-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phật Học Cơ Bản
-
Tập Một
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần II
- Bài 4
- Nghiệp
(Karma)
- Thích Tâm Thiện
-
A- Dẫn nhập
- Trong kinh Majjhima Nikàya
(Trung Bộ), Ðức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của
nghiệp, là kẻ thừa tự nghiệp. Nghiệp là thai tạng mà từ đó con
người được sanh ra; nghiệp là quyến thuộc, là nơi nương tựa"
(Owners of their karma are the beings, heirs of their karma. The
karma is their womb f rom which they are born, their karma is
their friend, their refuge - 155). Như thế, sự hiện hữu của mỗi
con người đồng thời là sự hiện hữu của nghiệp thiện và bất thiện
từ (vô lượng kiếp) quá khứ. Mỗi con người cá thể là điểm trung
tâm của nghiệp; ngoài mỗi cá thể ấy sẽ không có bất kỳ một cái
nghiệp nào được bàn đến.
-
B- Nội dung
-
I- Ðịnh nghĩa
- Nghiệp là gì?
Theo từ nguyên, nghiệp, tiếng Sanskrit gọi là karma, Pàli gọi là
kamma, có nghĩa là hành động có tác ý (volitional action). Nói
cách khác, nghiệp luôn luôn được bắt nguồn từ những tạo tác của
tâm (ý) thông qua những hoạt động của thân, miệng và ý, gọi
chung là tam nghiệp. Do đó, một hành động (tạo tác) nếu không
phát sinh từ tâm thì không thể gọi là nghiệp, mà hành động ấy
chỉ được gọi là hành động hay hành động duy tác (kriyà). Và như
vậy, định nghĩa của nghiệp là: hành động có tác ý, hay
hành động được phát sinh từ tâm.
-
II- Nội dung của nghiệp
- Thông thường,
nói đến nghiệp là nói đến vấn đề thiện, ác trong vòng sinh diệt
và tương tục của đời sống con người. Thông qua việc tạo nghiệp
(thiện hay ác) mà con người tự xây dựng cho mình một định nghiệp
- một đời sống khổ đau hay hạnh phúc. Nhưng khổ đau hay hạnh
phúc là những cảm nhận của riêng mỗi con người khác nhau và nó
là những pháp sinh diệt, tương tục trên cơ sở tâm lý khác nhau.
Vì thế, sẽ không có một khuôn mẫu ước lệ nào có thể quy ước một
cách đầy đủ về nghiệp. Tuy nhiên, cơ sở của nghiệp là tâm (ý),
do đó, khảo sát về nghiệp chính là khảo sát về cội nguồn của
tâm. Ðức Phật dạy:
- "Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ tạo tác
Nếu với ý nhiễm ô (ác)
Nói năng hay hành động
Khổ não bước theo sau
Như chiếc xe theo chân con vật kéo" -- (Dhp 1)
- "Ý dẫn đầu các pháp
Ý làm chủ tạo tác
Nếu với ý thanh tịnh (thiện)
Nói năng hay hành động
An lạc bước theo sau
Như bóng không rời hình" -- (Dhp 2)
- Qua bài kinh
trên, chúng ta nhận rõ rằng chính mối tương quan nhân-quả từ nơi
tâm ý của con người đã hình thành nên cái nghiệp thiện hay ác mà
con người phải thọ nhận. Vì thế, Ðức Phật dạy về nghiệp là nhằm
đánh thức con người thức tỉnh từ nơi tâm ý của chính mình (tự
tịnh kỳ ý) để từ đó đi vào một đời sống an lạc giải thoát. Tất
nhiên, cái mà gọi là nghiệp ở đây là những gì thuộc pháp hữu lậu
(nghiệp hữu lậu), tức là những gì thuộc thiện-ác, khổ đau-hạnh
phúc v.v..., nó gắn liền với đời sống đạo đức, luân lý của con
người, với những cảm thọ vui buồn - khổ lạc, mà không phải là
những gì thuộc vô lậu - giải thoát. Do đó, trong một số trường
hợp, khi các kinh văn đề cập đến nghiệp và lậu, chúng ta cần
hiểu rằng đó là một lối diễn đạt nhằm phân biệt giữa cái thiện,
ác và cái đã thoát ly mọi ý niệm về thiện, ác. Chẳng hạn
tham-sân-si là nghiệp bất thiện, nghiệp ác; nhưng tự thân không
tham-không sân-không si đã là thanh tịnh giải thoát rồi. Ở đây,
trên phương diện nào đó, không cần thiết phải gọi không
tham-không sân-không si là cái nghiệp thiện, hay cái nghiệp
thanh tịnh-giải thoát. Bởi lẽ, thanh tịnh-giải thoát tự nó đã
thoát ly mọi khái niệm thiện-ác, hữu-vô. Do vậy, khi bàn đến nội
dung của nghiệp, ở đây chúng ta chỉ thuần túy nói đến nghiệp
thiện và nghiệp ác, tức là nghiệp hữu lậu mà không nói đến
nghiệp vô lậu. Cố nhiên, định nghĩa "Nghiệp là hành động có tác
ý hay hành động phát sinh từ tâm" chỉ được dùng cho tất cả
nghiệp hữu lậu, tức là mọi vấn đề liên quan đến thiện và ác.
