-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Hai
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần
II - Bài đọc thêm
- Bàn về chủ
thuyết các bộ phái
- Minh Chi
- Ở đây, chỉ
trình bày chủ thuyết của những bộ phái quan trọng nhất (*) :
-
1. Sthaviravadins hay là Theravadins
(Thượng tọa bộ).
- Giáo lý
nguyên thủy của Ðức Phật, được ghi bằng tiếng Pàli, thuộc về bộ
phái Theravada (Thượng tọa bộ) có thể được gọi là bộ phái chính
thống nhất của Phật giáo. Bộ phái này thừa nhận Thích Ca là một
nhân vật lịch sử, một con người, với những hạn chế nhất định của
con người, tuy vẫn có một số quyền năng siêu nhiên. Kinh Phật kể
rằng có lúc Phật Thích Ca tỏ ra khó chịu trước một số Tỷ kheo
làm ồn ào, mà Phật quở trách là mất trật tự như hàng cá ngoài
chợ. Ðôi khi Phật nói Phật già và đau lưng.
- Theo bộ phái
Thượng tọa bộ, giáo lý của Phật khá giản dị: trừ bỏ mọi điều ác,
làm mọi điều lành và làm trong sạch tâm ý mình, nhờ học và hành
ba môn giới, định, tuệ. Giới hay giới hạnh là nền tảng của mọi
tiến bộ ở thế gian. Một Phật tử tại gia phải tránh không giết
hại, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không say
rượu. Nếu là xuất gia thì phải từ bỏ hẳn dâm dục, theo đúng bốn
giới còn lại của người tại gia, ngoài ra còn giữ thêm một số
giới như: không dùng vòng hoa và phấn son để trang sức mình,
tránh ngồi, nằm ở giường cao, rộng, êm, không được dùng vàng
bạc, không được dự các buổi hòa nhạc, diễn kịch, vũ hội, không
được ăn quá trưa.
- Mục đích của
tu tập Thiền định là đạt tới một tình trạng tâm lý hoàn toàn cân
bằng, nhờ đó mà có thể nhận thức được sự vật với thái độ khách
quan, đúng đắn, như chúng tồn tại như thật. Nhờ tu tuệ mà có
được nhận thức sâu sắc về bốn chân lý thánh, về luật duyên khởi
giải thích sự diễn biến của luân hồi sanh tử từ kiếp sống này
sang kiếp sống khác.
- Mọi hiện
tượng của đời sống đều có ba đặc điểm là vô thường, khổ, vô ngã,
nghĩa là không có gì chân thực, vĩnh cửu, không có thực thể. Mỗi
chúng sanh kể cả con người chỉ là một tổng hợp của hai nhóm yếu
tố danh (tinh thần) và sắc (vật chất), nếu phân tích chi ly hơn,
thì thành năm uẩn (Skkandas) tức là sắc uẩn, là nhóm yếu tố vật
chất; thọ uẩn, nhóm cảm thọ; tưởng uẩn, nhóm ghi nhớ và tưởng
tượng; hành uẩn, nhóm dụng tâm và tác ý; thức uẩn, nhóm phân
biệt. Bốn thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn bao gồm mọi
yếu tố tinh thần trong con người. Nếu kể cả sáu trần, ngoại cảnh
thì có 12 xứ: sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và sáu ngoại
và nội trần tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Và nếu thêm
sáu thức nữa: nhãn thức (sự phân biệt của mắt), nhĩ thức, tỷ
thức, thiệt thức, thân thức, ý thức thì chúng ta có 18 giới
(dhatua).
- Năm uẩn, 12
xứ, 18 giới đó chính là tất cả thế giới của loài hữu tình. Có
thể nói Thượng tọa bộ có một quan điểm đa nguyên về cấu trúc của
loài hữu tình và thế giới.
- Với các bộ
phái khác, con số 18 giới còn tăng thêm nhiều nữa. Ðến cuộc đại
hội kiết tập lần thứ ba ở Pataliputra, bộ phái này được gọi là
vibhajyavada (phân tích bộ, cũng gọi là phân biệt thuyết bộ).
