-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Khái
Luận
- Thích Chơn Thiện
-
Chương Hai -
Pháp Bảo
Tiết V
- Nghiệp & Nghiệp Báo
-
Tổng Quát về Nghiệp
- Như đã được
bàn ở tiết Nhân Quả, nghiệp là động cơ vẽ nên tiến trình nhân
quả, luân hồi của con người. Nay chúng ta tìm hiểu thêm giáo lý
về nghiệp của Phật giáo.
- Chữ Nghiệp
dịch từ chữ Karma (Sanskrit) hay Kamma (Pàli), có nghĩa là
hành động có tác ý (volitional action) của thân, khẩu, và ý.
Các hành động không có tác ý thì chỉ là hành động mà không được
gọi là nghiệp. Tác ý ấy chính là hoạt động của hành uẩn hay tư
tâm sở (cetànà). Tác ý thì hoặc thiện, hoặc ác, hoặc phi thiện
phi ác.
- Như thế, nói
đến nghiệp là nói đến nghiệp thiện, nghiệp ác trong vòng sinh
diệt của hiện tượng. Ðấy chính là nghiệp hữu lậu. Trong các Kinh,
thỉnh thoảng có đề cập đến nghiệp vô lậu, nhưng, tương tự như
nhân quả, ở đây phải hiểu là mượn từ để diễn đạt. Thực ra, vô
lậu thì ở ngoài vòng nghiệp, theo định nghĩa về nghiệp ở trên.
- Một trong năm
điều mà Thế Tôn dạy các đệ tử của Ngài, tại gia hay xuất gia,
phải thường xuyên quan sát là nghiệp:
- "Ta là chủ
nhân của nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp, nghiệp là thai tạng,
nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm nghiệp nào sẽ
làm, thiện hay ác, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy". (Tăng Chi II, tr.
77)
- Do vì nghĩ
đến khổ đau mà con người phải cảm thọ như là hậu quả của chính
các hành động ác của thân, khẩu, ý của con người, nên Thế Tôn
dạy rõ giáo lý về nghiệp để khích lệ con người đi vào các thiện
nghiệp ngỏ hầu cảm nhận được hạnh phúc lâu dài của Trời. Cá nhân
cũng được hạnh phúc và cõi đời cũng được hạnh phúc hơn ngay
trong hiện tại và cả tương lai. Từ thiện nghiệp, con người dễ đi
vào giải thoát hơn.
- "Ý dẫn đầu các pháp,
Ý làm chủ, ý tạo,
Nếu với ý ô nhiễm
Nói năng hay hành động,
Khổ não bước theo sau
Như chiếc xe theo chân con vật kéo". (Dhp. 1).
- "...
Nếu với ý thanh tịnh (thiện)
Nói năng hay hành động
An lạc bước theo sau,
Như bóng không rời hình". (Dhp. 2)
- Qua các lời
dạy trên của Thế Tôn, chúng ta có cảm nhận ngay rằng, chính do
vì có nghiệp quả mà nghiệp nhân được bàn đến.
- Tìm hiểu về
nghiệp, thực ra là công việc tìm hiểu về nghiệp báo hay quả dị
thục của nghiệp.
- Về quả dị
thục của nghiệp, hay gọi là nghiệp quả, chúng ta đã nói đến ở
phần nhân quả. Ở đây, tưởng cũng cần nhấn mạnh một số điểm đưa
đến sự hiện hành của quả dị thục:
- - Ðiểm thứ
nhứt, do ý làm chủ tạo tác ra nghiệp nên cường độ tác ý mạnh yếu
có ảnh hưởng lớn đến sự hiện hành và thời điểm hiện hành của
nghiệp quả.
- - Trong thời
gian đi đến nghiệp quả, các nghiệp mới có ảnh hưởng lớn đến quả
hiện hành của các nghiệp cũ.
- - Tâm lý của
người thọ báo quyết định cảm thọ khổ, lạc nhiều hơn là chính quả
báo dị thục.
- - Cận tử
nghiệp (các hành động của ý thức trước lúc chết) có ảnh hưởng
quyết định sanh thú hơn là các loại nghiệp khác.
- - Thông
thường, ác nghiệp dẫn đến ác quả, ác thú; thiện nghiệp dẫn đến
thiện quả, thiện thú tương ưng.
- Tuy nhiên,
như Thế Tôn đã dạy, khó mà tư duy được về quả dị thục của nghiệp.