-
III- Phân loại nghiệp
- Thông thường,
nghiệp được tạo tác trên cơ sở của thân, khẩu và ý. Tất nhiên,
cả ba nghiệp trên đều xuất phát từ ý hay còn gọi là tâm. Như
thế, khi xét đến nghiệp của một con người là xét đến thân
nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Ngoài ba nghiệp này, không còn
một cái nghiệp nào khác. Tuy nhiên, nghiệp có những tính chất và
chức năng khác nhau nên chúng được phân làm nhiều loại và có
nhiều tên gọi khác nhau.
- 1)- Phân
loại 1 (theo tên gọi): Theo trình tự, trước hết, giáo lý về
nghiệp được chia thành hai loại:
- a- Nghiệp
thiện: Tư duy và hành động về các điều lành như thực hành Ngũ
giới và Thập thiện giới.
- b- Nghiệp ác:
Tư duy hành động về các điều ác như thực hành những điều trái
ngược với Ngũ giới và Thập thiện giới.
- Từ hai loại
nghiệp trên, chúng ta phải xét đến quá trình tạo tác, tư duy và
hành động để hình thành nên nghiệp (thiện hay ác). Do đó, nếu
xét về tiến trình của nghiệp (process of karma) thì nghiệp lại
được chia thành hai loại nữa:
- a- Nghiệp
nhân: Những tư duy, hành động tạo nghiệp chưa đưa đến một kết
quả.
- b- Nghiệp
quả: Những tư duy, hành động tạo tác sau một tiến trình đã tạo
thành nghiệp, còn gọi là nghiệp quả hay nghiệp báo.
- Trong thực
tế, khi nói đến nghiệp, hàng Phật tử thường chú trọng đến nghiệp
báo (nghiệp quả) hơn là nghiệp nhân. Và đây là chỗ thiếu sót của
chúng sanh khi đối diện với nghiệp. Và cũng chính điều này khiến
cho chúng sanh quan tâm đến quả báo hơn là gieo nhân. Nghiệp quả
hay nghiệp báo còn được gọi là quả dị thục (nghiệp đã chín
muồi).
- 2)- Phân
loại 2 (theo tiến trình): Xét theo tiến trình (từ nhân đến
quả) của nghiệp thì có hai loại nghiệp cơ bản:
- a- Ðịnh
nghiệp: Là nghiệp được lưu chuyển trong thời gian ổn định và từ
nhân đến quả thống nhất với nhau. Ví dụ, trứng gà sau khi được
ấp trong một thời gian sẽ nở ra con gà. Nói chung, các nghiệp
nhất định sẽ đưa đến kết quả (như ăn thì sẽ no) thì được gọi là
định nghiệp.
- b- Bất định
nghiệp: Là nghiệp không dẫn đến kết quả, hoặc kết quả sẽ thành
tựu trong thời gian bất định, hoặc có thể giữa kết quả và nguyên
nhân không hoàn toàn thống nhất với nhau, thì được gọi là bất
định nghiệp.
- 3)- Phân
loại 3 (theo thời gian): Nếu căn cứ theo thời gian, chúng ta
nhận ra hai loại nghiệp, một đã chín muồi và một đang và sẽ diễn
tiến trong dòng nghiệp tạo tác:
- a- Nghiệp cũ:
Là nghiệp đã được tích lũy từ nhiều đời sống quá khứ, và hiện
tại nó đã chín muồi. Chẳng hạn thân thể của ta (cao, thấp, mập,
ốm, thông minh, ngu đần, hạnh phúc hay bất hạnh v.v...) ngày nay
là do cái nghiệp đã gieo từ trong vô thủy. Các nghiệp quả (y báo
và chánh báo) của thân này là quả dị thục của các nghiệp nhân từ
vô thủy. Ngoài thân này, không hề có một cái nghiệp riêng lẻ, cũ
xưa nào khác.
