-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Khái
Luận
- Thích Chơn Thiện
-
Chương Ba - Tăng
Bảo
Tiết II
- Liên Hệ Giữa Chư Tăng & Cư Sĩ
- Giáo hội Phật
giáo hiểu đúng là gồm có năm chúng xuất gia (Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo-ni, Sa-di, Thức-xoa-ma-na và Sa-di-ni) và hai chúng cư
sĩ tại gia (cận sự nam và cận sự nữ).
- Chúng xuất
gia thì ròng học Phật pháp, thực hành Thiền định và hướng dẫn tu
tập, nói pháp cho chúng tại gia. Chúng tại gia thì hằng ngày gần
gũi chúng xuất gia để học hỏi giáo lý giải thoát và lo ủng hộ
chúng xuất gia bốn thứ cần thiết hằng ngày cho đời sống: y phục,
ngọa cụ, thực phẩm và y dược.
- Cả hai chúng
xuất gia và tại gia đều là đệ tử của Thế Tôn. Cả hai đều nương
tựa Thế Tôn và đều ở trên đường về giải thoát. Chỉ có một điều
khác biệt giữa hai chúng đệ tử này là chúng xuất gia thì có đủ
điều kiện đi sâu vào giải thoát, còn ở chúng tại gia thì bên
cạnh việc tu tập giải thoát còn mang nặng gánh gia đình và xã
hội. Vì thế, Thế Tôn đã thiết lập giới luật riêng thích hợp với
hai chúng đệ tử này. Giáo lý giải thoát như Duyên khởi, Tứ Ðế
v.v. được Thế Tôn dạy chung cho cả hai chúng. Riêng chúng tại
gia, Thế Tôn dạy riêng pháp bố thí trước khi đi vào học hỏi và
tu tập Ba mươi bảy phẩm trợ đạo và một số giáo lý thực tiễn
khác, như làm thế nào để sống có hạnh phúc trong hiện tại và
tương lai với đời sống gia đình.
- Nguyên tắc
giáo dục của Thế Tôn là tùy theo điều kiện sống, điều kiện nhận
thức và nhân duyên giải thoát của từng cá nhân mà dạy pháp môn
thích hợp. Theo nếp giáo dục ấy, chư Tăng cũng nói pháp, giảng
giải giáo lý cho hàng tại gia.
- Một hôm, cư
sĩ thôn trưởng Asibandhakaputta bạch hỏi Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn,
vì sao đối với một số người, Thế Tôn thuyết pháp một cách hoàn
toàn trọn vẹn, đối với một số người, Thế Tôn thuyết pháp không
hoàn toàn trọn vẹn?" (Tương Ưng IV, tr. 35).
- Thế Tôn đã
trả lời cho câu hỏi của thôn trưởng bằng một ví dụ về ba thửa
ruộng: một thửa ruộng tốt, một thửa ruộng trung bình, và một
thửa ruộng xấu với đất độc, cứng và có chất muối, phèn. Với ba
thửa ruộng ấy thì người nông dân sẽ gieo trồng thửa ruộng tốt
trước tiên; rồi đến lượt gieo trồng thửa ruộng bậc trung; sau
hết là thửa ruộng xấu. Cũng thế, Thế Tôn ví thửa ruộng tốt với
hàng xuất gia, thửa ruộng bậc trung với cư sĩ, và thửa ruộng xấu
với hàng ngoại đạo. Cả ba thửa ruộng lần lượt sẽ được gieo trồng
theo thứ tự ưu tiên với đầy đủ sự chăm sóc và kỹ thuật gieo
trồng. Cũng thế, cả ba hạng người kể trên đều được Thế Tôn thứ
tự giáo hóa với đầy đủ thiện pháp với đầy đủ giáo lý giải thoát,
vì cả ba đều cần nương tựa Thế Tôn như là ánh sáng, như là nơi
ẩn trú, nơi che chở.
- Về đám ruộng
thứ ba, Thế Tôn dạy dù nó có xấu nhưng ít nhất cũng dùng nó để
cung cấp thức ăn cho trâu bò.
- Rồi Thế Tôn
lại ví ba hạng người trên với ba cái bình đựng nước: một cái tốt
hoàn toàn; cái thứ hai không bị nứt rạn nhưng bị thấm nước ra
ngoài; cái thứ ba vừa vị nứt rạn vừa bị thấm nước. Nếu phải chứa
nước thì người ta phải chứa đầy cái bình thứ nhất trước, rồi đến
lượt cái thứ hai và thứ ba, để có nước mà sử dụng.
- Cũng thế, Thế
Tôn phải giáo hóa hàng đệ tử xuất gia trước.
- Như thế,
ngoài Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa được áp dụng ở đoàn thể chư
Tăng, các cư sĩ có thể nghe, hiểu và thực hành những giáo pháp
mà Thế Tôn đã dạy cho chư Tăng, ngoài giáo lý bố thí và sống đời
sống gia đình hạnh phúc được dành riêng cho cư sĩ.
