-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Hai
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần I
- Bài đọc thêm
- Tôn giáo và
giá trị thực tại
- Thích Tâm Thiện
-
I- Phật giáo và khái niệm tôn giáo
- Ði vào quy
ngưỡng một đời sống tôn giáo, trước hết, con người cần phải biết
tôn giáo là gì và tôn giáo ấy như thế nào. Nếu không thấy được
điều đó, thì sự quy ngưỡng sẽ trở nên một lưu lộ của sương mù ảo
ảnh. Cố nhiên, ở đây sẽ không có bất kỳ một giá trị tâm chứng
nào được bàn đến.
- Từ xưa đến
nay, các nhà tư tưởng triết học tôn giáo thường nỗ lực tạo ra
một định nghĩa về tôn giáo, song, đối với Phật giáo, các định
nghĩa ấy chưa hề tạo nên một chân dung hoàn thiện nào. Ở đây,
tôi xin dẫn một vài định nghĩa như sau:
- - Từ điển
Oxford ghi rằng: "Tôn giáo là hệ thống của niềm tin và sự tôn
thờ, là sự trực nhận của con người về năng lực chế ngự siêu
nhiên, đặc biệt là về một ngôi vị Thượng đế có quyền uy được
tuân phục, là kết quả của sự trực nhận như thế trong cách ứng
xử, v.v... (System of faith and worship; human recognition of
super human controlling power and especially of a personal God
entitled to obedience, effect of such recognition on conduct
etc...).
- - Carlyle thì
cho rằng: "Tôn giáo là điều mà con người thực sự tin tưởng, thực
sự ghi khắc trong lòng và hiểu biết chắc chắn, có liên quan đến
các mối tương hệ sống còn của con người và vũ trụ u huyền này,
cũng như bổn phận và định mệnh của con người trong vũ trụ"
(The thing a man does practically to heart and knows for
certain, concerning his vital relations to this mysterious
universe and his duty and destiny therein).
- - J.S.Mill
thì bảo rằng: "Yếu tính của tôn giáo là sự hướng dẫn một cách
mạnh mẽ và nhiệt thành những cảm xúc và ước vọng hướng đến một
đối tượng lý tưởng được xem là tuyệt hảo, là đỉnh cao tột cùng
để vượt qua mọi đối tượng ích kỷ của dục vọng" (The essence
of religion is the strong and earnest direction of the condions
and desires towards an ideal object recognized as of the highest
excellence, and as rightly paramount over all selfish objects of
desire).
- - Aldous
Huxley thì cho rằng: "Tôn giáo là một hệ thống giáo dục mà qua
đó, con người có thể tự rèn luyện, trước hết là để tạo ra những
thay đổi cần thiết trong bản thân con người và xã hội, rồi sau
đó, để nâng cao ý thức nhằm kiến tạo những quan hệ thích đáng
hơn giữa họ và vũ trụ mà họ là một thành phần" (Religion is,
among many other things, a system of education, by means of
which human beings may train themselves, first to make desirable
changes in their own personalities and, at one remove, in
society, and in the second place, to heighten consciousness and
to establish more adequate relations between themselves and the
universe of which they are parts).
- Nói chung, từ
những định nghĩa trên, tôn giáo có thể được phân làm hai khuynh
hướng: Thứ nhất, xu hướng định nghĩa tôn giáo như là một hệ
thống luân lý đạo đức mà qua đó, bằng lý trí, con người có thể
trực nhận được. Thứ hai, xu hướng quan niệm tôn giáo theo một
thể cách nhiệm mầu, mà ở đây đòi hỏi một sự cảm nhận và suy
tưởng. Bên cạnh đó, còn có những quan niệm thuần lý về tôn giáo
như phát biểu của Thomas Paine, ông đã thốt lên trong giây phút
cuối cùng của cuộc đời rằng: "Thế giới là quê hương tôi, nhân
loại là anh em của tôi, và làm lành là tôn giáo của tôi" (The
world is my country, mankind are my brotherhood, and to do good
is my religion). Hay một số trường hợp, khi bàn luận về tôn
giáo và giá trị của nó, các triết gia Ấn hiện đại thường quan
niệm rằng, tôn giáo không phải là một chuỗi các học thuyết uyên
áo, mà là kinh nghiệm nội tại (inner experience), kinh nghiệm
này luôn luôn được đặt trên căn bản của sự trực nhận cái hiện
hữu thánh thiện (Presence of the divine) trong con người.