- b- Nghiệp
mới: Nếu như thân thể này là nghiệp cũ thì mọi tạo tác đang làm
và sẽ làm của chính thân thể này là nghiệp mới. Ví dụ, sự thành
đạt của ta ngày hôm nay là do các tạo tác trước đó. Và sự thành
đạt của ngày mai như thế nào sẽ tùy thuộc vào tư duy và hành
động của ngày hôm nay. Kinh Tương Ưng IV, Ðức Phật dạy: "Mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân và ý là nghiệp cũ. Các hành động của mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân và ý trong hiện tại là nghiệp mới".
- Trong
Truyện Kiều, thi hào Nguyễn Du đã chỉ rõ cái nghiệp cũ và
mới của con người:
- "Sư rằng phúc họa đạo trời
Cội nguồn cũng ở lòng người mà ra
Có trời mà cũng có ta
Tu là cội phúc, tình là dây oan"
- Họa và phúc
(thiện, ác) là đạo trời, nhưng cái đạo trời ấy cội nguồn của nó
chính ở tại lòng người (tâm, ý) mà sinh ra. Và trời ở đây là
nghiệp cũ, còn ta chính là nghiệp mới.
- 4)-
Phân loại 4 (theo tính chất): Như đã trình bày, nghiệp báo
là sự chín muồi (quả dị thục) của các nghiệp thuộc về bất thiện.
Do đó, khi nói đến nghiệp báo (nghiệp quả) là nói đến tiến trình
nhân - quả của nghiệp. Theo giáo lý về nghiệp, một nhân không
thể tạo thành một quả, mà phải có các duyên phụ trợ. Cho nên,
nói đủ phải nói là nhân - duyên - quả. Duyên là các nhân phụ làm
cho nhân chính thành quả; như nước, phân, đất, sự cần mẫn chăm
bón của con người (là các duyên) làm cho hạt giống thành tựu nẩy
nở. Vì thế, khi tìm hiểu về quả dị thục (sự chín muồi) của
nghiệp, ta phải tìm hiểu về 3 đặc tính sau:
- a- Dị thời
nhi thục: Thời gian chín muồi của nghiệp quả khác với thời gian
tạo nghiệp (nghiệp nhân). Ví dụ như trái xoài, thời điểm khi
sinh ra cho tới khi nó chín muồi là khác nhau (khác thời mà
chín).
- b- Dị loại
nhi thục: Kết quả bị biến chất (dị loại) so với thời gian mới
tạo nghiệp. Ví dụ, trái xoài khi nhỏ thì chua, nhưng khi chín
thì ngọt (biến chất rồi mới chín).
- c- Biến dị
nhi thục: Kết quả bị biến thái và biến tướng (biến dị) so với
thời gian mới tạo nghiệp. Ví dụ trái xoài non thì màu xanh, đến
khi chín thì màu vàng.
- 5)-
Phân loại 5 (theo năng lực): Năng lực của nghiệp được hình
thành theo từng loại nghiệp khác nhau trong một tiến trình tâm
lý rồi đưa đến sự hình thành các đặc tính của nghiệp.
- a- Tập quán
nghiệp: Là nghiệp được huân tập bởi một thói quen trong đời sống
hàng ngày. Có thể đó là thói quen thuộc tâm lý, hành vi, cách
ứng xử v.v... Ví dụ, hút thuốc lá là một tập quán nghiệp.
- b- Tích lũy
nghiệp: Là các nghiệp được tích lũy dần như rót nước vào thùng,
có thể xem thân của ta như là một tích lũy nghiệp từ vô thủy.
- c- Cực trọng
nghiệp: Là các nghiệp gây ấn tượng xấu ác cực mạnh và sâu trong
tâm lý của con người như phạm các tội ngũ nghịch (giết cha, mẹ
(giết người) v.v...).