- Các cư sĩ có
thể nghe thuyết giảng từ Thế Tôn hay từ chư Tăng, chư Ni. Theo
Nikàya, cư sĩ có thể đắc quả Thánh từ Tu-đà-hoàn (sơ quả) cho
đến A-la-hán (tứ quả). Lại có chỗ, như Trung Bộ Kinh bảo rằng
nếu ở tại gia thì nam cư sĩ chỉ đắc quả cao nhất là A-na-hàm, nữ
cư sĩ đắc quả cao nhất là Tư-đa-hàm. Nhưng cũng ở Nikàya, Tiểu
Bộ Kinh thuật trường hợp hoàng hậu Khemà, vợ của vua
Tần-bà-sa-la đắc đến quả A-la-hán trước khi xuất gia. Lại nữa,
theo Kinh Ðại Bổn (Trường Bộ Kinh), vua Tịnh Phạn đắc A-la-hán
ngay khi xả báo thân.
- Thường thì cư
sĩ sau khi đắc quả A-na-hàm liền xuất gia để tiếp tục chứng đắc
A-la-hán. Quả vị A-la-hán, theo truyền thống, luôn luôn phải ở
hàng ngũ của chư Tăng và chư Ni xuất gia thọ Cụ túc giới.
- Cư sĩ được
phép cúng dường trai tăng cho Tăng chúng, Ni chúng; hoặc giới
hạn một số chư Tăng và chư Ni xuất; cũng được phép biệt thỉnh
chư Tăng, Ni thụ trai ở tư gia.
- Mỗi kỳ
Bố-tát, các cư sĩ được phép nghe Bát quan trai giới. Sau khi
nghe giới, có thể nghe thuyết giảng kinh trước khi trở về nhà
riêng để tự mình hành "Bát quan trai giới" trong vòng một ngày
một đêm. Ðấy là sống một ngày xuất gia.
- Có hai trường
hợp mà chư Tăng kiết giới ngăn chư Tăng đến nhà một cư sĩ.
Trường hợp một cư sĩ rất hảo tâm cúng dường, nhưng vì quá nghèo,
nên chư Tăng họp mặt làm phép Yết-ma không đến nhà cư sĩ đó. Lý
do duy nhất là vì thương tưởng đến cư sĩ đó. Nhưng, nếu có điều
kiện thừa các vật cúng dường, thì chư Tăng có thể đem biếu tặng
cư sĩ nghèo này, tạo điều kiện cho cư sĩ học hỏi và hành đạo.
- Trường hợp
thứ hai, một cư sĩ ác giới, gây nhiều tai tiếng cho chư Tăng,
thì chư Tăng làm pháp Yết-ma không chấp nhận cư sĩ ấy là Phật
tử, không tiếp và không đến nhà cư sĩ ấy.
- Tại gia đình,
một Phật tử tại gia (dù nam hay nữ, lớn hay nhỏ, không phân biệt
giai cấp và trình độ) có thể tự mình thực hành những lời Thế Tôn
dạy, tùy theo nguyện vọng và khả năng của mình. Phật tử tại gia
có thể hành ngũ giới, thập giới, bát quan trai giới, hành bố thí
và Thiền định. Ngoài ra, để sống đời sống gia đình được hạnh
phúc, người cư sĩ còn thực hiện thêm một số lời dạy khác của Thế
Tôn.
- Bây giờ,
chúng ta đi vào tìm hiểu các pháp hành trì của người Phật tử tại
gia qua sử chỉ dạy, hướng dẫn của chư Tăng, chư Ni.
- Các Kinh đề
cập đến sự tu tập của cư sĩ thì có rất nhiều, đại để chúng ta có
thể dựa vào một số Kinh căn bản của A-hàm và Nikàya, như kinh
Singàla (Trường Bộ IV, số 31), Kinh Thiện Sinh hay
Thi-ca-la-việt (Trường A-hàm số 16), kinh Ưu-bà-tắc (Trung
A-hàm, số 135; Trung A-hàm số 128); (Tăng Chi Bộ II và III; Kinh
Trì Trai; Trung A-hàm số 202) và (Thiên Ba, Kinh Trung A-hàm, số
37).
-
Ngũ giới: (Kinh Singala và Kinh
Thiện Sinh)
- Năm giới mà
cho đến nay vẫn là giới căn bản của mỗi Phật tử tại gia, thường
được chư Tăng truyền thọ trong lễ Quy y Tam Bảo là:
- 1. Không được
sát sinh (với người cư sĩ thì chỉ giữ phần chính là không được
giết người; nếu giữ không giết loài vật nữa thì càng tốt).
- 2. Không được
lấy những gì mà người khác không cho. Nói gọn lại là không được
trộm cắp.
- 3. Không được
tà hạnh trong các dục. Nói gọn là không được tà dâm. Nói rõ là
liên hệ tình dục chỉ giới hạn giữa vợ chồng theo quy định luân
lý xã hội.
- 4. Không được
nói dối, không được nói lời đâm thọc, không được nói lời độc ác,
không được nói lời phù phiếm làm mê hoặc người.
- 5. Không được
uống rượu hay các chất có men say.
- Trong hai
Kinh Singàla và Thiện Sinh thì chỉ đề cập đến bốn giới đầu,
nhưng các Kinh khác thì có đề cập thêm giới thứ năm, giới thứ
năm ở trên cũng là giới thứ năm của "Bát quan trai giới".
- Thế Tôn đã
cắt nghĩa cho Singàla (Thiện Sinh) rằng có bốn động cơ thúc đẩy
người ta gia phạm năm giới cấm trên; người Phật tử thì giữ năm
giới ấy không để vi phạm dù vì lý do nào:
- - Ðộng cơ thứ
nhất gây ra phạm giới là tham dục; động cơ thứ hai là sân hận;
động cơ thứ ba là si mê; động cơ thứ tư là sợ hãi.