- Từ đây, có
một giao điểm giữa các tôn giáo Ðông phương và Tây phương hay
tôn giáo nhân loại nói chung, là đặc tính Thiện
(Loving-kindness) mà trên đây, Thomas Paine, một triết gia nhân
bản người Anh, một cách hùng hồn bảo rằng: "... Làm lành là tôn
giáo của tôi".
- Tuy nhiên,
cũng rất phức tạp nếu cho rằng tôn giáo là làm lành, vì như thế,
những ai làm lành đều có tôn giáo ư? Vả lại, quan niệm về làm
lành cũng không giống nhau giữa các quốc gia, dân tộc, sắc tộc,
bộ tộc. Ở đây, chỉ xin đơn cử một việc là vấn đề kế hoạch hóa
gia đình theo phương pháp y học hiện đại là thiện hay bất thiện,
điều đó ngày nay thế giới vẫn còn đang bàn cãi !
- Từ những tiền
đề trên, chúng tôi xin đi vào trình bày một khái niệm tôn giáo
theo tinh thần Phật giáo, nhằm góp phần soi sáng giá trị đích
thực của tôn giáo trong đời sống hiện đại.
- Phật giáo,
theo cách ngôn của Thiền sư D.T.Suzuki, là một tôn giáo khước từ
mọi định nghĩa khách quan, vì định nghĩa là đặt giới hạn cho sự
thăng hoa của nguồn mạch tâm thần (Rligion refuses to be
objectively defined, for this will be setting a limit to the
growth of its spirit). Ở đây, định nghĩa này hướng vào hai mục
tiêu: một là lý trí thuần lý, hai là kinh nghiệm nội tại.
- Về mặt lý trí
thuần lý, theo Phật giáo, ngôn ngữ và tư duy chỉ có khả năng
phân tích, quan sát trên bề mặt sinh thái của con người và vũ
trụ, nó là thể cách hoạt động thuộc hình nhi hạ (physique).
Trong khi đó, kinh nghiệm tâm linh là một cơ cấu thuyên thích
nội tại (implicit hermeneutical structure), tự nó vốn đã thoát
ly nhất nguyên (monisme), nhị nguyên (dualisme) và đa nguyên
(pluralisme), nó thoát ly ngôn ngữ hình thái vì nó vô tướng, nó
thuộc hình nhi thượng (métaphysique), tạm gọi là như vậy. Nói
như thế không có nghĩa là Phật giáo chủ trương dẫn dắt con người
đi vào một thế giới mông lung hương khói, mà chính là giúp con
người xé toang bức màn mông lung hương khói của logic tư duy hữu
ngã, đưa con người trở về cái bản thể thánh thiện ngay trong cái
cơ cấu nội tại (inner necessity) của chính con người. Từ đây,
nếu cần định nghĩa về Phật giáo thì sẽ định nghĩa như vầy:
- Suzuki tiếp:
"Ðịnh nghĩa của Phật giáo phải là nguồn sinh lực uyên nguyên của
chính nó thúc đẩy tới trước một dòng động mạch tâm linh, mang
tên là Phật giáo" (The definition of Buddhism must be that of
the life-force which carries forward a spiritual movement called
Buddhism). Tại đây, tôn giáo theo Phật giáo sẽ không được bàn
đến ở bất luận nơi nào thiếu vắng sinh thái tâm linh, hay là một
sự nội chứng tự thể (inner individual experience). Cố nhiên ở
đây ta không thể tìm được một phê bác nào cho rằng sự quay trở
về với bản thể uyên nguyên của mỗi người là quan điểm quy kỷ
(egocentric). Vì ngay từ đầu, khi cất bước quay trở về, tự thân
của mỗi cá thể, trước hết, phải rũ sạch mọi chấp trước về cái
tôi (I), cái của tôi (mine) và cái tự ngã của tôi (myself).
