn mũi tên
trước khi chịu giải phẩu. Cũng thế, vấn đề cấp thiết của con
người là nhổ mũi tên "khổ đau" chứ không phải đi tìm những câu
trả lời cho các vấn đề siêu hình không thiết thực.
- Một lần ở
Kosambi (Tương Ưng Bộ Kinh V), Thế Tôn dạy các Tỷ-kheo: "Những
gì Như Lai biết ví như rừng lá Simsàpa, còn những gì mà Như Lai
giảng dạy thì ít như nắm lá trong tay, nhưng đây là những phương
thức trừ khổ". Ðấy là tính chất thực tiễn, thực tế, rất thiết
thực hiện tại của những lời giảng dạy của Thế Tôn.
- Ở các kinh
khác, ý nghĩa thiết thực hiện tại còn được Thế Tôn cắt nghĩa:
Quán sát tự thân, tự tâm để thấy rõ tham, sân, si để đoạn trừ là
thiết thực hiện tại.
- Giảng dạy về
hạnh phúc đời sống gia đình, như đã trình bày ở phần trước, là
tính chất rất thực tế của tinh thần giáo dục của Thế Tôn, Thế
Tôn đã không hề chỉ cho hàng đệ tử đi vào cầu nguyện hay tế lễ
trên đường tìm kiếm hạnh phúc. Ngài dạy: Tế đàn có ý nghĩa là tế
đàn bố thí, giúp đỡ tha nhân và tế đàn có ý nghĩa nhất là sự tu
tập giải thoát của chính tự thân. (6)
- Tinh thần
thực tiễn, thực tế là một tinh thần giáo dục nổi bật của tâm lý
giáo dục hiện đại. Qua tinh thần thực tiễn ấy, Phật giáo nổi bật
lên sắc thái rất là "giáo dục".
-
Tinh Thần Phê Phán
- Một tinh thần
nổi bật khác rất "đại học", rất "khoa học", đã làm kinh ngạc các
nhà nghiên cứu tôn giáo, là tinh thần phê phán căn cứ vào thể
nghiệm của chính tự thân giữa cuộc sống trôi chảy này. Khi
khuyên bảo những người Kàlama đang hoang mang nghi ngờ trước lời
tuyên bố của ngoại đạo chỉ cho giáo lý của mình là đúng, là số
một, Thế Tôn dạy: "Này các Kàlama, đừng để bị dẫn dắt bởi những
báo cáo, hay bởi truyền thống hay bởi tin đồn. Ðừng để bị dẫn
dắt bởi thẩm quyền kinh điển, hay bởi lý luận suông, hay bởi suy
lý, hay bởi sự xét đoán bề ngoài, hay bởi vì thích thú trong
những lý luận, hay bởi những điều 'tuồng như' có thể xảy ra, hay
bởi ý nghĩ 'Ðây là bậc Ðạo sư của chúng ta'. Nhưng này các
Kàlama, khi nào các Ông tự mình biết chắc chắn rằng những việc
ấy là thiện là tốt, hãy chấp nhận và theo chúng". (7)
- Thế Tôn dạy
các đệ tử xem xét ngay cả Thế Tôn đã thấy rõ chân giá trị của
Ngài.
- Tinh thần phê phán đó luôn luôn
gắn liền với thực tế, thực tại, rất khách quan, rất hiểu biết
không để cho nhận thức của con người chịu nô lệ dưới bất cứ một
sức mạnh, quyền năng nào. Hiện nay, tinh thần phê phán làm chuẩn
cho các tinh thần đại học.