- Người Phật tử
giữ năm giới trên thanh tịnh thì tránh được nhiều phiền muộn,
khổ đau gây ra trong hiện tại và khỏi rơi vào địa ngục; giữ vững
tư cách của con người.
- Ngoài lợi ích
cho tự thân người giữ giới, việc gìn giữ năm giới cấm trên còn
đem lại an lạc và nhiều lợi ích cho tha nhân. Tha nhân nhờ việc
giữ giới của mình mà tránh khỏi bị hại sinh mệnh, tránh khỏi bị
mất trộm, mất cắp, tránh khỏi những đổ vỡ tình cảm của gia đình
do đệ tam nhân gây ra, tránh khỏi bị lừa đảo và tránh khỏi các
hậu quả không lường được do người say rượu gây ra.
- Giữ được giới
thứ nhất là người Phật tử nuôi dưỡng tình người và nuôi dưỡng
lòng từ bi. Tình thương và từ bi được nuôi dưỡng có nghĩa là xua
tan dần đi sân hận, ganh ghét. Giới này vừa đem lại an lạc cho
người hành trì và cho xã hội, vừa làm trong sáng tâm hồn, tình
cảm con người.
- Giữ giới thứ
hai, người giữ giới khỏi rơi vào vòng tù tội, khỏi bị người đời
khinh chê, trong khi đó, những người khác không bị sầu muộn vì
mất của cải, xã hội được an ổn hơn.
- Giữ giới thứ
ba, người giữ giới không lo sợ đổ vỡ tình cảm của gia đình tự
thân, không lo sợ bị tình địch hãm hại và không bị người khác
khinh chê; trong lúc đó các gia đình khác cũng được sống trong
bình yên, không bị xáo trộn do các vụ đổ vỡ tình cảm gây ra. Xã
hội được thêm phần ổn định ở mặt xã hội.
- Giữ giới thứ
tư, người giữ giới được người khác tin cậy, không bị nghi ngờ
lòng thành thực, không bị khinh chê, và giữ được tính tình ngay
thẳng, trung trực. Trong khi ấy, tha nhân tránh được các hậu quả
không lường trước được do việc nói dối, nói lừa đảo gây ra.
- Giữ được giới
thứ năm, người giữ giới nuôi dưỡng được tánh tình trầm lặng, ổn
định, phát triển được tư duy và tránh được các hậu quả tai hại
do sự thác loạn, đập phá do cơn say gây ra cho tự thân, gia đình
và tha nhân. Giữ được giới này, tư cách của người giữ giới trở
nên đứng đắn, nghiêm chỉnh, biết xấu hổ về các điều làm sai quấy
của mình.
- Nếu các Phật
tử tại gia hành trì năm giới cấm trên, thì đã có thể đóng góp
khá nhiều vào một đời sống an ổn và hạnh phúc cho tự thân, cho
gia đình và xã hội.
- Tương lai,
theo kết quả của nghiệp, có thể sanh lại làm Người.
-
Thập Thiện giới:
- Ðược Thế Tôn
dạy rất nhiều qua các Kinh, dưới hình thức hộ trì ba nghiệp
thân, khẩu, ý. Mười giới này dành chung cả hàng xuất gia và tại
gia. Tuy nhiên, với hàng tại gia thì mức độ hành trì được giới
hạn nhẹ hơn cho thích hợp với căn cơ và điều kiện sống của mình.
Nhưng, nếu cư sĩ nào có điều kiện để hành trì sâu thập thiện
giới này thì kết quả đem lại cho đời hiện tại và cho cả đời sau
tốt đẹp hơn và giải thoát hơn.
- 1. Có ba giới
về thân là bất sát, bất đạo và bất dâm. Ba giới này tương tự ba
giới đầu của ngũ giới.
- 2. Có bốn
giới về miệng là không được nói dối, không được nói hai lưỡi,
không được nói lời độc ác, và không được nói lời phù phiếm, mộng
mị. Bốn giới này tương tự với giới thứ tư của ngũ giới.
- 3. Có ba loại
về ý là không được tham lam, không được sân hận, và không được
tà kiến.
- Thường thì
các giới chỉ tập trung vào thân và khẩu, vào sự tướng. Ở đây có
thêm ba giới về ý. Tham, sân và si được đề cập trong ba giới
cuối không đòi hỏi người giữ giới phải hoàn toàn đoạn trừ, mà
chỉ cần đoạn trừ ở phần thô.
- Với người
xuất gia thì thập thiện giới có nghĩa là giữ gìn ba nghiệp thân,
khẩu, ý cho thanh tịnh và đi đến đoạn trừ hoàn toàn tham, sân,
si.
- Ðặc biệt Kinh
Phân Biệt Ðại Nghiệp (Trung A-hàm, số 174; Ðại 1, 176-b) và Kinh
Ðại Nghiệp Phân Biệt (Trung Bộ Kinh, số 86) nêu lên một điểm rất
đặc biệt rằng Thế Tôn dùng thiên nhãn thấy rõ có một số chúng
sanh tuy đời này phần lớn hành mười điều ác nghiệp, nhưng nhờ
thiện nhân đời trước, cuối cuộc đời khởi lên các cảm thọ lạc và
phát khởi tín tâm vào Tam Bảo, có chánh kiến về các pháp, và
trước khi mệnh chung vẫn giữ lòng tin và chánh kiến ấy thì được
sanh về thiên giới; trong khi đó, một số chúng sanh tuy phần lớn
ở đời này hành mười thiện nghiệp, nhưng vì nghiệp bất thiện quá
khứ khởi lên cảm thọ khổ vào cuối cuộc đời, và trước khi chết
không có chánh kiến và chánh tín vào ngôi Tam Bảo, nên phải đọa
vào ba đường dữ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh).
