|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Khái
Luận
- Thích Chơn Thiện
-
Chương Hai -
Pháp Bảo
Tiết IX
- Bát Thánh Đạo
- Bát Thánh Ðạo
còn được gọi là con đường Thánh gồm có tám chi: chánh kiến,
chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh
tấn, chánh niệm và chánh định. Con đường này đưa hành giả và
suối Thánh, chảy về Niết-bàn nên được gọi là Thánh đạo.
- Bát Thánh đạo
là giáo lý căn bản của Ðạo đế (trong Tứ đế) gồm ba mươi bảy phẩm
trợ đạo. Ðây là con đường độc nhất đi vào giải thoát hết thảy
các lậu hoặc. Hành giả có thể đi vào giải thoát bằng ngõ Bảy
Giác chi, Bốn Niệm xứ... nhưng tất cả những ngõ đường ấy đều
được bao hàm trong Bát Thánh đạo. Hành giả cũng có thể tuyên bố
đi vào giải thoát bằng pháp môn Tịnh độ, Mật,... nhưng xét kỹ
thì hành giả vẫn phải vận dụng các chi phần của Bát Thánh đạo.
Nếu tâm của hành giả hành các pháp môn ngoại đạo, ở ngoài sự vận
dụng tám chi phần Bát Thánh đạo, thì quyết định hành giả không
thể chứng đắc các quả vị của Sa-môn, đi vào giải thoát toàn vẹn,
như lời dạy của Thế Tôn ở Sư Tử Hống Tiểu Kinh (Trung Bộ Kinh
I).
-
Nội Dung Của Bát Thánh Ðạo
-
Chánh Tri Kiến:
- Có nhiều định
nghĩa về chánh tri kiến rải rác khắp các kinh của A-hàm và
Nikàya. Hiểu rõ Tứ Thánh đế là chánh tri kiến. Thấy rõ Duyên
khởi là chánh tri kiến. Thấy các pháp là Vô ngã là chánh tri
kiến. Ở đây giới thiệu thêm một số định nghĩa tiêu biểu nữa:
- - "Khi một vị
Thánh đệ tử biết được bất thiện và biết được căn bản của bất
thiện, biết được thiện và căn bản của thiện, này chư Hiền, khi
ấy vị Thánh đệ tử có chánh kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng
tin pháp tuyệt đối và thành tựu diệu pháp này". (Kinh Chánh Tri
Kiến, Trung Bộ I, tr. 47).
- Thiện pháp
được đề cập ở trên là mười thiện nghiệp; căn bản của thiện pháp
ấy là vô tham, vô sân, vô si.
- Bất thiện
pháp là mười ác nghiệp; căn bản của bất thiện pháp này là tham,
sân, si.
- - "Biết tập
khởi của thức ăn, biết đoạn diệt của thức ăn và con đường đưa
đến đoạn diệt của thức ăn, này chư Hiền, khi ấy vị Thánh đệ tử
có chánh kiến, có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt
đối và thành tựu diệu pháp này". (Sđd., tr. 47A).
- - "Khi nào vị
Thánh đệ tử biết già chết, tập khởi của già chết, đoạn diệt của
già chết và con đường đưa đến đoạn diệt già chết, này chư Hiền,
khi ấy vị Thánh đệ tử có chánh kiến..." (Sđd., tr. 49).
- Tương tự với
phát biểu về già chết, ta có các định nghĩa về chánh kiến liên
hệ đến mười một chi phần còn lại của Duyên khởi.
- Chánh kiến
còn được định nghĩa rằng:
- - Biết được chánh kiến là chánh
kiến, tà kiến là tà kiến.
- Biết được chánh ngữ và tà ngữ.
- Biết được chánh nghiệp và tà nghiệp.
- Biết được chánh mạng và mạng.
- Biết được chánh tinh tấn và tà tinh tấn.
- Biết được chánh niệm và tà niệm.
- Biết được chánh định và tà định.
- (Kinh Ðại Tứ
Thập, Trung Bộ III, tr. 206 - 208 bản dịch của HT. Minh Châu).
- Có hai loại
chánh kiến: chánh kiến hữu lậu có sanh y, và chánh kiến vô lậu,
siêu thế, không có sanh y.
- Thấy có bố
thí, có cúng dường, có lễ hy sinh, có quả báo có các nghiệp
thiện ác, có đời này, có đời khác, có mẹ, có cha, có các loại
hóa sinh, ở đời có các bậc Sa-môn, Bà-la-môn, như vậy là chánh
kiến hữu lậu. Ngược lại là tà kiến. (Theo Kinh Ðại Tứ Thập,
Trung Bộ III, Sđd., tr. 207; Hán tạng tương đương; Kinh Trị Ý,
Ðại 1, 919).