-
Tinh Thần Hướng Dẫn
- Như đã trưng
dẫn, Thế Tôn xác nhận Thế Tôn chỉ là người chỉ đường, còn mình
phải làm lấy công việc của chính mình. Kinh Venaka Moggallàna
(Trung Bộ III) Kinh Ðại Niết-bàn (Trường bộ II; Hán tạng: Bát
Niết bàn) chép: Vào thời điểm sắp từ giã cuộc đời, Thế Tôn từ
chối vai trò lãnh đạo Tăng chúng khi Tôn giả A-nan xin Thế Tôn
cho lời di giáo của bậc lãnh đạo, và Tôn giả băn khoăn rằng sau
khi Thế Tôn nhập diệt, Tăng chúng sẽ không có ai lãnh đạo. Thế
Tôn dạy: "Nương tựa Pháp, Pháp lãnh đạo". Pháp ở đây phải được
hiểu là con đường đưa đến an lạc, hạnh phúc, giải thoát. Trọn
bốn mươi lăm năm giáo hóa, Thế Tôn luôn luôn là người chỉ đường
mà không bao giờ ra lệnh hoặc bắt ép ai tuân phục Ngài.
- Tinh thần
hướng dẫn của Tâm lý giáo dục hiện đại, ngành giáo dục chỉ đạo,
là tinh thần căn bản của giáo dục mới, nhân bản. Theo đó, một
nhà giáo tốt phải là một hướng dẫn viên tâm lý.
- Như thế,
chính Thế Tôn đã mở đường cho một nền giáo dục tiên tiến từ hơn
hai mươi năm thế kỷ trước, qua tinh thần giáo dục hướng dẫn rất
người, rất nhân bản trong thái độ hiểu biết.
- Bắc tạng nhìn
Thế Tôn như một vị vua thầy thuốc, xem bệnh chúng sanh và cho
thuốc. Ðấy cũng chỉ là tinh thần chỉ đường. Ở Nikàya và A-hàm,
Thế Tôn đề cao phương pháp giáo hóa thần thông, qua thân giáo và
khẩu giáo, bằng quan sát và phân tích thực tế. Mục đích việc
giảng dạy của Ngài là giúp người nghe tự mình nhận ra con đường
và tự mình thực hiện con đường.
-
Tinh Thần Khích Lệ
- Tinh thần
giáo dục "hướng dẫn" vốn đã là một tinh thần giáo dục đặc sắc
lại được Thế Tôn vận dụng khéo léo song song với sự khích lệ tâm
lý, sự khích lệ mà con người cần như là dưỡng khí.
- Nikàya và
A-hàm thường ghi lại: "Thế Tôn đã thuyết pháp và đã khích lệ,
làm cho mọi người đều được lợi ích. Cho đến các bậc Thánh hữu
học vẫn còn cần được Thế Tôn khích lệ".
- Các phẩm
"Dược Thảo Dụ", "Thọ Ký", "Phổ Hiền" của Pháp Hoa cũng làm sống
lại tinh thần khích lệ ấy của Thế Tôn.
- Ðến giờ phút
cuối cùng của cuộc sống này, Thế Tôn còn không quên khích lệ chư
Tăng: "Các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn lên, chớ có
phóng dật", và khích lệ vị thị giả thân quý của Ngài: "Này
A-nan, chớ có sầu muộn, không bao lâu nữa Ông sẽ chứng đắc những
gì chưa chứng đắc". (Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Trường Bộ I, 1991).
- Từ chuyên môn của ngành Tâm lý
giáo dục hiện đại gọi sự khích lệ ấy là "Encouragement" và nhắc
nhở các nhà giáo, các nhà tâm lý trị liệu, đừng bao giờ quên
rằng: Học trò của mình và thân chủ của mình đang cần sự khích
lệ.
- Thật là lạ
lùng, cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ Thế Tôn đã vận dụng thiện
xảo sự khích lệ tâm lý trên đường giáo hóa của Ngài.
-
Tinh Thần Tự Tín, Tự Chủ
- Khích lệ là
chuẩn bị để xây dựng tinh thần tự tín và tự chủ của hàng đệ tử.
- Bên cạnh sự
trình bày giáo lý thật minh bạch về khổ, khổ tập, khổ tập diệt,
và khổ tập diệt đạo, Thế Tôn xác nhận rằng bằng nỗ lực riêng của
mình, con người có thể thực hiện được giải thoát ngay trong đời
này. Chỉ cho con người trở về nương tựa chính mình là dạy con
người trở về với tự tín.