- Trong bộ luận
Abhidhammattha-sangica, mà soạn giả là Anuruda-hacarya, sống vào
thế kỷ 8-12 TL, toàn thể các pháp được phân làm 4 loại: Tâm
pháp, tâm sở pháp, sắc pháp và niết bàn. Ðó là bộ Luận tổng hợp
nhất và mới nhất của bộ phái này. Tâm pháp được tác giả phân
tích thành 89 loại, tâm sở pháp thành 52 loại, sắc pháp thành 28
loại. Niết bàn là trạng thái hỷ lạc tuyệt đối không thể mô tả.
- Khi một người
hiểu được thực chấẽt của mọi sự vật và hiện tượng thế gian, thì
anh ta rời bỏ cuộc sống thế tục, sống theo nếp sống Bát chánh
đạo: Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp,
Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định. Khi anh ta
đạt được tới tâm trạng hoàn toàn thanh tịnh, mọi tham sân, si
đều trừ diệt đến gốc rễ thì trở thành A La Hán. Quả A La Hán là
lý tưởng của bộ phái này, khi cuộc sống Thánh đã được thành tựu,
mọi việc cần làm đã được làm, đời sống này là đời cuối cùng,
vĩnh viễn sẽ không còn phải tái sanh nữa.
-
2. Bộ phái Mahisasakas (Hóa địa bộ)
- Về nguồn gốc
của bộ phái này, có sự tranh cãi: Trong khi các tư liệu Pàli cho
rằng, bộ phái này cùng với bộ phái Vatsiputriyas (Ðộc tử bộ)
tách khỏi Thượng tọa bộ sau đó lại sản sinh ra Nhất thiết hữu
bộ. Còn Vasumitra thì cho rằng, chính bộ phái Mahisasakas tách
khỏi hữu bộ.
- Người ta cho
rằng có hai nhóm Mahisasakas hoạt động trong hai thời điểm khác
nhau. Thuộc nhóm này, đầu tiên có thể là Purana, là vị A la hán
không tán thành những quyết định của cuộc Ðại hội kiết tập lần
thứ nhất ở Vương Xá.
- Cũng như
Thượng tọa bộ, bộ phái Mahisasakas tin rằng đã tu đến quả vị A
la hán, thì không có thối chuyển. Nhưng mới đến quả Dự lưu thì
có thể thối chuyển (arotapannas), chư thiên hay quỷ thần đều
không thể sống cuộc sống Thánh, và ngoại đạo không thể chứng
thần thông. Không có trung ấm thân giữa kiếp sống này và kiếp
sống khác. Phật Ðà bao gồm cả trong Tăng già cho nên cúng dường
Tăng bảo sẽ được nhiều công đức hơn là cúng dường riêng cho Ðức
Phật. Trong tám mục của Bát thánh đạo, thì ba mục chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, không được xem là những mục thực có,
bởi lẽ chúng không phải là những hoạt động tâm thức.
- Ðiều hứng thú
là những người theo bộ phái Mahisasakas về sau lại có những quan
điểm trái ngược với những người theo bộ phái đó trước đây. Những
người theo bộ phái này, về sau đồng ý với Hữu bộ cho rằng quá
khứ, hiện tại và vị lai đều tồn tại, tin rằng có trung ấm thân,
cho rằng các uẩn, xứ, giới đều luôn luôn tồn tại dưới hình thức
chủng tử.
- 3. Bộ
phái Sarvastivada (Nhất thiết hữu bộ)
(cũng gọi là "Thuyết nhất thiết hữu bộ")
- Trong những
bộ phái Phật giáo dùng chữ Sanskrit, thì bộ phái Sarvastivada tỏ
ra gần gũi nhất với Thượng tọa bộ. Sau khi Thượng tọa bộ suy
thoái, thì Hữu bộ đứng ở hàng đầu chống lại mọi mũi tiến công
của Phật giáo Ðại thừa. Luận sư Vasubandhu (Thế Thân) là đại
biểu xuất sắc của bộ phái này trước khi ông được người anh là
Asanga (Vô Trước) giác ngộ theo Ðại thừa.