- Phàm cái gì thuộc tuệ căn, tuệ
lực, trạch pháp giác chi, chánh kiến, đạo chi của một vị thành
thục Thánh đạo A-la-hán, có vô lậu tâm, chánh kiến như vậy là
chánh kiến vô lậu, siêu thế. (Sđd., tr. 207).
-
Chánh Tư Duy:
- Tương tự các
định nghĩa về chánh kiến, ta có định nghĩa về chánh tư duy như
sau:
- - Tư duy về
Tứ Thánh đế, Bát Thánh đạo, về Duyên khởi, Vô ngã là chánh tư
duy. Tư duy trên căn bản Duyên khởi, Vô ngã, Tứ đế là chánh tư
duy.
- Chánh tư duy
cũng có hai thứ: Chánh tư duy hữu lậu và chánh tư duy vô lậu.
Chánh tư duy hữu lậu thì rơi vào phước báo, đưa đến quả sanh y
(có nhân để tái sanh), gồm có tư duy để xuất ly (xuất ly tư
duy), tư duy để vô sân (vô sân tư duy) và tư duy để vô hại (vô
hại tư duy). Tư duy để rơi vào tham ái, sân hận và tác hại gọi
là tà tư duy.
- Phàm cái gì
thuộc tư duy, tầm cầu tư duy, một ngữ hành nào do hoàn toàn chú
tâm, chuyên tâm của một vị thành thục trong Thánh đạo, có vô lậu
tâm, có Thánh tâm, chánh tư duy như vậy là chánh tư duy vô lậu,
siêu thế (Sđd., tr. 208).
-
Chánh Ngữ:
- - Chánh ngữ
hữu lậu thì buộc phước báo có sanh y, gồm các lời nói viễn ly
vọng ngữ, viễn ly ác khẩu, viễn ly lưỡng thiệt (nói hai lưỡi),
viễn ly ỷ ngữ (... các lời phù phiếm). Ngược lại là tà ngữ.
- - Cái gì
thuộc từ bỏ, từ khước bốn ngữ ác hành trên, thuộc bậc Thánh,
thuần thục trong Thánh đạo (A-la-hán), có vô lậu tâm, như vậy là
chánh ngữ vô lậu (Sđd., tr. 208).
-
Chánh Nghiệp:
- - Chánh
nghiệp hữu lậu thuộc phước báo có sanh y, gồm từ bỏ sát sanh, từ
bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục. Ngược lại là
tà nghiệp.
- - Cái gì
thuộc từ bỏ, từ đoạn, từ khước ba thân ác hành của một bậc Thánh
thuần thục trong Thánh đạo (A-la-hán), có vô lậu tâm gọi là
chánh nghiệp vô lậu (Sđd., 209).
-
Chánh Mạng:
- - Chánh mạng
hữu lậu thuộc phước báo có sanh y, gồm từ bỏ tà mạng, từ bỏ nuôi
sống với tà mạng, sống với chánh mạng.
- Ngược lại,
sống lừa đảo, gian trá lấy lợi cầu lợi là tà mạng.
- - Cái gì
thuộc từ bỏ, từ đoạn, từ khước tà mạng của bậc Thánh thuần thục
trong Thánh đạo, có vô lậu tâm (A-la-hán) gọi là chánh mạng vô
lậu (Sđd., tr. 210).
-
Chánh Tinh Tấn:
- - Tinh tấn nỗ
lực đoạn trừ tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà
niệm, tà định để thành tựu chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh niệm và chánh định, gọi là chánh
tinh tấn; chánh tinh tấn cũng có hai phần: hữu lậu và vô lậu
(Sđd., tr. 210).
-
Chánh Niệm:
- Các niệm
tưởng đoạn trừ tà kiến, tà ngữ, tà mạng, tà nghiệp, đạt được nhờ
trú chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp gọi là
chánh niệm. Ngược lại là tà niệm. Chánh niệm cũng có hai phần
hữu lậu và vô lậu. (Sđd., tr. 210).
-
Chánh Ðịnh:
- Thế Tôn định
nghĩa: "Thế nào là Thánh chánh định với các cận duyên và tư trợ?
Chính là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp,
chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm. Này các Tỷ-kheo, phàm có
nhứt tâm nào được tư trợ với bảy chi phần này, như vậy, gọi là
Thánh chánh định cùng với các cận duyên và tư trợ". (Sđd., tr.
205).
- "Do có chánh
kiến, chánh tư duy khởi lên; do có chánh tư duy, chánh ngữ khởi
lên; do có chánh ngữ, chánh nghiệp khởi lên; do có chánh nghiệp,
chánh mạng khởi lên; do có chánh mạng, chánh tinh tấn khởi lên;
do có chánh tinh tấn, chánh niệm khởi lên; do có chánh niệm,
chánh định khởi lên; do có chánh định, chánh trí khởi lên; do có
chánh trí, chánh giải thoát khởi lên. Như vậy, này các Tỷ-kheo,
đạo lộ của vị hữu học gồm có tám chi phần, và đạo lộ của vị
A-la-hán gồm có mười chi phần". (Sđd., tr. 211).
