-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Hai
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần I
- Bài 3
- Bốn Ðại, Sáu
Ðại, Mười hai Xứ, và Mười tám Giới
(Tứ đại, Lục đại, Thập nhị xứ và Thập bát giới)
- Thích Tâm Thiện
-
A- Dẫn nhập
- Các vấn đề liên quan đến con
người và sự hình thành con người, theo quan điểm của Phật giáo,
thường được bàn đến gồm: bốn Ðại, sáu Ðại, mười hai Xứ và mười
tám Giới. Trong quá trình tu tập, các vấn đề trên được Ðức Phật
phân tích cụ thể, nhằm xây dựng cho người tu tập một cái nhìn
chính xác về bản chất của thân năm Uẩn và thế giới sự vật hiện
tượng chung quanh con người. Do đó, phân tích về các Uẩn
(Skandha), Xứ (Ayatana) và Giới (Dhàtu) chính là phân tích về sự
hiện hữu của con người và thế giới. Ðấy cũng chính là thế giới
quan, nhân sinh quan Phật giáo. Mục đích của sự phân tích nội
quán này là cái nhìn giúp người học đạo thấy rõ sự thật
vô ngã của các pháp.
-
B- Nội dung
-
I- Ðịnh nghĩa: Bốn Ðại, sáu Ðại, mười
hai Xứ và mười tám Giới
-
1)- Bốn Ðại: Bốn Ðại (Caturmahàdhàtu) là bốn yếu tố
cơ bản hình thành nên thể chất (thân vật lý) của con người, bao
gồm: chất khoáng (Pathavi - đất), chất lỏng (€po - nước), nhiệt
độ (Tejo - sức nóng) và hơi khí (Vàyo - gió). Chúng ta thường
gọi một cách hình tượng về thân tứ đại là đất, nước, gió, lửa.
-
2)- Sáu Ðại: Sáu Ðại là sáu yếu tố cơ bản hình
thành nên con người toàn diện với ba thành tố đặc thù là: thể
chất vật lý (gồm bốn Ðại) cộng với ý thức (thuộc tâm lý) và
không gian.
-
3)- Mười hai Xứ: Mười hai Xứ là cơ sở giao tiếp
giữa con người với thế giới thực tại khách quan, bao gồm sáu nội
xứ (thuộc về tự thân) và sáu ngoại xứ (thuộc về ngoại cảnh). Sáu
nội xứ là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý thức. Sáu ngoại xứ là:
hình thể, âm thanh, hương khí, mùi vị, sự tiếp xúc và các sự vật
hiện tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
-
4)- Mười tám Giới: Mười tám Giới là cơ sở giao tiếp
toàn diện của con người với thế giới thực tại khách quan, bao
gồm: sáu nội xứ, sáu ngoại xứ và sáu tình thức của mắt, tai,
mũi, lưỡi, thân và ý (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức,
thân thức và ý thức).
-
II- Phân tích bốn Ðại qua thể chất vật
lý của con người
- Như được
trình bày ở phần định nghĩa, bốn Ðại là nói tóm tắt về cơ thể
con người. Bốn Ðại này do nhân duyên hợp thành, chúng không có
gì là bền chắc. Con người từ khi sinh ra được nuôi dưỡng bởi các
loại thức ăn (thực tố) và dưỡng khí, và tiếp tục sinh trưởng
theo thời gian. Trong suốt quá trình sống của một đời người,
thân thể vật lý này không ngừng thay đổi qua các chu kỳ sinh
thành, tồn tại, biến đổi và phân hủy (chết). Cái mà chúng ta gọi
là sự chết (sự ngưng hoạt động và phân hủy hay thọ mạng chấm
dứt), thực chất chỉ là sự tan rã của bốn Ðại).
- Cơ thể của
con người hình thành là do sự hội tụ của bốn Ðại. Trong bốn Ðại,
nếu tiếp tục phân tích, chúng ta sẽ có thêm bốn nhóm vật chất
như sau:
- 1.
Yếu tố đất: gồm có: tóc, lông, móng, răng, da,
thịt, gân, xương, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi,
ruột, phân, mỡ, não, ghèn.
- 2.
Yếu tố nước: gồm có: mật, đàm, niêm dịch, mủ, máu,
mồ hôi, nước mắt, nước miếng, nước mũi, nước khớp xương, nước
tiểu.
- 3.