- Bên cạnh việc
hành mười nghiệp thiện, người Phật tử cần có chánh kiến và cận
tử nghiệp tốt (có chánh kiến và chánh tín). Chánh kiến, chánh
niệm lúc mệnh chung là yếu tố quyết định cảnh giới thác sinh cõi
trời. Tà kiến, tà niệm lúc mệnh chung là nhân tố chính quyết
định đi xuống ba đường dữ.
-
Bát quan trai giới: (Phẩm Ngày
Trai Giới, Tăng Chi III Ð, 1981, tr. 232-234; Kinh Trì Trai,
Trung A-hàm, số 202).
- Ngày trai
giới (Uposatha) là ngày mà một Phật tử tại gia tu tập hạnh xuất
gia thanh tịnh theo hạnh của một bậc A-la-hán. Có tám giới để
giữ gìn, hành trì trong ngày trai giới gọi là Bát quan trai
giới. "Do vì coi tám chi phần (hay tám giới) này như thuộc bậc
A-la-hán, ngang bằng, không khác nên gọi là trai". (Trung A-hàm,
Kinh Trì Trai).
- Thế Tôn dạy
nếu một ngày một đêm tu tập Bát quan trai giới này thì sẽ có kết
quả lớn, lợi ích rất lớn. Thế nào là có kết quả lớn, lợi ích
lớn?
- Thế Tôn giải
thích:
- "... Ở đây,
có nam hay nữ Phật tử nào, sau khi thực hành, thành tựu tám chi
phần, sau khi thân hoại mạng chung được sanh cộng trú với chư
Thiên ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại, vô cùng hạnh phúc" (Tăng Chi
III-A, tr. 236).
- Cõi trời Tha
Hóa Tự Tại có tuổi thọ là mười sáu ngàn năm. Mỗi năm của cõi
trời này có mười hai tháng; mỗi tháng có 30 ngày. Mỗi ngày đêm
của cõi trời này tính bằng một ngày sáu trăm năm của cõi người.
Thọ mạng của chư Thiên Tha Hóa Tự Tại tính ra thời gian của con
người là: (1.600x30x12x16.000) = 3.216 triệu năm hay 9,2 tỷ năm
(xem Tăng Chi và Trung A-hàm).
- Thế nào là
Bát quan trai giới?
- - Giới thứ
nhất: "Cho đến trọn đời, các vị A-la-hán đoạn tận sát sanh, từ
bỏ sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống
thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình.
Hôm nay, đêm này và ngày này, tôi cũng đoạn tận sát sanh, từ bỏ
sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống
thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu
tình".
- - Giới thứ
hai: "... Hôm nay, đêm này và ngày này, tôi cũng đoạn tận lấy
của không cho, từ bỏ lấy của không cho, chỉ mong những vật đã
cho, tự sống thanh tịnh không có trộm cắp".
- - Giới thứ
ba: "... Hôm nay, đêm này và ngày này, tôi cũng đã đoạn tận phi
Phạm hạnh, hành Phạm hạnh, sống từ bỏ dâm dục hèn hạ".
- - Giới thứ
tư: "... Hôm nay, đêm này và ngày này, tôi cũng đoạn tận nói
láo, chỉ nói những lời chân thật y chỉ nơi sự thật, chắc chắn
đáng tin cậy, không lường gạt đời".
- - Giới thứ
năm: "... Hôm nay, đêm này và ngày này, tôi cũng đoạn tận đắm
say rượu men, rượu nấu, từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu".
- - Giới thứ
sáu: ".... Hôm nay, đêm này và ngày này, tôi cũng dùng mỗi ngày
một bữa, không ăn ban đêm, từ bỏ không ăn ban đêm, không ăn phi
thời".
- - Giới thứ
bảy: "... Hôm nay, đêm này và ngày này, tôi cũng từ bỏ không đi
xem múa hát, nhạc, diễn kịch, không trang sức bằng vòng hoa,
hương liệu, dầu thoa và các thời trang".
- - Giới thứ
tám: "... Hôm nay, đêm này và ngày này, tôi cũng đoạn tận không
dùng giường cao, giường lớn, từ bỏ không dùng giường cao, giường
lớn".
- Ðây là tám
giới được giữ gìn trong ngày trai giới. Hạnh phúc của một người
có quyền lãnh đạo cả mười sáu quốc độ (một diện tích rộng lớn ở
Trung Ấn) với đầy đủ châu báu, uy quyền được xem còn là nhỏ nhoi
so với hạnh phúc của cõi Dục giới thiên thứ nhất (Tứ Thiên Vương
thiên) huống nữa là so với cõi thứ sáu của Dục Giới thiên (Tha
Hóa Tự Tại thiên).
- Bát quan trai
giới như thế là pháp tu rất truyền thống của người Phật tử tại
gia, đã được kiết tập rõ ràng trong A-hàm và trong Nikàya, hai
Tạng kinh được xem là gần nguyên thủy nhất.