- Bộ phái này
thịnh hành ở Ấn Ðộ tại tỉnh Penjeb và ở các tỉnh biên giới phía
Bắc (nay thuộc Pakistan). Hoàng đế Kaniskha là thí chủ lớn của
bộ phái này (thế kỷ 1 TL). Chính dưới triều vua Kaniskha, đã
diễn ra cuộc đại hội kiết tập kinh điển nổi tiếng trong lịch sử
Phật giáo. Người ta kể rằng, trong cuộc đại hội này, ba tạng
Kinh, Luật, Luận đã được sắp xếp và khắc trên bản đồng cất giấu
trong một bảo tháp. Nhưng đến nay người ta vẫn chưa tìm ra được
những bản đồng này.
- Niềm tin tất
cả mọi sự vật, mọi pháp đều tồn tại - sarvamsati, có nguồn gốc
từ trong kinh tạng Pàli Samuytha Nikaya - Tương ưng bộ kinh
(Sabbham atthi) là nguồn gốc của tên gọi bộ phái: Nhất thiết hữu
nghĩa là tất cả đều tồn tại. Hữu bộ chủ trương thực tại luận
cũng như Thượng tọa bộ vậy. Họ tin rằng, không những pháp hiện
tại là có thực mà cả pháp quá khứ và vị lai đều có thực. Cũng
như Ðộc tử bộ, (Vatsiputriyas) và Chánh lượng bộ (Sammityas),
Hữu bộ cũng chống lại vị trí tuyệt đối của A la hán. Họ nói A la
hán cũng có thể thối chuyển, nhưng thực là đáng ngạc nhiên, họ
lại cho rằng những người mới chứng quả Tu đà hoàn (Dự lưu) lại
không thối chuyển. Họ không tán thành quan điểm của Ðại chúng
bộ, cho rằng Phật và Bồ tát có những quyền năng siêu nhiên. Họ
tin có trung ấm thân. Họ tin rằng các vị Bồ tát cũng chỉ là
những người bình thường, và ngay các bậc A la hán cũng không
thoát khỏi hậu quả của những nghiệp nhân quá khứ. Và A la hán
vẫn còn phải học thêm nữa.
- Trong con
người, họ không tin là có một thực thể hay ngã nào tồn tại.
Nhưng họ lại tin các pháp là có thực. Họ tin ở thế giới, một vũ
trụ đa nguyên. Họ phân biệt có 75 pháp, trong số này, 72 là pháp
hữu vi, có sanh diệt, do nhân duyên sanh và ba pháp vô vi, không
sanh diệt, không do nhân duyên sanh. Ba pháp vô vi là hư không
Akasa, trạch diệt (đoạn diệt nhờ có trí tuệ phân biệt), và phi
trạch diệt, nghĩa là đoạn diệt do quá trình tự nhiên, hay là do
thiếu nhân duyên. 72 pháp hữu vi phân thành bốn nhóm: sắc pháp
gồm 11 loại, tâm pháp, 46 tâm sở pháp và 14 pháp gọi là bất
tương ưng hành pháp. Loại pháp này mang tên như vậy, vì chúng
tuy không thuộc tâm pháp hay là sắc pháp, nhưng chúng không thể
hoạt động được nếu không có tâm pháp hay là sắc pháp làm nền
tảng, làm nơi nương tựa.
- Bộ phái
Sarvastivadas còn có tên gọi Hetuvada: nhân duyên bộ.