- Lòng tự tín
không thể thiếu được đối với người tu tập giải thoát. Nó cũng
không thể thiếu đối với ngưòi đời. Không tin người khác thì mình
có thể sống được, nhưng không tin ở mình thì thật là khó sống,
hoặc giả nếu có thể sống thì cũng đã đánh mất nghĩa sống.
- Trong lộ
trình tu tập chuyển đổi tâm lý, Thế Tôn dạy tín là khởi đầu cho
hỷ, lạc, khinh an... Thánh Tu-đà-hoàn được định nghĩa như là có
lòng tin bất thối ở con đường tu tập giải thoát của mình.
- Sự kiện Thế
Tôn đã ra đời và tu tập cho đến lúc thành đạo là sự kiện thiết
lập tự tín của con người đang ở giữa vùng sinh tử mờ mịt, bao
la.
- Ngoài những
lời dạy khích lệ trực tiếp các đệ tử, Thế Tôn còn vận dụng các
hình thức gián tiếp như các trường hợp Ngài tuyên bố chứng đắc
trí của một số đệ tử nhỏ tuổi (Sa-di). Ðiển hình là trường hợp
đệ tử của Tôn giả Xá-lợi-phất và đệ tử của Tôn giả A-nậu-lâu-đà
(Trưởng lão Tăng kệ), qua một số đệ tử nhập đạo khi tuổi đã già,
một số các ngoại đạo đầu Phật, một số trường hợp các Ni như Tôn
ni Patàcàra, người đã chịu khổ đau ê chề trong cuộc sống đến độ
tuyệt vọng (Trưởng Lão Ni Kệ) v.v...
- Việc chọn Tôn
giả Xá-lợi-phất làm "Tướng Quân Chánh Pháp", Tôn giả Mục Kiền
Liên làm vị "Ðệ tử thứ hai" của Thế Tôn (hai Tôn giả này tu sau
một ngàn đệ tử khác và tuổi đời nhỏ hơn nhiều vị khác) và Tôn
giả Upàli (người thợ hớt tóc) chủ trì về Luật, cũng nói lên một
ý nghĩa khích lệ nào đó nữa, ngoài thực chất giá trị của các Tôn
giả này. Ðây là niềm tin và sự khích lệ mà Thế Tôn dành cho Tăng
chúng rằng: Giác ngộ không hẳn liên hệ đến thời gian tu hành,
tuổi đời hay giai cấp xã hội. Ai cũng có thể đắc Tuệ giác tối
thượng, tùy theo nỗ lực tu tập của mình.
- Trường hợp
Thế Tôn độ Tôn giả Nan-đà (Nanda) là một trường hợp điển hình
khác nói lên tác dụng tâm lý khích lệ của Thế Tôn.
- Tôn giả
Nan-đà vốn mê nhan sắc của người vợ mới cưới (chưa hợp cẩn) nên
không tu hành được. Thế Tôn phương tiện vận dụng thần thông đưa
Nan-đà xuống hỏa ngục. Tại đó quỷ ngục chỉ Nan-đà thấy chảo dầu
sôi và bảo rằng: "Chảo dầu này đang chờ Tôn giả Nan-đà, người
đang lười biếng tu tập". Ðoạn, Thế Tôn đưa Nan-đà lên viếng "Tam
thập tam thiên". Tại đây, các Tiên nữ diễm lệ hứa chờ Tôn giả
Nan-đà cùng chung sống, nếu Tôn giả siêng năng tu hành. Trở về
trái đất Tôn giả Nan-đà không còn nhớ vợ nữa, chỉ nghĩ đến các
tiên nữ và nỗ lực tu tập, sau đó, đắc luôn Thánh quả.
- Tùy theo tâm
lý mà Thế Tôn đã khích lệ, Trưởng lão Tăng Kệ ghi một trường hợp
nổi bật màu sắc khích lệ khác, trường hợp bà mẹ của Tôn giả
Xá-lợi-phất.