- Tu Bát quan
trai giới vừa gây được nhân giải thoát xuất thế, vừa thể hiện
được tinh thần đạo ở trong đời, lại vừa là một ngày sống quân
bình tâm lý, một ngày sống đầy giác tinh mở hướng đi lên cho tâm
hồn, cần được thực hiện thành ngày tu truyền thống. Ngày Bát
quan trai, như được ghi ở Tăng Chi Bộ Kinh I, được Thế Tôn ấn
định vào sáu ngày trong mỗi tháng: 1, 8, 23, 14, 15 và ngày 30
Âm lịch. Ðặc biệt của sáu ngày này là: vào ngày 8 và 23 thì
thường có các đại thần của Tứ Thiên Vương thiên hạ trần; ngày 14
và 30 thì các thiên tử của Tứ Thiên Vương thiên hạ trần; ngày 1
và 15 thì chính Tứ Thiên Vương thiên hạ trần để quan sát sự biểu
hiện thiện ác của người đời. Sự hưng vong của Tứ Thiên Vương
thiên có liên quan mật thiết tới cõi Người: Nếu người đời tu
thiện nhiều thì cõi Trời ấy hưng thịnh; nếu cõi Người đi vào ác
hạnh thì cõi Trời kia đi vào suy vong. Do lẽ đó mà Tứ Thiên
Vương thiên đặc biệt quan tâm nhìn xuống cuộc đời trần thế.
-
Tương giao xã hội: (Kinh Singàla,
Trường Bộ Kinh IV; Kinh Thiện Sinh, Trường A-hàm, số 16; và
Trung A-hàm, số 135, đã đề cập sơ lược ở chương Phật Bảo).
- Ðức Thế Tôn,
bên cạnh việc giảng dạy con người giải thoát khổ đau, sinh tử.
Ngài rất quan tâm đến hạnh phúc của người đời, những người sống
ở gia đình, có nhiều trách nhiệm gia đình và xã hội.
- Thế Toân,
trong Kinh Singàla và Kinh Thiện Sinh, nhìn mối tương hệ của con
người là tương hệ thiêng liêng, đáng tôn kính. Ngài xem mối
tương hệ này là tương hệ Phạm thiên. Có sáu mối tương hệ đáng
tôn kính, đáng đảnh lễ của người đời.
- Trong khi
chàng thanh niên Singàla đảnh lễ sáu phương trời, thì Thế Tôn
dạy chàng nên quay về đảnh lễ sáu phương trong giáo pháp của bậc
Thánh, của Thế Tôn. Ðây chính là sáu mối liên hệ ở đời.
-
1. Tương hệ giữa cha mẹ và con cái:
- Phương Ðông
là cha mẹ. Cha mẹ là thiêng liêng, cao cả, đáng tôn kính đảnh lễ
của con cái. Ý nghĩa của đảnh lễ là nhấn mạnh bổn phận của con
cái đối với cha mẹ. Thế Tôn rất thiết thực, đưa Singàla trở về
thực tế với những bổn phận đối với cha mẹ mà không phải là hình
thức lễ bái. Khi cha mẹ còn sống, người con phải biết vâng lời,
làm vui lòng cha mẹ; phải biết hầu hạ giúp đỡ cha mẹ một số công
việc khi cha mẹ cần đến; phụng dưỡng cha mẹ khi tuổi già, phải
biết giữ gìn gia phong, tiếng tăm, danh dự của gia đình, phải
biết bảo vệ tài sản của cha mẹ để lại; phải biết giới thiệu đạo
giải thoát đến với cha mẹ; nếu có thể, phải lo tang lễ cho cha
mẹ hẳn hoi.
- Ðáp lại, cha
mẹ có bổn phận nuôi dưỡng và giáo dục con cái tốt; lo cho con
học chữ và học nghề; giúp đỡ con gần bạn lành và xa bạn xấu; đưa
con vào điều thiện và xa điều ác; lo việc cưới gã con vào các
gia đình tốt; chia tài sản cho con cái đúng lúc.
-
2. Tương hệ giữa thầy giáo và học trò:
- Phương Nam
chính là thầy giáo. Tương hệ giữa thầy và trò là một tương hệ
cao cả, đẹp đẽ, đáng tôn kính.
- Học trò cần
kính trọng và vâng lời thầy; cần học hành chăm chỉ và thực hiện
tốt các điều thầy chỉ dạy; giúp đỡ và phục vụ cho thầy giáo
trong những khi thầy giáo cần sự giúp đỡ.
- Ðáp lại, thầy
giáo có bổn phận phải dạy tốt, cung cấp kiến thức chuyên môn
tốt; giúp học trò thấy rõ bổn phận và hướng đi của tự thân trong
xã hội; giúp học trò chọn nghề nghiệp thích hợp và tạo điều kiện
cho học trò có cơ sở làm ăn khi rời khỏi nhà trường.
- Thật là thực
tiễn khi Thế Tôn dạy thầy giáo hướng nghiệp cho học trò và kiếm
việc (nhiệm sở) cho học trò sau khi học xong!.
-
3. Tương hệ giữa chồng và vợ:
- Phương Tây là
chỉ mối quan hệ giữa vợ chồng. Mối tương hệ này là thiêng liêng,
đáng được tôn kính đảnh lễ. Ý nghĩa thực sự của đảnh lễ chính là
công việc xây dựng mối tương hệ tốt và hạnh phúc giữa hai người.