-
4. Bộ phái Haimavata (Tuyết sơn bộ)
- Qua tên gọi,
có thể biết địa bàn hoạt động của bộ phái này đầu tiên ở vùng
núi Tuyết Sơn (Himalayas). Vasumitra cho rằng, Tuyết Sơn bộ là
một bộ phái nhánh tách ra từ Thượng tọa bộ, nhưng một vài tác
giả khác như Bhavya Vinitadeva lại cho rằng Tuyết Sơn bộ là một
bộ nhánh của Ðại chúng bộ. Cũng như Hữu bộ, họ cho rằng Bồ tát
không có vị trí ưu thế gì đặc biệt. Chư thiên và quỷ thần không
thể sống cuộc sống Thánh, và ngoại đạo không thể chứng phép thần
thông.
-
5. Bộ phái Vatsiputriyas (Ðộc tử bộ)
- Ðặc sắc của
bộ phái này so với các bộ phái Phật giáo khác, là cùng với Chánh
lượng bộ (Sammitiya) là một bộ phái nhánh của nó, chủ trương
thuyết pudgala, một thực thể vĩnh cửu trong con người. Họ dựa
vào nhiều đoạn trong kinh tạng nguyên thủy có dùng từ pudgala,
và lập luận rằng, nếu không có pudgala, thì không thể có tái
sinh. Theo họ, pudgala, không đồng nhất cũng không tách biệt
khỏi năm uẩn. Giống như Hữu bộ, họ cho rằng A la hán có thể thối
chuyển, và ngoại đạo cũng có thể chứng phép thần thông. Theo
Chánh lượng bộ thì chư thiên hay quỷ thần đều không thể sống
cuộc sống Thánh. Họ tin có trung ấm thân. Cũng như bộ phái
Mahisasakas, trong tám mục của bát chánh đạo, họ không kể ba mục
Chánh nghiệp, Chánh ngữ, Chánh mạng, vì không phải là hoạt động
tâm thức. Dưới thời vua Harsa Ấn Ðộ, bộ phái này được người em
gái của vua là Rajyasri đỡ đầu.
- Bộ phái này
còn có tên gọi Avantika (Bất khả diệp bộ) nghĩa là hoạt động ở
Avanti.
-
6. Bộ phái Dharmaguptas (Pháp tạng bộ)
- Bộ phái này
tách khỏi bộ phái Mahisasaka ở điểm cúng dường Phật hay là cúng
dường Tăng bảo. Họ rất chú trọng cúng dường Phật, những bảo tháp
thờ Phật, như ghi rõ trong luật tạng của họ. Cũng như bộ phái
Mahisasakas, họ tin là A la hán đã diệt trừ mọi dục vọng, và
ngoại đạo không thể chứng thần thông.
- Bộ phái này
phổ cập ở Trung Á và Trung Hoa, họ có Kinh tạng, Luật tạng của
họ. Các tu viện chùa chiền ở Trung Hoa đều giống theo luật tạng
của bộ phái này.
-
7. Bộ phái Kasyapiyas (Ấm quang bộ)
- Bộ phái này
rất gần gũi với Thượng tọa bộ, cho nên họ cũng có tên gọi
Sthavariyas. Sách Tây tạng gọi họ là Suvaraaka. Họ cho rằng,
thời quá khứ một khi đã sinh quả rồi thì không còn tồn tại nữa,
nhưng phần thời quá khứ chưa sinh quả vẫn tồn tại. Ðó là điểm
khác biệt với Hữu bộ, vì đối với Hữu bộ, thời quá khứ cũng tồn
tại như thời hiện tại vậy.
- Người ta cho
rằng bộ phái Kasyapiyas muốn điều hòa quan điểm giữa hai bộ phái
Sarvastivada và Vibhajyavadina (phân tích bộ). Họ cũng có ba
tạng kinh điển của họ.