- Sinh thời,
khi Tôn giả đã là trưởng tử của Như Lai, bà vẫn thường rầy la
Tôn giả là dại, bỏ giàu sang mà đi xin ăn vất vả. Dù biết mẹ
theo ngoại đạo, thờ Phạm thiên nhưng Tôn giả không độ được mẹ
bằng thân giáo và khẩu giáo, và không tìm thấy có phương cách
nào hơn là chịu đựng sự la rầy của mẹ, mỗi lúc Tôn giả gặp bà.
Cho đến ngày sắp nhập Niết Bàn, Tôn giả trở về nhà thăm mẹ và
thị hiện đi chảy. Các vua Trời Dục giới lần lượt đến xin làm thị
giả hầu Tôn giả trong giờ phút cuối cùng. Cả đến vua Trời Phạm
Thiên cũng đến xin hầu hạ, Tôn giả từ chối tất cả. Sau khi các
vua Trời ra đi, bà mẹ mới hỏi Tôn giả về các vua Trời ấy. Tôn
giả nói: "Ông vua Trời đến sau cùng là vua Trời Phạm Thiên, vị
mà mẹ tôn thờ". Bà mẹ mừng rỡ trong kinh ngạc, nhận ra rằng con
mình chắc được đạo lớn. Lòng bà chi xiết hân hoan... Biết là
thời điểm độ mẹ đã đến, Tôn giả thu nhiếp thân tâm thanh tịnh và
nói Pháp cho mẹ nghe. Bà liền đắc ngay quả Tu-đà-hoàn, nhờ được
phần khích lệ trước đó, Tôn giả liền nhập Niết Bàn ngay tại chỗ
ấy.
- Trong điều kiện tâm lý hân hoan,
hỷ, lạc, giáo lý giải thoát rất dễ được người nghe thể nhập.
- Do vậy, các
kinh Bắc tạng, theo truyền thống ấy thường hết sức ca ngợi, tán
thán, khích lệ người thọ trì, đọc tụng, biên chép và giải nói
kinh điển. Ðây là hình thức xây dựng tự tín cho hành giả trong
bước đầu vào giải thoát.
- Kinh Kim
Cương và Kinh Pháp Hoa có thể điển hình cho tinh thần khích lệ
tự tín ấy. Một Kinh Kim Cương ngắn mà có đến mười bốn lần Thế
Tôn tán thán công đức của người thọ trì, đọc tụng, giải nói...
- Qua lãnh vực
giáo dục ở học đường, tự tín là một đức tánh mà giáo dục có
trách nhiệm xây dựng cho con người. Bởi thiếu tự tín thì sẽ
thiếu tự chủ, sinh ỷ lại, không vận dụng hiệu quả khả năng của
tự thân để giải quyết và xây dựng cá nhân.
- Thiếu tự tín
thì tâm lý giáo dục không thể vận dụng các kỹ thuật giáo dục để
giúp cho tuổi trẻ giải quyết các vấn đề của họ, và cũng không
vận dụng được khả năng sáng tạo. Khi mà các vấn đề tâm lý của cá
nhân tuổi trẻ không được giải quyết hữu hiệu, thì việc dạy và
học cũng không mất nhiều hiệu quả.
- Ði vào vấn đề
quốc gia xã hội, một dân tộc hùng cường không thể là kết quả xây
dựng của những thế hệ trẻ thiếu tự tín và nhiều sầu muộn.
- Chỉ nhìn đơn giản như thế, ta
cũng nhận ra được tính cách quan trọng của tinh thần giáo dục
khích lệ và tự tín. Các tinh thần đó đã được Thế Tôn giáo dục
các hàng đệ tử của Ngài cách đây hai mươi lăm thế kỷ.