- d- Cận tử
nghiệp: Là nghiệp lúc sắp chết hay những sức mạnh tâm lý của con
người trước lúc tắt thở. Nghiệp này cực kỳ hệ trọng trong việc
hướng dẫn nghiệp thức đi tái sinh. Những tư tưởng cuối cùng của
người sắp chết sẽ tạo nên một cận tử nghiệp (thiện hoặc bất
thiện). Một người có thể suốt đời làm ác, nhưng trước lúc tắt
thở, nỗ lực sinh khởi ý thức về thiện pháp, về những điều thiện
trong đời, và nhờ ý lực đó có thể tái sinh vào cõi tốt đẹp
(tương tự như vậy đối với trường hợp ngược lại). Từ đó, qua
những kinh nghiệm cận tử, chúng ta cần huân tập các thiện nghiệp
trong đời sống của mình để tạo thành một sức mạnh (ý lực) đoạn
trừ các ác nghiệp ngay trong đời sống hàng ngày và cả đến giờ
phút lâm chung.
- 6)-
Một số danh từ về nghiệp mà bạn cần biết:
- - Bạch nghiệp (nghiệp trắng): các
nghiệp thiện
- Hắc nghiệp (nghiệp đen): các nghiệp ác
- Phi hắc phi bạch nghiệp: các hành động duy tác (không thiện
không ác)
- Biệt nghiệp: nghiệp riêng của mỗi người
- Cộng nghiệp: nghiệp chung của tập thể (gia đình)
- Thánh nghiệp: nghiệp đưa đến thánh đạo
- Duy tác nghiệp: nghiệp không có sanh y (không có quả)
- Chướng nghiệp: nghiệp cản trở sự kết thành của quả
- Ðoạn nghiệp: nghiệp tiêu diệt các năng lực sanh nghiệp
-
IV- Thái độ tâm lý tiếp thọ nghiệp
- Ðây là một
vấn đề vô cùng quan trọng trong giáo lý nghiệp báo. Vì mỗi người
đều có cái nghiệp riêng do vô minh, ái thủ đã tạo nên, do đó
đương nhiên phải đối diện với quả báo của mình. Sự trốn tránh
nghiệp lực là điều vô ích. Cụ Nguyễn Du, trong Truyện Kiều,
đã nói rằng:
- "Ðã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài"
- Vì thế, vấn
đề quan trọng được đặt ra đối với người đang trên đường tu tập
không phải là nghiệp báo mà chính là thái độ tâm lý tiếp thọ
nghiệp. Kinh Nipata, Ðức Phật dạy rằng: "Người đã tiêu diệt ảo
kiến, phá tan lớp tối tăm dày đặc trong tâm sẽ không còn thênh
thang đi mãi. Ðối với người ấy, vấn đề nhân quả (nghiệp báo)
không còn nữa".
- Ðoạn kinh
trên cho ta thấy rằng tâm lý của người giải thoát sẽ hóa giải
mọi nghiệp lực của chính họ. Như một nhà sư vô cớ bị tù, ở trong
tù mà lòng thì vô cùng bình an, không hề dao động; nghĩa là nhà
sư ấy không còn bị nghiệp lực chi phối nữa. Chẳng hạn, cùng một
hành động xảy ra đối với hai người, nhưng thái độ thọ nhận hành
động (nghiệp) ấy của hai người thì hoàn toàn khác nhau như
trường hợp "nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột". Do đó, đối
với nghiệp, thái độ tâm lý của người tiếp thọ thì quan trọng hơn
là chính cái nghiệp ấy. Ngài Huyền Giác, trong Chứng đạo ca,
bảo rằng: "Sát na diệt khước A Tỳ nghiệp", có nghĩa là khi đã
giác ngộ thì mọi nghiệp chướng (nặng như A Tỳ) trong tích tắc
cũng đều băng tiêu. Vì lý do này, nên trong kinh thường nói đến
thọ nghiệp (chịu đựng nghiệp) và phi thọ nghiệp (không bị chi
phối bởi nghiệp).
-
C- Kết luận
- Ðức Phật dạy
rằng: "Không ai làm cho ta nhiễm ô, cũng không ai làm cho ta
trong sạch; trong sạch hay ô nhiễm là tự nơi ta, chỉ có ta làm
cho ta ô nhiễm, chỉ có ta làm cho ta trong sạch" (Dhp). Lời dạy
trên đã mở ra cho con người một hướng đi rất chủ động trong việc
tạo nên một đời sống an lạc giải thoát ngay tại cuộc đời này./.
- -oOo-
-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
- 1)- Nghiệp là gì?
- 2)- Có bao nhiêu loại
nghiệp cơ bản?
- 3)- Hãy trình bày cách
phân loại nghiệp.
- 4)- Hãy trình bày vai
trò của thái độ tâm lý tiếp thọ nghiệp.
|
--o0o--
|
|