Nhưng cũng không vì vậy mà con đường ấy bị gọi là vô quy kỷ
(nonegocentric), vì ngay tại đó, Phật giáo thiết lập một cứu
cánh thực tại (ultimate reality) vốn bản nguyên, tự hữu và vĩnh
hằng: nó là Tathata - Như như, một thực tại hiện sinh
(existential), một nguồn sống tương tục của tri giác và thực
tại. Do vậy, Phật giáo không phải là tín ngưỡng suông hay quy
tắc thần khải do quyền lực thiêng liêng khai sáng và chỉ bảo,
hoặc lòng kinh sợ một cái gì u huyền mình không biết, mà Phật
giáo là giáo huấn đưa con người đi đến giác ngộ bằng con đường
thực nghiệm, nội chứng tự thân. Kinh Pháp Cú, Ðức Phật dạy: "Như
đất, người giữ tâm quân bình, có nếp sống kỷ cương, không còn
nghe xúc động. Người ấy như trụ đồng, như ao hồ phẳng lặng,
không bị bùn đất làm nhơ. Với người có tâm quân bình như thế,
cuộc đi lang thang bất định của đời sống không còn lặp lại nữa"
(Like earth, a balanced and well disciplined person recents
not. He is comparable to an indakhila. Like a pool unsullied by
mud, is he, to such a balanced one life’s wanderings do not
arise -- Dhp, 95.
-
II- Phật giáo - tôn giáo thời đại
- Nhà bác học
A.Einstein phát biểu rằng: "Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn
giáo toàn cầu, vượt lên mọi thần linh, giáo điều và thần học.
Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu
nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh
nghiệm tổng thể gồm mọi phương diện trên trong cái nhất thể đầy
ý nghĩa, và Phật giáo đáp ứng đủ các điều kiện ấy" (The
religion of the future will be a cosmic religion. It should
transcend a person God and avoid dogmas and theology. Covering
both the natural and the spiritual, it should be based on a
religion sence, arising from the experience of all things,
natural and spiritual, as a meaningful unity. Buddhism answers
this description - Einstein Testament).
- Trên cơ sở
của lời phát biểu này, tôi xin tập chú vào Phật giáo với những
tính cách như sau:
- 1)- Phật
giáo - một tôn giáo vượt lên mọi thần linh, giáo điều và thần
học.
- Suy cho cùng, Phật giáo là một
lối sống phản bổn hoàn nguyên, một lối sống quay trở về với
chính mình, rồi từ nơi tự thân nhận chân cái giá trị hiện hữu
của con người, cũng như hàng loạt hệ thống giá trị có liên quan
với con người, với thiên nhiên, như con chim, hòn đá, cành me...
Ðó chính là mối tương quan Duyên sinh (paticcasamuppàda) của
hiện hữu. Thông qua đó, con người thấy được mình, thấy được giá
trị hiện hữu của mình cũng như đồng loại và dị loại, mà trong đó
ý thức và hành động của con người cá thể tự nó quy định cho nó
một định mệnh. Ðức Phật dạy rằng: "Con người là chủ nhân của
nghiệp, là kẻ thừa tự của nghiệp; nghiệp là quyến thuộc, là nơi
nương tựa, nghiệp là thai tạng mà từ đó con người sinh ra"
(Owner of their karma are the beings, heirs of there karma, the
karma is their womb from which they are born, their karma is
their friend, their refuge...).
- Kinh Pháp Cú,
Ðức Phật cũng dạy rằng: "Không ai có thể làm cho ta trở nên
trong sạch, cũng không ai làm cho ta ô nhiễm; trong sạch hay ô
nhiễm là tự nơi ta, chính ta làm cho ta ô nhiễm, và cũng chính
ta làm cho ta trong sạch".
- Ở đây, Ðức
Phật không hề thừa nhận vô luận một năng lực quyền uy tối cao có
thể ngự trị cuộc sống của con người; chỉ có con người là kẻ duy
nhất tạo tác, gặt hái, và điều hành định mệnh của chính y.
- Giáo thuyết
tương quan nhân quả cũng nhấn mạnh rằng, thiện nghiệp hay ác
nghiệp đều là nhân quả chín muồi của tâm lý và hành động. Trong
mối tương quan nhân-quả, thông qua thiện ác, con người kiến tập
cho mình một định mệnh. Ðồng thời, con người cũng có khả năng
giải phóng y ra khỏi cái định mệnh thực hữu hiện tiền, mà trong
một quá khứ liên tiến xa xôi, y đã gieo trồng thông qua mọi hành
vi, cử chỉ, tâm lý, thái độ... của chính y. Như vậy, nhân-quả ở
đây, theo Phật giáo, không phải là mối tương quan cơ giới, mà là
một hệ thống tương quan nhân-quả sinh vật định hướng (orientated
biological causation). Do vậy, giáo thuyết nhân quả, trên góc độ
triết học, là một sức mạnh nội tại nhằm đánh thức con người và
trả con người về với chính nó, về với trách nhiệm và bổn phận
của chính tự thể, chủ thể tạo tác. Như thế, vô hình trung giáo
thuyết nhân quả đã dìu dắt con người đi ra khỏi vòng cương tỏa
của thần linh, giáo điều và thần học. Con người ý thức rằng, y
buộc phải gánh chịu mọi hậu quả do tâm lý và hành động tạo tác
của chính mình mà không cần trông đợi bất kỳ một sự cứu rỗi nào.