-
Tinh Thần Ðộc Lập, Trừ Nô Lệ
- Phật giáo dạy
con người đi vào giải thoát, có nghĩa là đi ra khỏi mọi trói
buộc, mọi ách nô lệ. Nô lệ lớn nhất của hiện tượng giới là nô lệ
chính dục vọng cuả mình. Gốc của dục vọng chính là vô minh. Ðó
là con đường Bát chánh dẫn đến vô tham, vô sân, vô si, thoát ly
khỏi mọi khổ ách. Thực hiện con đường này là thực hiện từng bước
tự tri, tự chủ, hay làm chủ. Một nền giáo dục như thế hẳn sẽ đào
tạo nên những mẫu người làm chủ; sống lợi ích cho bản thân và xã
hội, vì hạnh phúc của cá nhân và xã hội, đập vỡ mọi ách trói
buộc bên trong và bên ngoài.
- Giáo dục tinh
thần độc lập, tự chủ cho tuổi trẻ là một mục tiêu xã hội mà học
đường cần thực hiện nghiêm túc. Tinh thần giáo dục đó của Phật
giáo, do đó, phù hợp với các nền giáo dục và văn hóa của các
quốc gia.
- Khai triển
tinh thần giáo dục vô tham, vô sân si, và vô si rộng thêm nữa,
chúng ta lại bắt gặp một tinh thần tích cực khác của Phật giáo
đóng góp ý nghĩa vào công cuộc xây dựng xã hội tốt đẹp.
- Tiếp thu tinh
thần vô tham, thì tuổi trẻ sẽ tự mình dập dắt hiện tượng tham
nhũng của xã hội, hay ít nhất không tạo điều kiện thuận lợi cho
tham nhũng phát sinh. Nhân danh đời sống tâm linh, tham nhũng dễ
bị loại trừ hơn là những nhân danh giáo dục khác.
- Vô sân thì sẽ dập tắt được một
số hiện tượng nổi loạn, tranh chấp, gây lộn trong xã hội.
- Vô si sẽ giúp
mở rộng đường vào trí tuệ và sáng tạo những nhân tố của văn hoa
tốt, và của văn minh nhân loại.
- Thật là đáng
tiếc nếu một đường hướng giáo dục cuả Phật giáo tốt đẹp và tích
cực như thế không được vận dụng hữu hiệu vào học đường mới hiện
nay.
- Trên đây
không phải chỉ là một số tinh thần giáo dục Phật giáo được rút
tỉa một cách rời rạc, mà là nằm trong một cái nhìn nhất quán, có
tính toàn diện và toàn vẹn.
-
Giáo Dục Con Người Toàn Diện
- Một nền giáo
dục chỉ dạy những kiến thức chuyên môn để một chiều đáp ứng các
mục tiêu xã hội thì không phải là giáo dục toàn diện.
- Một nền giáo
dục chỉ cung cấp kiến thức, rèn luyện sức khoẻ và một số vấn đề
luân lý, đạo đức, đầy ước lệ cũng không phải là toàn diện.
- Một nền giáo
dục trao truyền kiến thức, thể dục, đức dục, mỹ dục, sinh lý và
lao động cũng chưa nói lên được ý nghĩa toàn diện. Vấn đề đường
hướng giáo dục này trở nên toàn diện hay không là do đó có cái
nhìn nhất quán và toàn diện về con người hay không.
- Ðặt vấn đề
như thế là đặt vấn đề về mẫu người giáo dục. Con người là gì cần
được xác định trước khi quyết định nội dung phải dạy con người
những gì và dạy như thế nào.
- Các đường
hướng giáo dục tiên tiến vẫn thường bất ổn trong việc xây dựng
mẫu người này.
- Phật giáo đặc
biệt nổi bật ở trí tuệ, nhìn thấy con người và sự vật như thật,
nên hy vọng sẽ đề bạt được một mẫu người khả dĩ lý tưởng.
- Thế giới này
do Duyên sinh. Con người cũng do Duyên sinh. Thế giới và con
người có cùng chung tánh Duyên sinh ấy nên cùng có mặt trong một
tương quan bất nhị. Cá nhân, gia đình và xã hội đều ở trong sự
tương quan bất nhị đó.
- Thế Tôn định
nghĩa cái gọi là con người chỉ là tập hợp của Năm uẩn (sắc, thọ,
tưởng, hành và thức). Năm uẩn ấy cũng chính là thế giới, theo
lời dạy của Thế Tôn (Tương Ưng Bộ Kinh IV, phẩm Migajàla và
nhiều Kinh khác). Giáo dục con người là giáo dục toàn diện Năm
uẩn ấy.