-
8. Bộ phái Sautrantikas hay
Sankrantivadins (Kinh lượng bộ)
- Theo tài liệu
Pàli, bộ phái Sànkrantivadins tách khỏi bộ phái Kasyapiyas, rồi
bộ phái Sautrantikas lại tách khỏi bộ phái Sankrantivadins; còn
theo Vasumitra, hai bộ phái này là một. Như tên gọi, bộ phái này
tin ở sankranti, tức là có một thực thể chuyển từ cuộc sống này
sang cuộc sống khác. Trong năm uẩn, thì chỉ có uẩn vi tế nhất là
di chuyển từ cuộc sống này sang cuộc sống khác. Còn Ðộc tử bộ
thì lại cho rằng một pudgala không phải đồng nhất nhưng cũng
không tách khỏi năm uẩn, di chuyển từ cuộc sống này sang cuộc
sống khác. Theo họ, cái uẩn vi tế nhỏ nhiệm đó chính là cái
pudgala thực, giống như cái tâm thức vi tế nhỏ nhiệm của Ðại
chúng bộ, thấm nhuần vào toàn bộ sắc thân. Cũng giống như thức A
lại gia của học phái Duy thức Du già vậy. Rất có thể là bộ phái
này đã lấy thuyết tâm thức vi tế từ Ðại chúng bộ sau đó truyền
lại cho học phái Duy thức Du già. Bộ phái này cũng tin là trong
mỗi người có khả năng tiềm ẩn trở thành Phật trong tương lai,
một thuyết Ðại thừa giáo. Vì những quan điểm như vậy, bộ phái
này được xem là cái cầu bắc nối giữa Thanh văn thừa và Ðại thừa
giáo.
-
9. Bộ phái Mahasanghikas (Ðại chúng
bộ)
- Hiện nay, mọi
người đều cho rằng Ðại chúng bộ là bộ phái chủ trương phân phái
sớm nhất và là tiền thân của Phật giáo Ðại thừa.
- Do nhiệt tình
truyền đạo lớn của họ, cho nên chỉ trong vòng vài thập kỷ, bộ
phái của họ phát triển nhanh chóng, họ làm cho những giới luật
hiện hành thích ứng với chủ thuyết của họ, và đưa thêm một số
giới điều mới. Tăng già Phật giáo được cách tân, do ảnh hưởng
của họ. Họ cũng cải biên nhiều trong việc sắp xếp và giải thích
ba tạng kinh điển. Họ công bố nhiều kinh mới, mà họ cho rằng là
do Ðức Phật Thích Ca đích thân nói ra. Họ bác bỏ một số kinh
được kiết tập trong kỳ đại hội kiết tập lần thứ nhất ở thành
Vương Xá. Họ không công nhận là Phật đã thuyết các bộ kinh
Parivara, Abhidamma (Luận tạng), Patisambhida, Niddesa và một bộ
phận Jataka (Bổn sanh). Parivara là một phụ lục của luận tạng,
và có thể là tác phẩm của một Tăng sĩ Xây-lan. Còn Luận tạng
Abhidamma thì được kiết tập dưới triều vua Asoka, trong cuộc đại
hội kiết tập lần thứ ba. Còn ngay thời hiện nay, nhiều người
cũng công nhận là các sách Niddesa, Patisambhida và một bộ phận
của truyện Bổn Sanh là không phải Phật thuyết. Những bộ sách này
được soạn về sau này, do đó bộ phái Mahasanghikas không chịu xếp
chúng vào ba tạng kinh điển của họ. Trái lại, họ thêm vào ba
tạng kinh điển những kinh đã từng bị Ðại hội kiết tập lần thứ
nhất loại bỏ. Bộ Tam tạng của họ, gọi là Acaryavada, khác với bộ
Tam tạng được kiết tập ở Ðại hội Vương Xá.
- Theo Huyền
Trang, Ðại chúng bộ có kinh điển riêng của họ, chia thành năm
phần: Kinh, Luật, Luận, Ðà la ni tạng và Tạp tạng. Cũng theo
Huyền Trang, Luật tạng của Ðại chúng bộ giống như luật tạng được
kiết tập tại thành Vương Xá, trong cuộc Ðại hội lần thứ nhất.