Thánh Phao-lồ nói rằng: "Nếu Chúa Ki-tô không thức dậy trong ông
thì lòng tin của ông hóa ra hư giả, và ông vẫn đắm chìm trong
tội lỗi" (If Christ be not raised, your faith is vain, ye are
yet in your sins).
-
2)- Phật giáo - một tôn giáo bao quát cả phương diện tự nhiên
lẫn siêu nhiên
- Với thế giới
tự nhiên, Phật giáo nhìn chúng qua đôi mắt Duyên sinh; với thế
giới siêu nhiên, Phật giáo đi vào bản thể - thoát ly hình tướng,
âm thanh, thoát ly các phạm trù đối lập (nondualism).
- Như vừa trình
bày, trước hết, Phật giáo nhìn nhận sự tồn tại và hiện hữu của
con người và thế giới như là sự hiện hành của tương duyên
(interconnecting # condition). Trong đó không hề có bất kỳ một
sinh thể nào tồn tại một cách độc lập mà không cùng tương hệ,
hòa điệu với các điều kiện cấu thành. Từ mối tương quan Duyên
sinh này, Ðức Phật dạy rằng, không thể tìm ra một nguyên động
lực nào làm chủ vòng luân chuyển của tiến trình sinh thái
(ecosystem) hay cấu trúc sinh thái (ecological structure) trong
sự hiện hữu của con người và thế giới. Ðây là nội dung của đạo
lý Duyên sinh vô ngã (paticcasamuppàda-anatta); bao gồm cả nhân
vô ngã (pudgalanairatmya); hay cũng gọi là Không (Sunyata). Trên
bình diện triết học, tính Không là cái cứu kính của thực tại bản
nguyên; tri giác về tính Không nghĩa là thể nhập thực tại tối
hậu. Nhưng cần ghi nhận rằng, Không ở đây không mang tính đối
lập giữa các phạm trù của Hữu và Vô, nó cũng không phải là sự
rỗng tuếch.
- Ðể rõ ràng
hơn, tôi xin trình bày khái lược một số "ý niệm" về tính Không
như vầy.
- Trước viễn
cảnh của thực tại (ontological), con người hằng tưởng rằng có
một "trú xứ vĩnh hằng" ở một thế giới xa xăm nào đó mà y luôn
ước vọng rằng sau khi hoàn tất cuộc đời trần thế, với một ân
sủng nào đó, y sẽ được trở về với nó. Ðây quả tình là một ý
tưởng mông lung, hão huyền !
- Nhưng khi
Phật giáo nói "Nhất thiết không", con người lại thường rơi vào
logic tư duy, mong soi sáng nó trong tương quan của những phạm
trù (category) hoặc bán phạm trù (sub-category) trong dòng đối
lập hữu ngã, hoặc hữu (abhava) hoặc vô (bhava) theo một khuôn
mẫu triết lý (philosophical # pattern), hoặc đồ giải (map-out)
theo những cắt nghĩa (interpretine concepts) thông tục. Vì thế,
y cứ luẩn quẩn trong hữu vô, sinh-diệt, thường-đoạn, khứ-lai, mà
không thể trực nhận cái thực tại bản nguyên (original reality)
vốn mang một giá trị bất biến và vĩnh hằng trong đời sống thực
tại này. Ðức Phật dạy rằng: "Tất cả hiện tượng (dharma) tự nó
không có tự tính (svabhava), không sinh khởi, không tận diệt,
vốn thanh tịnh và như như (tathata)".
- Ở đây, trên
cơ sở thực tại luận (ontological analysis) và giải thoát luận
(soteriological attainment), chúng ta sẽ khảo sát sơ lược về
tính Không theo quan điểm của triết học Duy thức hay tư tưởng
Ðại thừa nói chung.