Yếu tố gió: gồm có: hơi thở (sự hô hấp) và khí.
- 4.
Yếu tố lửa: gồm có: nhiệt độ hay sức nóng do sự vận
hành của cơ thể phát ra.
- Theo kinh Ðại
Bát Niết Bàn, cơ thể con người gồm có 36 thứ bất tịnh và được
chia thành ba nhóm:
- 1.
Nhóm một: gồm có 12 thứ ngoài thân: tóc, lông,
móng, răng, ghèn, nước mắt, nước mũi, nước miếng, phân, nước
tiểu và mồ hôi.
- 2.
Nhóm hai: gồm có 12 thứ trong thân: da, da non,
máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, lớp mỡ da, mỡ óc, màng bọc
gân, thịt.
- 3.
Nhóm ba: gồm có 12 thứ nằm sâu trong thân: gan,
mật, ruột, dạ dày, lá lách, thận, tim, phổi, bàng quang, mề
phân, đàm đỏ và đàm trắng.
- Mục đích của
sự phân tích cụ thể như trên là nhằm giúp chúng ta nhìn thấy rõ
ràng, chính xác về thân tướng bất tịnh của con người để hướng
tâm đến trạng thái xả ly, không chấp thủ (1).
-
III- Sáu Ðại và con người toàn diện
- Như đã trình
bày, sáu Ðại gồm có bốn Ðại (như trên) cộng với không gian và ý
thức. Do đó, con người (theo sáu Ðại) là con người hoàn chỉnh,
bao gồm cả tâm lý và vật lý. Riêng về phần tâm lý hay tâm thức
nói chung, đã được nói đến trong năm Uẩn. Theo đó, tâm thức của
con người bao gồm các phần chính là: cảm thọ, niệm tưởng, tư duy
và ý thức (thọ, tưởng, hành, thức), nói chung là cấu trúc và sự
vận hành của tâm lý.
- Do đó, sáu
Ðại thực ra chỉ là cách nói tóm tắt của năm Uẩn (sắc, thọ,
tưởng, hành, thức). Vì lẽ, đối với con người, cơ cấu tâm lý chỉ
có thể vận hành khi nó dựa vào sinh thân, tức là thân thể vật
lý. Nếu chỉ có tâm thức hiện hữu mà không có thân hiện hữu, hoặc
ngược lại, chỉ có thân hiện hữu mà không có tâm thức hiện hữu,
thì không thể gọi là con người.
- Tương tự như
thế đối với khái niệm tâm thức. Ở đây, nên hiểu rằng, tâm không
đơn giản chỉ là tâm, mà trong tâm luôn luôn hàm chứa hoạt động
của các cảm thọ, các ảnh tượng của tri giác, các hình thức tư
duy và các hoạt động của tâm thức nói chung.
- Nên nhớ rằng,
mọi khái niệm phân biệt trong tâm thức của chúng ta như: tài
sản, nhà cửa, sông suối, núi đồi v.v... cho đến các khái niệm
như: tư duy, ý thức, tình cảm, lý trí, tưởng tượng v.v..., tất
cả đều là biểu hiện của tâm. Và đây là lý do tại sao Ðức Phật
dạy "Nhất thiết duy tâm" (tất cả đều là sự tạo tác của tâm).
- Như thế, sáu
Ðại và năm Uẩn dù khác nhau trên mặt ngôn ngữ, nhưng chúng giống
nhau về mặt ý nghĩa. Tuy nhiên sẽ rất giới hạn nếu chúng ta dừng
lại ở đây. Do đó những gì cần được khảo sát tiếp theo, chính là
mười hai Xứ và mười tám Giới.
-
IV- Mười hai Xứ và mười tám Giới
- Ðể hiểu rõ cơ
cấu của tâm thức, cũng như sự vận hành của nó, chúng ta cần
thiết tìm hiểu về 12 Xứ và 18 Giới.
- Mười hai Xứ,
như đã trình bày, là cơ sở giao tiếp cơ bản để hình thành những
nhận thức, phân biệt của con người. Ðó là sự giao thoa, tương
tác giữa sáu nội Xứ (hay còn gọi là sáu căn -
Ajjhattika-àyatana) với sáu ngoại Xứ (còn gọi là sáu trần -
Bàhyu-àyatana). Căn là thân thể, mạng căn, tức là thể chất vật
lý của con người. Trần là trần cảnh, hay còn gọi là thế giới sự
vật hiện tượng. Sáu căn thuộc về chủ thể, sáu trần thuộc về đối
tượng. Do chủ thể giao tiếp với đối tượng mà hình thành nên
những nhận thức, phân biệt, như sông, suối, núi, đồi, đàn ông,
đàn bà, con chim, hòn đá, giọt sương...