Lẽ giản dị là vì tất cả nghiệp nhân, nghiệp quả đều là Duyên
sinh nên mang nghĩa bất định.
- Phái Túc Mệnh
Luận (thuộc Nam tông) thì chủ trương túc nghiệp, có nghĩa là
không thể chuyển nghiệp, nghiệp cũ quyết định quả báo hiện tại.
Chủ trương này nghe không phù hợp với tính chất Duyên sinh, bất
định của các pháp. Nếu nghiệp không thể chuyển được thì làm sao
có sự kiện giải thoát ngay trong hiện tại? Thực ra, con người
tạo tác nhiều nghiệp ở quá khứ khác nhau dẫn đến các kết quả
định, bất định khác nhau. Ðiểm căn bản của giáo lý nghiệp của
Phật giáo cần phải nắm vững là các quả báo ngoại giới có loại
chuyển được, có loại không chuyển được; trong cả hai loại này,
người thọ quả báo luôn luôn có điều kiện tâm lý độc lập để nhận
chịu ảnh hưởng hay không. Chính vì vậy mà Phật giáo đã chỉ dạy
con đường tu tập huấn luyện và chuyển đổi tâm lý để đi đến giải
thoát. Giải thoát có nghĩa là giải thoát nghiệp, không để bị chi
phối bởi nghiệp nhân hay nghiệp quả. Giáo lý Duyên Khởi của Phật
giáo đã xác định rất rõ ràng là có khổ, ái... nhưng không có ai
khổ, ái... hay chỉ có nghiệp quả mà không có người thọ quả. Thế
mới là lối vào giải thoát.
- Thực sự,
không có một loại nghiệp nào được gọi là định nghiệp cả, nếu mức
độ giác tỉnh của ta đủ mạnh để đoạn tận các lậu hoặc. Khi giải
thoát đã có thể thực hiện ngay trên cõi đời này thì hẳn nhiên đi
đến kết luận rằng tất cả nghiệp đều có thể được chuyển hóa.
- Nghiệp do
chính con người tạo tác (hay do ý tạo tác) thì cũng do chính con
người đoạn trừ (hay do ý đoạn trừ). Nó là cái gì rất chủ quan
của tâm lý, được coi như không liên hệ gì đến các quyền năng bên
ngoài, nên con người chủ động trong việc phát khởi, duy trì hay
dứt bỏ nó.
- Nghiệp thiện,
ác không phải do hành động thuộc loại thiện, ác làm nên, mà là
do ý chấp thủ tướng thiện, ác. Khi ý (hay tâm) rời khỏi chấp thủ,
tham ái thì bấy giờ nghiệp không có nhơn duyên để thành lập hay
tồn tại. Bấy giờ các hành động biểu hiện của thân, khẩu, ý được
gọi là hành động duy tác (kriyà).
-
Các Loại Nghiệp.
- Có hơn sáu
mươi danh từ nói về nghiệp. Ở đây chỉ trình bày một số nghiệp
căn bản.
- - Nhiều phẩm
Kinh gọi các nghiệp thiện là bạch nghiệp (hay nghiệp
trắng), gọi nghiệp ác là hắc nghiệp (nghiệp đen), gọi các
hành động duy tác của các bậc Thánh là phi hắc, phi bạch
(nghiệp không trắng, không đen).
- - Các nghiệp
nhất định sẽ đưa đến kết quả gọi là định nghiệp, nghiệp
không dẫn đến kết quả, hay kết quả xuất hiện ở một thời điểm rất
xa không định được gọi là bất định nghiệp.
- - Nghiệp cảm
thọ riêng của từng cá nhân gọi là biệt nghiệp, thiện ác
của thân, khẩu, ý cũng có mười gọi là thập ác nghiệp.
- - Bát Thánh
đạo, Thập Thánh đạo gọi là Bát Thánh nghiệp, Thập
Thánh nghiệp. Và ngược lại, các nghiệp không có sanh y gọi
là duy tác nghiệp, các nghiệp có sanh y gọi là tác
nghiệp.
- - Khi tâm con
người nhận chịu quả báo, thì loại nghiệp này được gọi là thọ
nghiệp, ngược lại, gọi là phi thọ nghiệp.
- - Các nghiệp
đưa đến quả báo trong hiện tại gọi là hiện pháp thọ nghiệp;
các nghiệp đưa đến quả báo trong đời sống kế tiếp gọi là sinh
thọ nghiệp; các nghiệp dẫn đến kết quả ở các đời sau gọi là
hậu thọ nghiệp.