- Như thế, định
nào có mặt chánh kiến gọi là chánh định, định nào không có mặt
chánh kiến thì gọi là tà định. Với bậc hữu học thì chánh định
được gọi là chánh định hữu học, với bậc vô học gọi là chánh định
vô học.
- Kinh Ðại Tứ
Thập (Trung Bộ III) và Kinh Chánh Tri Kiến (Trung Bộ I) xác định
chánh kiến là chi phần chủ yếu của Bát Thánh Ðạo của Ðạo đế, hay
của con đường giải thoát khổ đau. Có chánh tri kiến thì mới có
mặt của chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh
tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Không có chánh kiến thì chỉ có
mặt tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm
và tà định.
- Chánh tinh
tấn và chánh niệm luôn luôn được vận dụng để thành tựu các chi
phần còn lại, do đó, ba chi phần chánh kiến, chánh tinh tấn và
chánh niệm luôn luôn cùng có mặt trong việc tu tập để thành tựu
các chi phần kia. Các chi phần kia thành tựu là để đi đến thành
tựu chánh kiến của hữu học và vô học.
-
Bát Thánh Ðạo Và Các Phẩm Trợ Ðạo
- Ðạo đế có khi
được Thế Tôn đề cập đến như là ba mươi bảy phẩm trợ đạo, có khi
được Thế Tôn đề cập đến như là Bát Thánh đạo. Ðiều này cho chúng
ta thấy Bát Thánh đạo cũng chính là ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
Chánh niệm trong Bát Thành đạo chính là nội dung của tứ Niệm xứ;
Chánh tinh tấn là nội dung của tứ Chánh cần; chánh niệm cũng
chính là niệm căn, niệm lực của Ngũ căn, Ngũ lực, là niệm giác
chi của bảy Giác chi; chánh tư duy là trạch pháp giác chi; chánh
kiến là tuệ căn, tuệ lực; chánh định là hỷ, khinh an, định, xã
giác chi. Tứ như ý túc (dục định, tinh tấn định, tâm định và tư
duy định) chính là tinh tấn, chánh niệm, chánh định và chánh tư
duy.
- Tại đây, ta
có thể mạnh dạn đi đến kết luận rằng:
- - Con đường
tu tập giải thoát của Phật giáo không đi ngoài ba mươi bảy phẩm
trợ đạo.
- - Con đường
tu tập ba mươi bảy phẩm trợ đạo để đoạn tận ái, thu, vô minh,
không đi ra ngoài Bát Thánh đạo.
- - Con đường
tu tập Bát Thánh đạo lại quy vào chi phần chánh tri kiến.
- Ở đây hiện rõ
nét đạo Phật là đạo của trí tuệ, của giác ngộ. Ðây là đích đến
của một bậc Ðại nhân như kinh "Bát Ðại Nhân Giác" nói đến "Duy
tuệ thị nghiệp".
- Sự có mặt của
trí tuệ thì đẩy lùi tất cả những gì của thế giới vọng tưởng, vô
minh, đẩy lùi sinh tử và làm hiển hiện Niết-bàn.
-
Bát Thánh đạo xuất hiện thì Bát tà đạo biến mất. Bát Thánh đạo,
do đó, là nhân duyên của sự đoạn diệt thế giới vọng tưởng của tà
kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà
niệm và tà định.
- Nếu thu gọn con đường tu tập
giải thoát của ba mươi bảy phẩm trợ đạo thì chúng ta có thể
trình bày Bát Thánh đạo dưới hình thức thu gọn hơn nữa là Giới
uẩn, Ðịnh uẩn và Tuệ uẩn. Chánh kiến và chánh tư duy thuộc Tuệ
uẩn: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc Giới uẩn; và
chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định thuộc Ðịnh uẩn. Cho nên,
chúng ta có thể phát biểu con đường giải thoát là con đường trí
tuệ (chánh kiến), con đường của Giới, Ðịnh, Tuệ hay là con đường
Bát Thánh đạo.
-
Tu Tập Bát Thánh Ðạo
- Tu tập chánh
ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng là tu tập mười thiện nghiệp của
thân, khẩu, ý (không nói dối, không nói hai lưỡi, không nói lời
độc ác, thô ác, không nói lời phù phiếm, không sát sanh, không
trộm cắp, không tà hạnh, sinh sống chơn chánh, chế ngự tham,
sân, si, là thực hành Giới bổn). Ðây là tu tập Giới.