- Trước hết,
tính Không được xem là Chân tính (true nature) của tất cả hiện
hữu (dharma). Do tri nhận về tính Không mà con người đạt đến sự
toàn tri (hay giác ngộ). Nói vạn hữu là Không, không phải là
cách ngôn phủ định thế giới thực hữu của sự vật hiện tượng (the
world of phenomena) mà nhằm minh giải rằng chủ thể nhận thức và
đối tượng được nhận thức đều được sinh khởi, tồn tại và hiện hữu
(becoming) trên cơ sở của hàng loạt giá trị nhân-duyên; vì thế,
chúng được gọi là không có thực thể (non-entity), không tự hữu
và độc lập. Theo tiến trình Duy thức, bất kỳ một hiện hữu nào
cũng được nhận diện qua tự tính, đó là:
- a. Tự tính giả lập
(Parikalpita-svabhava)
b. Tự tính tùy thuộc (Paratantra-svabhava)
c. Tự tính tuyệt đối (Parinispanna-svabhava)
- a/- Tự tính
giả lập: Rằng theo quan niệm tự nhiên (natural stance), chúng ta
thường xu hướng sở hữu hóa tự tính của sự vật, xem nó như một
sinh thể cá biệt (visera). Nhưng tự nó thực sự không có tự tính
cố hữu, mà thuộc tính của nó là vô tự tính (nihsvakhava), vô ngã
tính (anatta). Cho nên, cái tự tính mà con người áp đặt lên sự
vật hiện hành đó, gọi là tự tính giả lập. Nó là sự hình thành
của sự tiếp xúc giữa các giác quan (mang tâm lý của chủ thể) và
thế giới khách quan - thế giới sự vật hiện tượng (thuộc khách
thể - đối tượng) mà thuật ngữ gọi là các uẩn (skandhas), xứ
(ayatanas), và giới (dhatus).
- b/- Tự tính
tùy thuộc: Rằng các sự vật không thực có cái tự tính giả lập,
như thế không có nghĩa là sự vật không hiện hữu. Ở đây, vấn đề
nhằm giải minh cái tiến trình hiện hữu (process of becoming) của
sự vật, thực chất nó là hệ quả của tương duyên, nên đặc tính của
nó là vô thường, đoạn diệt. Quan điểm này vừa phê bác các học
thuyết quy nạp (reduction) thế giới hiện sinh vào một thực thể
đơn nhất và vừa không chấp nhận những luận thuyết "ngẫu nhiên",
theo đó, sự vật hình thành theo một thứ chủ nghĩa vật chất đơn
thuần. Vì vậy, nếu khước từ tự tính tùy thuộc này, tất yếu sẽ
rơi vào hư vô chủ nghĩa, nếu không muốn nói là phản bác chân lý
thực tại - đang là.
- c/- Tự tính
tuyệt đối: Rằng hiện hữu là Như như (Tathata), vì trong tự thể
của sự vật vốn không mang tự tính giả lập, và ngay cả cái tự
tính tùy thuộc thực chất là tự tính Không, hay là thực tính vô
tính. Như thế, rõ ràng trên bình diện ngôn ngữ và tư duy, cái mà
gọi là tự tính thì không bao giờ hiện hữu và thực hữu, nó là vô
ngã (anatta).
- Như vậy, sự
biện biệt về ba tự tính nhằm giải minh rằng tự tính giả lập soi
sáng sự vật vốn "Không"; rằng tự tính tùy thuộc soi sáng thế
giới và con người là "Duyên khởi"; rằng tự tính tuyệt đối minh
định bản thể "Như như" (mang đặc tính Niết bàn) vốn hiện hữu
ngay trong thế giới này, con người này mà không phải là một cõi
mênh mang, vô định nào khác. Do đó, thấu triệt và biện minh về
tính Không qua ba tự tính cốt là để thể nhập ba vô tính của hiện
hữu; đây là toàn thể tiến trình thể nhập thực tại và thành tựu
giải thoát của triết học Duy thức.
-
III- Phật giáo - một tôn giáo của đạo
lý tri thức và kinh nghiệm tổng thể
- Nói đến Phật
giáo là nói đến một đời sống đạo với phương châm: "Không làm các
việc ác, chỉ làm các việc lành, làm cho tâm ý trong sạch"
(Not to do evil,to do good, to purify one’s mind). Sự giác
ngộ của Ðức Phật là đoạn kết của một cuộc hành trình về tâm
linh, một cuộc hành trình đầy gian truân, vất vả. Nhưng chính
cái ý chí siêu phàm và nghị lực phi thường đã biến Thái tử
Siddhartha từ một con người (với ý thức đạo lý sâu sắc và kinh
nghiệm tổng thể về con người và cuộc đời) trở thành một vị Phật.