- Về sắc uẩn,
chỉ rõ về con người và thế giới vật lý, sự sinh thành, tồn tại
và hoại diệt của nó. Tương tự đối với bốn uẩn còn lại. Năm uẩn
ấy trống không, không có tự ngã, chúng là hiện hữu của tương
duyên nên vô thường và khổ đau. Tuy nhiên, theo trí tuệ Phật
giáo, Năm uẩn không phải là gốc khổ đau. Trọng điểm của giáo dục
là chỉ rõ lòng tham ái, chấp thủ, là gốc của khổ đau mà không
phải là thế giới vật lý thường xuyên trôi chảy, và đồng thời chỉ
rõ gốc của an lạc, hạnh phúc thực sự là trí tuệ hay trí tuệ giải
thoát. Từ đây, nhà giáo dục Phật giáo cần xác định một số nội
dung của giáo dục: Trí tuệ (wisdom) chứ không phải là kiến
thức (knowledge). Kiến thức chỉ là sản phẩm của tư duy ngã
tính, một phần tố của con người, mà không phải là con người toàn
diện. Nó không nói lên thực tại vô ngã và hạnh phúc chân thật vô
ngã. Chỉ có khi trí tuệ (chánh kiến và chánh tư duy) có mặt thì
con người toàn diện mới có mặt. Giáo dục toàn diện là giáo dục
vừa cung cấp kiến thức vừa tạo điều kiện cho trí tuệ ấy sinh
khởi.
-
Tiêu chuẩn giá trị là hạnh phúc chứ
không phải là luân lý.
- Nếu chúng ta
không thể phủ nhận mục tiêu của cuộc sống là hạnh phúc, thì tiêu
chuẩn giá trị của cuộc sống phải là hạnh phúc, chứ không phải là
các nguyên tắc đạo đức hay kỷ luật đầy ước lệ của học đường cũ.
Trong học đường mới, con người toàn diện chỉ chấp nhận và giữ
lại những điểm đạo lý, kỷ luật nào phù hợp với hướng đi về hạnh
phúc ấy.
- Ví dụ nói dối
là xấu, theo nguyên tắc luân lý. Nhưng nói dối để cứu khổ thì
khác. Học đường trong trường hợp này, phải chọn lựa lợi ích và
hạnh phúc của xứ sở và con người hơn là nói thật gây tai hại.
-
Vấn đề giáo dục mỹ thuật, tình cảm và
sinh lý.
- Các môn học
về nhạc, họa, mỹ thuật v.v... tình cảm và sinh lý cần được đưa
vào học đường để dạy cho học sinh theo từng lứa tuổi thích hợp.
Các môn ấy phải được đánh giá cần thiết như là các môn khoa học
xã hội khác.
- Một hệ thống
giáo dục mà không nhận ra tầm quan trọng của giáo dục thẩm mỹ,
tình cảm và sinh lý thì còn lệch lạc, không toàn diện. Vấn đề
chủ yếu của giáo dục là giúp tuổi trẻ biết nhìn và biết sống như
thế nào để đem lại hạnh phúc cho mình và cho xã hội.
-
Vấn đề con người với văn hóa truyền
thống.
- Văn hóa,
truyền thống là sản phẩm của con người. Vì vậy, cần đặt con
người và hạnh phúc của con người trước văn hóa và truyền thống.
Ðặt con người sau văn hóa, truyền thống là đặt cái cày trước con
trâu. Thế Tôn đã dạy: "Ðừng để bị dẫn dắt bởi truyền thống...".
Giáo dục mới và toàn diện chỉ duy trì những truyền thống tốt
đẹp, những gì văn hóa cũ thích hợp với đường hướng giáo dục này.
Chính vai trò của nền giáo dục toàn diện là xây dựng một nền văn
hoa mới toàn diện.
- (xem tiếp đoạn kế)
--o0o--
|
|