- Tu tập chánh
tinh tấn, chánh niệm và chánh định là tu tập Tứ niệm xứ và Tứ
chánh cần, là hành Thiền định (Thiền chỉ và Thiền quán).
- Luôn luôn an
trú chánh niệm trên các suy tưởng về vô dục, vô sân, vô si, vô
hại là tu tập chánh tư duy.
- Tu tập chánh
kiến là làm thế nào để phát khởi chánh kiến. Ðể phát khởi chánh
kiến, hành giả cần đến năm duyên hỗ trợ: giới, văn, thảo luận,
Thiền chỉ (Samatha) và Thiền quán (Vipassana) (theo kinh Hữu
Minh Ðại Kinh, Trung Bộ I, Sđd., tr. 294).
- Có thể phát
biểu ngắn gọn hơn rằng, để chánh kiến xuất hiện, hành giả cần
đến hai duyên hỗ trợ là như lý tác ý và tiếng nói của người khác
(Sđd., tr. 294).
- Như lý tác ý
là khởi niệm đúng pháp, là tác ý trên ba pháp ấn (Khổ, Vô thường
và Vô ngã). Tiếng nói của người khác là công việc xem kinh sách,
nghe thuyết giảng và thảo luận.
- Tại đây,
chúng ta đã có thể rút ra một kết luận rõ ràng về những gì phải
làm của một người tu tập giải thoát. Hành giả chỉ có hai việc
phải làm, như Thế Tôn đã dạy: học hỏi Phật Pháp và tu tập
Thiền định. Ðây là ngõ đường chúng ta đến với đạo Phật, đi
vào đạo Phật.
- Làm khác đi
hai việc phải làm ấy thì chúng ta sẽ rơi vào một trong hai chỗ:
hoặc là sai lầm, hoặc là đi lòng vòng (quanh co).
- Giáo lý Phật
giáo luôn luôn có tính "nhất quán", nhằm đưa đến mục đích sau
cùng của đời sống Phạm hạnh là đoạn tận ái, thủ, vô minh, giải
thoát hết thảy các lậu hoặc. Vì vậy, trọng điểm của công việc tu
tập Bát Thánh đạo, hay của hầu hết các kinh điển Nam tạng và Bắc
tạng, vẫn luôn luôn được đặt vào việc đoạn trừ tham ái hay đoạn
trừ chấp thủ.
- Tu tập một
chi phần có nghĩa là tu tập tám chi phần. Khi tu tập chánh niệm
(hay niệm lực) thì hành giả phải có sự quan sát, tư duy đúng
(đây là chánh tư duy), phải biết đúng đường về giải thoát (đây
là chánh kiến), phải nỗ lực để loại bỏ, xa lìa tà kiến (đây là
chánh tinh tấn) và phải an trú tâm niệm như thế (đây là chánh
niệm).
- Tương tự đối
với việc tu tập các chi phần kia của Bát Thánh đạo.
- Hành giả khởi
đầu bằng bước đi chánh kiến, đi từng bước đi chánh kiến cho đến
lúc giải thoát, để rồi sau cùng hành giả chú tâm hoàn toàn ổn
định trong chánh kiến vô lậu. Ðây là tri kiến giải thoát.
- Thế là mỗi
bước đi của hành giả mang ý nghĩa vừa đầu tiên, vừa cuối cùng.
Sự khác nhau của bước đi phàm phu, hữu học và vô học là sự khác
nhau về sự có mặt của các lậu hoặc hay vắng mặt các lậu hoặc. Có
thể nói ý nghĩa của từng bước đi giải thoát (ly tham, ly thủ) là
đến trong từng bước đi. Ðến trong từng bước đi thì có nghĩa là
không đi. Không đi thì không đến. Ðến là đến như thế, và đi là
đi như thế gọi là Như Lai hoặc Như Khứ. Ðây là ý nghĩa tích cực
của "Vô sở tùng lai diệc vô sở khứ". Vẫn có mặt vô lai, vô khứ
trong khứ, lai.
- Học tập Bát
Thánh đạo như thế là một quá trình khởi đầu từ gần gũi bậc tu
hành có chánh kiến (hay gần Phật pháp), đến nghe Diệu pháp và tu
tập Diệu pháp. Quá trình này được nói gọn là Văn, Tư và Tu./.
- Kinh tham khảo căn bản:
- 1.
Kinh Ðại Tứ Thập, Trung Bộ III.
2. Kinh Chánh Tri Kiến, Trung Bộ I.
3. Kinh Ðại Ðiển Tôn, Trường Bộ III.
4. Tiểu kinh Hữu Minh và Ðại kinh Hữu Minh, Trung Bộ I.
5. Kinh Chánh Kiến (Hán tạng, Ðại 1, 797-b)
6. Kinh Thánh Ðạo (Hán tạng, Ðại 1, 735-b).
-
- --- o0o ---
|
|