- Chúng ta có
sáu căn và sáu trần. Sáu căn là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý;
sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
- - Sắc: gồm có
màu sắc, hình thể, vật thể, hiện tượng, sự vật. Sắc còn được
chia thành hai phần đó là: biểu sắc (hình tượng, sự vật...), vô
biểu sắc (năng lượng vô hình..., năng lượng tâm thức [mental
energy] cũng được xem là một loại sắc).
- - Thanh: gồm
tiếng nói, tiếng động, âm thanh, âm nhạc...
- - Hương:
hương khí, hương thơm...
- - Vị: mùi vị
như chua, chát, cay, ngọt, mặn, đắng, the, lờ lợ...
- - Xúc: sự
giao thoa giữa căn và trần, giữa vật này với vật khác...
- - Pháp: tất
cả thế giới sự vật hiện tượng tâm lý và vật lý nói chung..
- Khi sáu căn
tiếp xúc với sáu trần, thì liền phát sinh những nhận thức, phân
biệt. Do đó, có sáu loại phân biệt của thức (sự nhận biết) gồm:
sự thấy biết của mắt, sự nghe biết của tai, sự ngửi biết của
mũi, sự nếm biết của lưỡi, sự tri giác của toàn thân và sự hiểu
biết của ý thức.
- Như thế, từ
sáu căn tiếp xúc với sáu trần để hình thành sáu thức (Vijnàna)
và cộng chung lại là mười tám Giới. Ðây là tiến trình nhận thức
luận về thế giới quan và nhân sinh quan Phật giáo (2).
-
V- Mối quan hệ giữa 12 Nhân duyên, 5
Uẩn, 4 Ðại và 6 Ðại, 12 Xứ và 18 Giới
- Trong giáo lý
về 12 Nhân duyên có đề cập đến chi phần Lục nhập, và trong giáo
lý 5 Uẩn có đề cập đến hai chi phần: vật lý (sắc) và tâm lý
(thọ, tưởng, hành, thức); trong 4 Ðại và 6 Ðại cũng đề cập đến
hai chi phần: vật lý và tâm lý; đặc biệt trong 12 Xứ và 18 Giới
lại nhấn mạnh đến sự giao thoa, tiếp xúc giữa sáu căn và sáu
trần. Sự giao thoa và tiếp xúc này chính là chi phần Xúc
(Phassa) - đứng hàng thứ sáu trong giáo lý 12 Nhân duyên. Như
thế, chúng ta có một bảng tương đương như sau:
- (Lục nhập
= 5 Uẩn + Xúc) # 6 Ðại + (4 Ðại) = 12 Xứ + (18 Giới)
- 5 Uẩn =
Xúc + 12 Xứ # (18 Giới = Xúc + 6 Ðại)
- Từ những chi
tiết này cho thấy rằng, cái thế giới sự vật hiện tượng với muôn
ngàn khác biệt mà chúng ta nhận biết thì không gì khác / ngoài
sự phân biệt của tri giác. Và yếu tố hình thành nên tri giác của
con người chính là sự tiếp xúc giữa các căn thân và trần cảnh,
hay nói khác hơn là giữa chủ thể nhận thức (ví dụ - con mắt) và
đối tượng được nhận thức (ví dụ - đám mây).
- Mặc dù trên
nền trời xanh bao la không giới tuyến chỉ có một đám mây, nhưng
đứng ở góc độ này thì đám mây trông giống cô gái; đứng ở góc độ
khác thì đám mây trông giống con cọp v.v..., cứ như thế mà đám
mây được xuất hiện với nhiều hình thức khác nhau, tùy theo điểm
nhìn và chủ thể nhìn. Nên lưu ý rằng, trước mắt chúng ta chỉ có
một đối tượng, nhưng do mỗi người có một duyên phận khác nhau và
trình độ nhận thức khác nhau, và do đó, đối tượng bị nhìn cũng
được tri nhận và đánh giá khác nhau. Ðấy chính là thế giới sai
biệt đa thù của nhận thức. Và sự sai biệt đó hoàn toàn tùy thuộc
vào yếu tố Xúc (tiếp xúc) ở mỗi con người khác nhau.