- Người chồng
cần phải yêu thương, kính trọng và trung thành đối với người vợ,
săn sóc chu đáo đời sống kinh tế của người vợ với sự cung cấp
đầy đủ các tiện nghi vật chất; nuôi dưỡng tình cảm, thường tặng
quần áo, đồ trang sức.
- Qua lời dạy
này, chúng ta thấy rõ mối quan tâm của Thế Tôn như thế nào đến
hạnh phúc lứa đôi. Thương yêu chưa đủ, hạnh phúc còn đòi hỏi các
nhu cầu thực tiễn hơn thế nữa. Thông thường thì khi đã là vợ
chồng, có người thường thiếu sự cảnh giác trong thái độ đối xử
với nhau; đây là một thiếu sót. Kính trọng là một thái độ cần
thiết trong tương giao của vợ chồng; thái độ này nói lên sự kính
trọng đầy tính người, vừa làm cho tình yêu rực rỡ thêm trong đón
nhận an lạc và hạnh phúc. Thái độ kính trọng cần được thực hiện
từ đáy lòng và bền chặt; do vì kính trọng nên không được gây tổn
thương đến danh dự, giá trị của nhau bằng bất cứ việc làm nào;
yêu người khác là gây một tổn thương lớn cho người bạn đời, do
đó đòi hỏi phải trung thành với nhau.
- Hạnh phúc
giữa hai người còn thực tế liên hệ đến đời sống vật chất, kinh
tế gia đình; người vợ cần được người chồng bảo đảm các tiện nghi
sống. Khi lòng yêu thương và kinh tế gia đình ổn định, mối tình
cảm, tương hệ cũng cần được nuôi dưỡng liên tục; thỉnh thoảng
sắm quà tặng cho người vợ, đấy là cách tỏ bày tình thương yêu,
quý mến và lòng trung thành của người chồng. Ði đâu xa về mà
người chồng có quà dành cho người vợ thì người vợ sẽ yên tâm
rằng người chồng luôn luôn nghĩ đến mình và không để lòng yêu
thương người khác. Thế là tương giao đã thắm thiết trở nên càng
thắm thiết.
- Áo mặc và đồ
trang sức là món quà rất phù hợp với mong chờ của phái nữ. Quà
loại này vừa nói lên tính thực tế trong việc sử dụng nó, vừa nói
lên tính tâm lý làm phát khởi niềm hoan hỷ và thiện cảm nơi
người nhận.
- Ðáp lại,
người vợ phải thương yêu, kính trọng và trung thành với chồng.
Ðây là đòi hỏi tất yếu.
- Trong khi
người chồng bận rộn với công việc xã hội, thì bổn phận người vợ
là quản lý giỏi các công việc và của cải làm ra của gia đình,
khéo điều hành và khéo đối xử; niềm nở đón tiếp những người ở
gia đình chồng với sự kính trọng; vui vẻ với láng giềng. Người
vợ không được ỷ lại vào sự săn sóc yêu thương của chồng; lại
không được ngoại tình, không được sai khiến chồng như bà chủ,
không được phung phí tài sản. Nếu người vợ ngoại tình, sai khiến
chồng và phung phí tài sản thì sau khi chết sẽ đoạ địa ngục
(Tăng Chi III, phẩm Bảy Pháp). Người vợ cư xử với chồng trong tư
cách của người vợ, người yêu, người bạn, và có khi như là vai
trò của người mẹ, người chị hay người em gái của chồng. Với các
thái độ cư xử này, sau khi chết, người vợ sẽ được hưởng phước
báo sanh thiên.
- Qua những lời
dạy trên của Thế Tôn (Trường Bộ IV, và Tăng Chi III), vợ chồng
cư xử với nhau hiện rõ trong ba vai trò: người chồng (hay vợ),
người yêu và là người bạn. Vai trò của người chồng (hay vợ) như
là vai trò của bổn phận; vai trò của người yêu là vai trò tình
cảm đặc biệt của đôi vợ chồng; vai trò người bạn là vai trò nói
lên tính bền bỉ và chia xẻ của tương hệ của vợ chồng. Ba vai trò
đó cần được thường xuyên vận dụng hợp thời và hợp chỗ. Khi một
người bị bệnh, thì người kia đóng vai trò săn sóc của người cha
(hay mẹ), của anh, em (hay chị, em). Trong các công việc gia
đình, xã hội thì cần sự bàn bạc, hợp tác, chia xẻ; bấy giờ cặp
vợ chồng xuất hiện như là hai người bạn. Lúc yêu thương, đấy là
vai trò của người yêu. Vai trò này cần được duy trì cho đến trọn
đời, chứ không phải trong buổi đầu gặp gỡ.
- Về hạnh phúc
gia đình trong đời sống hiện tại, Thế Tôn dạy cả hai người cần
thực hiện bốn điều:
- 1. Làm việc
giỏi, siêng năng, quản lý giỏi, giàu nghị lực.
- 2. Bảo vệ tất
cả của cải đã được làm ra một cách hợp pháp.
- 3. Tiêu dùng
đúng việc, đúng mức: không phung phí, cũng không keo rít.
- 4. Giao du
với bạn bè có tính khoan dung, cởi mở, có tín, thí, giới và tuệ.
- Hoặc thực
hiện bốn điều này:
- 1. Tháo vác,
làm ra nhiều của cải.
- 2. Quân bình
chi thu. Thu phải trội hơn chi. Lợi tức làm ra cần được sử dụng
1/4 cho việc chi tiêu hàng ngày, 1/4 cho bất thường chi, và 2/4
dùng vào vốn để đầu tư.