Như thế, Phật là một con người đã giác ngộ, một chúng sinh đã
đạt được tuệ giác bình đẳng vĩ đại. Từ đây, cần xác định rằng,
chính cái kinh nghiệm nội tại (inner experience) là yếu tố làm
thăng hoa Vô thượng Chánh giác tâm và "ngộ" là giây phút nở nụ
trưng bày Vô thượng Chánh giác tâm giữa lòng hiện hữu của muôn
loài. Ðức Phật dạy: "Tất cả chúng sinh đều có khả năng thành
Phật, trên lộ trình giác ngộ, các con hãy tự thắp đuốc lên mà
đi, trong đại dương luân hồi, các con là hải đảo của chính mình,
Như Lai chỉ là bậc Ðạo sư trên nguyên tắc".
- Trong con
đường tu tập, Phật giáo đặc biệt coi trọng ý thức đạo lý và cái
kinh nghiệm nội tại của tự thân con người. Vì rằng trong các
quan năng giao tiếp, ý thức được xem như là chủ nhân điều động
tư duy và tạo tác của con người, cho nên lộ trình tu tập bao giờ
cũng lấy ý thức làm cơ sở. Ðức Phật, trong kinh Pháp Cú, dạy
rằng: "Ý dẫn đầu các pháp, ý làm chủ tạo tác, đối với ý nhiễm ô,
nói lên hay hành động, khổ não bước theo sau, như xe chân vật
kéo... Ðối với ý thanh tịnh nói lên hay hành động an lạc, bước
theo sau, như bóng không rời hình". Từ đây, trong lối sống Phật
giáo, từ niềm tin cho đến sư quy ngưỡng ba ngôi Tam bảo, bao giờ
cũng đòi hỏi một sự ý thức đúng đắn hay là cái tâm thanh tịnh mà
thuật ngữ thường gọi là Ehi-pasiko, tức là "hãy đến và tri
nhận". Phật giáo không dạy con người tin và quy ngưỡng những gì
mình không biết.
- Mặt khác, đó
là cái kinh nghiệm cá thể hay sự tâm chứng nội tại cũng được hàm
chứa trong thuật ngữ Ehi-pasiko. Về đời sống đạo, yếu tố con
người là chính mà không phải là đối tượng tôn thờ. Vì đạo vốn ở
thực tại và đời sống thực tại. Tuy nhiên, Phật giáo không phủ
nhận các phương tiện để đưa con người vào đạo, đó chính là nội
dung của câu nói:
- "Mượn chỉ đưa diều lên khỏi gió
Buông thuyền lúc khách đã sang sông"
- Như vậy,
người Phật tử đúng nghĩa phải xây dựng cho mình một đời sống ý
thức đạo lý và một kinh nghiệm nội chứng. Kết hợp hai yếu tố này
nghĩa là gặt hái được một giá trị chân lý vĩnh hằng - hay giá
trị tâm linh. Tất nhiên ở đây đòi hỏi một sự toàn tri vượt lên
mọi huyễn hoặc và rũ sạch mọi cảm nhiễm của cuộc đời trần thế
này. Ở đó, bấy giờ là một dòng động mạch tâm linh tuôn trào bất
tận vào cuộc đời với hào quang sáng chói, mà không hề chối từ
bất kỳ một sự phủ dẫm nào, cũng như không bị ngăn che bởi bất
luận một chướng ngại nào. Trên bước đường vươn đến sự hoàn thiện
cao nhất trong đời sống đạo, mỗi bước thăng hoa là một lần ý
thức tự ngã được buông thả, cho đến khi nào con người thực sự
sống trọn với trạng thái không bản ngã - lúc ấy, Niết bàn chân
thực hiển lộ ngay tại con người này và ngay tại cuộc đời.
- Ðể kết thúc,
tôi xin dẫn lời phát biểu của Hòa thượng Thích Thiện Siêu như
sau: "Niết bàn là một cái gì tuyệt đối không dung ngã. Niết bàn
không có hạn lượng, không có nơi chốn, vì Niết bàn vô tướng - vô
tướng nên khó vào. Muốn vào Niết bàn, ta cũng phải vô tướng như
Niết bàn. Cửa Niết bàn rất hẹp, chỉ bằng tơ tóc, nên ta không
thể mang thêm một hành lý nào mà hy vọng vào Niết bàn được cả.
Cái thân đã không mang theo được, mà cả ý niệm về tôi, về ta
cũng không thể mang theo được. Cái ta càng to thì càng xa Niết
bàn. Nên biết rằng: hễ hữu ngã là luân hồi, mà vô ngã là Niết
bàn."./.
--o0o--
|
|