- Có một điều
tối quan trọng cần lưu ý rằng, để có một nhận thức, bao giờ cũng
phải có một chủ thể nhận thức và một đối tượng được nhận thức
xuất hiện trong tương quan. Và như thế, suy cho cùng, cái mà
chúng ta gọi là thế giới quan, hay nhân sinh quan, hay vũ trụ
quan đó, thực ra không gì khác hơn là sự sinh khởi ý niệm của
Thức trong tiến trình giao tiếp giữa căn và trần. Và điều này,
trong kinh Lăng Già, Ðức Phật dạy: "Cái đa tính của đối tượng
sinh khởi từ sự nối kết giữa tập khí và phân biệt; nó sinh ra từ
tâm, nhưng người ta lại thấy nó hiện hữu bên ngoài; cái đa tính
ấy [ta gọi] (3) là Duy tâm".
- "(Và) thế
giới bên ngoài là không có, nên cái đa tính của các đối tượng là
cái được thấy từ Tâm; thân thể, tài sản, nhà cửa..., những thứ
ấy ta gọi là Duy tâm (4)".
- Từ những
trưng dẫn trên, chúng ta biết rằng, tri giác của con người rất
giới hạn, và mọi sự đo lường phân biệt, nhận thức của con người
đối với thế giới cũng rất giới hạn. Giới hạn ở chỗ sự hiểu biết
của chúng ta là do cái thấy từ một tâm thức còn vô minh, thấy
bằng tri giác phân biệt của tự ngã chứ không phải là thấy từ một
tâm thức toàn tri (giác ngộ). Do đó, cái mà chúng ta cho là
thường thì bản chất của nó là vô thường, như dòng sông không
ngừng trôi chảy. Bản chất của ý thức phân biệt và vô minh là như
thế. Nó luôn luôn biến động, vô thường.
- Con người khổ
đau chỉ vì lầm chấp vào ý thức phân biệt của mình, cho rằng cái
này là tôi, cái này là của tôi, cái này là tự ngã của tôi, rồi
cố gượng sống và bám víu vào những suy nghĩ như thế nên chìm đắm
trong sinh tử trầm luân, vậy thôi.
-
C- Kết luận
- Nói tóm lại,
giáo lý về các Ðại, Uẩn, Xứ, Giới là những phần giáo lý rất cơ
bản và quan trọng, giúp chúng ta có một cái nhìn chính xác về
cuộc sống vô thường, khổ và vô ngã. Bao lâu con người chưa biết
Uẩn, Xứ, Giới là gì, thì vẫn không thể biết được thế nào là con
đường thoát ly sinh tử. Các Uẩn, Xứ, Giới là đề mục của pháp
hiện quán - thiền định, do vậy, con đường tu tập bao giờ cũng
được khởi đầu từ các Uẩn, Xứ, Giới; đấy chính là tu tập Chánh
tri kiến./.
-
* Sách tham khảo:
- Ðề nghị học
viên tìm đọc cuốn Tâm lý học Phật giáo của tác giả Thích
Tâm Thiện, do Nxb TP Hồ Chí Minh ấn hành, 1998.
- Phần đọc:
Phần II, chương I; phần III, chương II và phần IV, chương I &
II.
-
* Chú thích:
- (1) Học viên
xem thêm các kinh có đề cập đến bốn Ðại và sáu Ðại như: kinh
Phân biệt sáu giới (M.140) = kinh Phân biệt lục giới (Trung A
Hàm 42+7 - kinh Ðại Câu Hy La).
- (2) Xem
Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo, Thích Tâm Thiện, Nxb TP
Hồ Chí Minh, 1998.
- (3) Ðể trong
ngoặc [ ] là phụ chú của tác giả
- (4) Lăng Già
Ðại thừa kinh, bản dịch của Thích Chơn Thiện và Trần Tuấn Mẫn,
Nxb TP Hồ Chí Minh, 1998, tr.305.
- -oOo-
-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
- 1- Bốn Ðại là gì?
- 2- Trình bày mối quan hệ
giữa 6 Ðại và 18 Giới.
- 3- Uẩn, Xứ và Giới khác
nhau như thế nào?
|
--o0o--
|
|