- 3. Quân bình
sức khỏe và tâm lý. Cần làm việc, ăn uống và nghỉ ngơi có tiết
độ. Không nên buồn nản, cũng không nên để mình quá vui, quá bận
rộn.
- 4. Giao du
với bạn có tín, thí, giới và tuệ.
- Về hạnh phúc
gia đình cho mai sau (cho kiếp sau), Thế Tôn dạy cần thực hiện
bốn điều:
- 1. Tín: Có
lòng tin vào ngôi Tam Bảo. Tin rằng Thế Tôn là bậc giác ngộ hoàn
toàn. Tin rằng Pháp đã được Thế Tôn khéo thuyết giảng có khả
năng đoạn trừ tham, sân, si, tất cả khổ đau. Tin rằng chúng Tăng
là đoàn thể hoà hợp, sống cao thượng trong Giới bổn
Ba-la-đề-mộc-xoa, đáng được tôn kính, cúng dường và học hỏi.
- 2. Thí: Cần
có lòng khoan dung và thương người, giúp đỡ các người khác với
các của cải mình có; thường cứu giúp người nghèo và cúng dường
chư Tăng.
- 3. Giới: Cuộc
sống cần có giới hạnh; giữ gìn năm giới cấm một cách nghiêm
chỉnh.
- 4. Tuệ: Hiểu
biết khổ đau, con đường đi ra khỏi khổ đau, và có chí cầu tu tập
để giải thoát khổ đau.
- Thực hiện
được các lời dạy trên thì người Phật tử sẽ tìm thấy hạnh phúc
tương đối trong hiện tại và trong các đời sau. (Theo Tăng Chi
II, phẩm Bốn pháp).
- Người Phật tử
xây dựng một nếp sống như vậy thì rất thiết thực và vừa với cấp
độ giá trị của con người, có thể tìm thấy hạnh phúc rất là người
và vừa có thể hướng về giải thoát cao hơn.
-
4. Tương hệ bạn bè:
- Phương Bắc
chỉ bạn bè. Mối tương hệ này cũng cao cả, cần được tôn kính. Con
người cần đối xử nhân từ với nhau, nói năng từ ái, hòa nhã; phải
sống hòa hợp mà không gây gỗ, cãi vã; giúp ích cho nhau trong
những khi cần, và không bỏ nhau khí khó.
- Tương giao như thế là mối tương
giao đầy tình người. Bạn bè cũng là một như cầu sống của con
người. Hẳn sống ai cũng cần có bạn, và bạn phải là bạn tốt để
đem lại an vui cho nhau. Tình bạn được xây dựng tốt cũng là một
thứ hạnh phúc của tương giao.
-
5. Tương hệ giữa chủ và người cộng sự:
- Phương Dưới
chỉ liên hệ giữa chủ và người cộng sự. Mối liên hệ này cũng cao
quý, thiêng liêng. Người chủ nhà (hay chủ cơ sở) có nhiều bổn
phận đối với các cộng sự: giao công việc vừa khả năng và sức
khỏe; trả tiền thù lao thích đáng; cung cấp các thuốc men trị
bệnh; và thỉnh thoảng an ủi, khích lệ và tưởng thưởng hay tặng
quà.
- Ðáp lại,
người cộng sự cần phải làm việc cần mẫn, giỏi dắn, lương thiện,
thành thực và không xảo trá. Liên hệ này cũng thể hiện đầy tình
người, đầy tình tương thân tương ái, tạo nên một không khí tương
giao của cuộc sống rất nhẹ nhàng và an lạc. Ai cũng có thể đón
nhận một cảm giác rằng sống là để hạnh phúc, xây dựng mà không
phải là để làm việc, để khổ đau cho dù có phải làm việc trọn
ngày.
-
6. Tương giao giữa các tu sĩ và cư sĩ:
- Phương Trên
là chỉ các tu sĩ và mối tương giao giữa các tu sĩ và cư sĩ. Ðây
là liên hệ thiêng liêng, là liên hệ Phạm thiên, đáng tôn kính.
- Các Phật tử
thì săn sóc ủng hộ các tu sĩ các nhu cầu vật chất tối thiểu (y
áo, thuốc men, giường chiếu và thực phẩm) và biểu lộ chân thành
lòng thương yêu, kính trọng. Các tu sĩ thường bị ràng buộc bởi
giới luật nên không nói rõ các Phật tử các nhu cầu trên. Các
Phật tử cần rõ điều này, đến gần các tu sĩ để biết các vị đang
cần gì để hộ trì. Hộ trì tu sĩ có nghĩa là hộ trì Chánh pháp,
mong muốn Chánh pháp được tồn tại lâu dài giữa đời. Chánh pháp
tồn tại lâu dài thì cuộc đời được thêm phần an lạc. Hộ trì tu sĩ
như thế có nghĩa là đóng góp vào việc xây dựng an lạc cho cuộc
đời, cho chính tự thân người hộ trì.
- Ðáp lại, người tu sĩ vốn là vô
sản, trọn ngày chỉ học Phật Pháp, khất thực và hành Thiền định,
chỉ có trao cho người cư sĩ tấm lòng từ mẫn, lân mẫn, các hiểu
biết về các pháp, và giới thiệu các cư sĩ con đường chân chính
đoạn khổ, xây dựng hạnh phúc ở đời. Tương hệ này là đầy tình đạo
và tình người.