- - Các duy tác
nghiệp đều thuộc vô lậu nghiệp, nghĩa là nghiệp không có
sanh y. Các nghiệp khác còn lại, ngoài vô lậu nghiệp, là hữu
lậu nghiệp.
- - Khi quả báo
đến ở thời điểm khác với thời điểm tạo tác thì nghiệp này được
gọi là dị thời nhi thục nghiệp; khi kết quả đổi khác với
loại nhân tạo tác (biến chất) thì gọi là dị loại nhi thục.
Khi kết quả đổi khác một phần (biến tướng) thì gọi là biến dị
nhi thục nghiệp.
- - Khi nghiệp
có quả báo ở thời gian gần thì gọi là thục nghiệp, khi
nghiệp có quả báo ở thời gian xa, thì gọi là phi thục nghiệp.
- - Khi nghiệp
đưa đến chịu báo ít thì gọi là thiểu thọ nghiệp; khi
nghiệp đưa đến chịu báo nhiều thì gọi là đa thọ nghiệp.
- - Nghiệp
quyết định nơi thác sinh thì gọi là dẫn nghiệp; dẫn
nghiệp có khi được cắt nghĩa là nghiệp rõ rệt trong cuộc sống.
- - Chúng sanh
tuy sinh cùng một cảnh giới, nhưng vận mệnh có nhiều loại, đây
là mãn nghiệp, có khi gọi mãn nghiệp là các nghiệp còn
lại ngoài dẫn nghiệp.
- - Nghiệp nhân
để được tái sinh về cõi Người gọi là Nhơn nghiệp. Tương
tự, ta có Thiên nghiệp, Ðịa ngục nghiệp, Ngạ quỷ nghiệp
và Súc sinh nghiệp.
- Thắng Pháp
Tập Yếu Luận (Tỳ-đàm) thì phân loại nghiệp có bốn; bốn loại theo
công tác, bốn loại theo sức mạnh dẫn đến quả báo.
- 1. Phân loại
theo công tác:
- - Sanh
nghiệp (Janakakamma) là nghiệp chi phối sự sanh trưởng cho
đời sau (như sinh ra Năm uẩn). Chết chỉ là hiện tượng tạm thời,
kết liễu tạm thời. Chính sát-na sau cùng định đoạt nơi thọ sanh.
- - Trì
nghiệp (Upathavakakamma) là nghiệp đi theo sanh nghiệp và
duy trì, nâng đỡ nghiệp này cho đến khi mệnh chung.
- - Chướng
nghiệp (Upapìtakakamma) là nghiệp làm yếu ớt, chậm trễ hay
dừng lại sự kết thành của sanh nghiệp, trái với trì nghiệp.
- - Ðoạn
nghiệp (Upaghàtakakamma) là nghiệp tiêu diệt năng lực của
sinh nghiệp, như một mũi tên đang bay bị một sức mạnh cản lại
khiến rơi xuống. Sức mạnh ấy gọi là đoạn nghiệp.
- 2. Phân loại
theo sức mạnh:
- - Cực
trọng nghiệp (Garukakamma) như tội ngũ nghịch giết cha, mẹ,
A-la-hán, phá hòa hợp Tăng và làm thân Phật chảy máu. Nghiệp này
còn gọi là vô gián nghiệp.
- - Cận tử
nghiệp (Ásannakamma) là nghiệp tạo ra hay nhớ nghĩ lúc lâm
chung. Nghiệp này rất quan trọng vì nó chi phối đến việc thác
sinh.
- - Tập quán
nghiệp là chính những hành động trở thành tập quán tác thành
cá tính con người. Tập quán nghiệp tốt có thể giúp con người
hoan hỷ khi chết, và ngược lại.
- - Tích lũy
nghiệp là các nghiệp còn lại, ngoài ba nghiệp trên được gọi
là tích lũy nghiệp. Nghiệp này như chỗ chứa đựng các nghiệp của
một chúng sanh.
- 3. Phân loại
khác:
- Hiện báo,
sanh báo, hậu báo nghiệp và vô hiệu nghiệp. Vô hiệu
nghiệp (Ahosikamma) là nghiệp mà quả báo không thành tựu ở đời
này hay đời sau.
-
Loại Nghiệp Nào Dẫn Ði Ðầu Thai?
- Trong một
cuộc đời có nhiều nghiệp thiện, ác lẫn lộn, vậy thì khi kết thúc
đời sống, loại nghiệp nào dẫn đi đầu thai?