- Vị tu sĩ chỉ
trao truyền kiến thức và kinh nghiệm tu tập cho các Phật tử,
cung cấp các kiến thức, trao truyền năm giới, mười giới, bát
quan trai giới, và khích lệ các Phật tử giác tỉnh vô thường mà
phát khởi tinh tấn tu tập.
- Thiếu lòng từ
mẫn, thiếu kinh nghiệm của học hỏi và tu tập Phật pháp thì dù có
đầy đủ ý thức trách nhiệm đối với cư sĩ, các tu sĩ cũng không
đóng được vai trò của mình, cũng không giữ được thiên chức
thiêng liêng cao cả của mình. Nhận sự hộ trì của các tu sĩ là
nhận lãnh trách nhiệm giáo dục của mình, là chấp nhận mối tương
giao rất hợp lý, đầy tình người và tình đạo, như Thế Tôn đã dạy
về mối tương hệ ấy.
- Mối tương hệ
đó như là sự trao đổi hai chiều các nhu cầu của mỗi phía một
cách công bằng và có tính cách tự nguyện mà không ràng buộc
nhau, không gây thiệt thòi cho phía nào. Người tu sĩ không phải
chỉ giảng dạy Phật pháp và con đường tu tập, mà còn đảm trách
thêm việc giáo dục hướng dẫn về kinh tế, quản lý gia đình và các
tâm lý cá nhân, xã hội, những gì trực tiếp ảnh hưởng đến hạnh
phúc cá nhân, gia đình và xã hội.
- Tóm lại, nhu cầu người cư sĩ chờ
đợi ở tu sĩ là nhu cầu giáo dục (theo nghĩa rộng), và nhu cầu
người tu sĩ chờ đợi ở cư sĩ là nhu cầu kinh tế. Hai nhu cầy ấy
bổ sung cho nhau trong một hòa điệu của sự hưng thịnh của Phật
giáo và sự an lạc, hạnh phúc, phồn vinh của cuộc đời.
- Sáu mối tương
quan trên còn có ý nghĩa rằng sống là tương quan tương duyên,
rằng con người là con người của tương giao xã hội, và xã hội là
xã hội của các cá nhân con người. Ðấy là mối tương hệ không thể
cắt xén: không thể sống mà chỉ biết có cá nhân, cũng không thể
sống mà cá nhân bị đánh mất hoàn toàn. Về giải thoát, thì phải
là vấn đề cá nhân; nhưng về hạnh phúc tương đối ở đời thì phải
là hạnh phúc của tương giao. Lo cho hạnh phúc tương giao là vấn
đề lo cho hạnh phúc của tập thể, toàn thể. Khi dạy về hạnh phúc
cá nhân, chính Thế Tôn lại nói đến hạnh phúc của gia đình và tập
thể.
- Thiết lập
tương giao tốt giữa con người, đấy là một nghệ thuật sống. Nghệ
thuật này được xây dựng trên các yếu tính: kính trọng nhau, chấp
nhận nhau, thành thực với nhau, và thương yêu giúp đỡ lẫn nhau
vì hạnh phúc chung.
- Nếu trước đây
Thế Tôn đã cặn kẽ dạy chàng thanh niên Singàla hướng về tôn
kính, xây dựng sáu mối tương giao kia, thì ngày nay người tu sĩ
cũng cần hỗ trợ cho các Phật tử tại gia công việc tương tự. Ðể
thể hiện tốt vai trò hướng dẫn, chỉ đạo của mình, vị Tỷ-kheo
cũng cần có kiến thức về tâm lý, về kinh tế, xã hội. Ðời sống vị
Tỷ-kheo, qua mối tương giao này, không chỉ giới hạn trong khuôn
viên nhà chùa, mà cần phải đi vào sự quan tâm đến hạnh phúc của
người đời với thái độ dấn thân tích cực hơn.
- Kinh nghiệm
lịch sử, đặc biệt là lịch sử Việt Nam, cho thấy thời đại nào mà
có nhiều tu sĩ Phật giáo chân chính hành đạo với kiến thức uyên
bác, dấn thân giúp đỡ xã hội thì Phật giáo hưng thịnh và dân tộc
cũng hưng thịnh, như đời Lý, Trần; thời đại nào các vị Sư thu
mình về trong khuôn viên nhà chùa, trong tinh thần lánh thế, hay
đi xa con đường thực hành Giới, Ðịnh, Tuệ thì thời đại ấy Phật
giáo suy vong, hay đi vào suy vong, và dân tộc cũng không hùng
cường, như cuối đời Lý, cuối đời Trần và qua triều Lê, Nguyễn.
Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa cần được hiểu một cách sáng tỏ là làm
dậy sức sống giải thoát trong mỗi người, đem lại an lạc cho mình
và người, chứ không phải để buộc chân người cứu thế, độ đời.
- Người tu sĩ
và người cư sĩ đều cùng lúc có hai bổn phận chính yếu: một bổn
phận đi vào giải thoát và một bổn phận xây dựng hạnh phúc cho
đời. Xây dựng được mối tương giao thứ sáu tốt đẹp là làm tròn
hai bổn phận đó. Và ngược lại.
- Sáu mối tương
hệ trên có thể được học đường ngày nay đem vào nền giáo dục nhân
bản, giáo dục con người rất người bên cạnh các kiến thức chuyên
môn.
-
- (Xin xem tiếp đoạn kế)
--o0o--
|
|