- Thông thường,
tập quán nghiệp nào mạnh nhất thì sẽ sống dậy mãnh liệt nhất
trước lúc chết, do đó có nhân tố mạnh quyết định nơi đầu thai.
Tuy nhiên, cận tử nghiệp là nghiệp vừa được tạo tác ra trước lúc
chết (thiện hoặc bất thiện) là yếu tố quyết định cảnh giới thác
thai, như đã được đề cập.
- Khi có sự
kiện cận tử nghiệp quyết định cảnh giới đầu thai, thì hẳn nhiên
rằng những tâm niệm (hay ý lực) sau cùng giữ vai trò quyết định.
Ðiều này cũng nói lên rằng với một người có tu tập tâm, thường
hành chánh niệm, tĩnh giác sẽ giữ được phần chủ động trong việc
đi thác thai. Nếu sự tĩnh giác sau cùng, trước lúc chết này đủ
mạnh đoạn trừ tham ái (dục ái, hữu ái, và vô hữu ái) thì có thể
giải thoát nghiệp ngay tại chỗ, không còn đi đầu thai nữa.
- Nghiệp tạo ra
trong suốt đời này, như vậy, chỉ được xem là có mặt khi chúng ta
còn chấp thủ ngã, còn tự đồng hóa mình với nó; một khi tâm niệm
mình giác tỉnh, làm chủ, không tự đồng hóa mình với nghiệp,
không thấy có tự ngã, không thấy mình có trong nghiệp hay nghiệp
có trong mình... thì sự có mặt của nghiệp được xem như không có.
Như thế cho đến sát-na sau cùng của cuộc đời, đương sự và những
ai chứng Túc mệnh thông mới biết được cảnh giới đi đầu thai,
nghiệp nào của mình dẫn mình đi đầu thai.
- Về tự thân,
nếu tâm trước lúc chết đầy dục ái mà có gìn giữ năm giới thì có
thể sanh về cõi Người; nếu tâm dục ái mà hành thập thiện thì sẽ
được sanh về Dục giới thiên; nếu tâm đầy dục ái mà không tu thập
thiện, không có Thiền định, không giữ ngũ giới, thì sẽ sinh về
một trong ba nơi: địa ngục, ngạ quỷ, hay súc sanh; nếu tâm nhàm
chán ngũ trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc) mà có tu tập giới,
định, vào được một trong bốn Thiền, thì sẽ được sanh về cõi trời
Sắc giới với cảnh giới tương ưng; nếu tâm nhàm chán Sắc giới có
tu tập tứ sắc định thì sẽ được sanh về Vô sắc giới; nếu tâm sanh
nhàm chán sinh tử, muốn được thoát ly sinh tử, thì do vì lòng
còn vướng vô sắc ái nên sẽ tùy theo nghiệp trước lúc chế mà thác
sinh về cảnh giới tương ưng ở cõi Vô sắc. Như thế, rõ ràng chúng
ta có điều kiện tâm lý để chọn lựa cảnh giới thác sinh ngay
trong đời sống hiện tại, nếu chúng ta biết sửa soạn tâm lý tương
ưng với cảnh giới muốn thác sinh.
- Thác sinh là
nghiệp thức thác sinh, cái mà ta gọi là nghiệp lực, là vô minh,
là tham ái hay chấp thủ. Khi tham ái diệt thì thức diệt, vô minh
diệt, chúng ta không có gì để nói đến nghiệp hay vấn đề thác
sinh nữa.
- Nghiệp vốn có
nguồn gốc từ sự nhận lầm các pháp có ngã tướng, từ đó ái thủ mới
sinh. Con đường giải thoát nghiệp là con đường đi ra khỏi sự
nhận lầm ấy để giác tỉnh rằng các pháp là Vô ngã tướng. Thực tại
Vô ngã thì không có đến, không có đi, không có sinh, không có
diệt, không có nghiệp. Trở về lại định nghĩa của Nghiệp (Kamma)
từ đầu, mọi vấn đề về nghiệp đều phát sinh, từ chỗ tác ý
(volition). Nếu ta nhiếp ý thanh tịnh, giác tỉnh đi ra khỏi
thiện, ác thì tất cả là thực tại như thực của không sinh, không
diệt, không đến, không đi ấy. Ðây chính là trọng điểm của giáo
lý về Nghiệp của Phật giáo, và là trọng điểm của vấn đề tìm hiểu
ý nghĩa giáo lý ấy vậy./.
--o0o--
|
|