Trong số 657 bộ sách do Huyền Trang đưa về Trung Quốc, có 15 bộ
sách của Ðại chúng bộ viết về Kinh, Luật, và Luận. Trước Huyền
Trang, Pháp Hiển cũng đem về toàn bộ Luật tạng của Ðại chúng bộ,
lấy được ở Pataliputra. Trong bộ danh mục Nanjo, có cả Luật Tỷ
kheo và Luật Tỷ kheo ni thuộc Ðại chúng bộ. Cuốn Mahavastu
hay Mahavastu avadana là của Ðại chúng bộ. Ðó là cuốn
đầu tiên trong bộ luật tạng của bộ phái Lokottaravadins (Thuyết
xuất thế bộ) là một bộ phái nhánh của Ðại chúng bộ. Theo bộ phái
này, Ðức Phật là siêu thế (Lokottara) và chỉ quan hệ với cuộc
sống thế gian trên hình thức bề ngoài mà thôi. Một quan niệm về
Phật như vậy giúp nhiều cho sự phát triển triết lý của Ðại thừa
giáo. Lịch sử Ðức Phật là chủ đề chính của cuốn Mahavastu, ngoài
ra còn có tư liệu về sự hình thành Giáo hội Tăng già, những vị
xuất gia đầu tiên. Cuốn sách viết một phần bằng tiếng Sanskrit,
một phần bằng tiếng Sanskrit tạp, và có thể được soạn trong thời
gian từ thế kỷ II trước CN và thế kỷ VI sau công nguyên.
Sanskrit tạp là một loại chữ Prakrit.
- Vào thế kỷ II
sau NB, Ðại chúng bộ phân thành Nhất thuyết bộ Ekavyaharika và
Thuyết xuất thế bộ (Lokottaravada), Kê dẫn bộ - Gokulika (cũng
gọi là Kukkutika), Ða văn bộ (Bahusrutiya) và Thuyết giả bộ
(Prajnaptivada), và một thời gian ngắn sau đó thì xuất hiện hai
bộ phái Tây Sơn trụ bộ và Ðông Sơn trụ bộ (Aparasaila và
Uttarasaila).
- Caityakas (Chế đa sơn bộ) có tên
gọi như vậy, vì bộ phái này coi trọng việc xây dựng và cúng
dường các Caityas (bảo tháp thờ xá lợi Phật). Tất cả những bộ
phái trên đều mở đường cho sự hưng khởi của Ðại thừa giáo.
- Hai bộ phái
Ðông Sơn trụ bộ và Tây Sơn trụ bộ có tên gọi như vậy do địa bàn
hoạt động xung quanh hai đồi phía đông và phía tây dãy núi
Andha. Họ cũng có tên gọi chung là Andhakas, là tên địa lý vùng
hoạt động của họ.
- Cả ba bộ phái
Chế đa sơn bộ, Ðông Sơn trụ bộ và Tây Sơn trụ bộ đều có ảnh
hưởng lớn ở miền Nam Ấn.
- Lúc đầu, họ
gặp sự chống đối quyết liệt của Thượng tọa bộ, nhưng dần dần họ
trở thành một bộ phái lớn mạnh, có vị trí ở Pataliputra, Vaisali
và phát triển cả về phía Nam lẫn phía Bắc Ấn.
- Các chủ
thuyết của Ðại chúng bộ được ghi lại trong tập Kathavatthu, cuốn
Mahavastu và trong các tác phẩm của Vasumitran Bhavya và
Vinitadeva. Ðại chúng bộ chấp nhận các chủ thuyết căn bản của
Phật giáo như Tứ đế, 12 nhân duyên, Bát chánh đạo, thuyết Vô
ngã, thuyết Nghiệp báo, thuyết Nhân duyên sanh, ba mươi bảy phẩm
trợ đạo, thứ bậc các quả vị chứng đắc trên con đường tu đạo. Các
Ðức Phật đối với họ là siêu thế, hoàn toàn thanh tịnh; thân,
thọ, mạng và quyền năng của các Ðức Phật là vô biên. Các Ðức
Phật không ngủ, không nằm mơ, luôn luôn ở trong định. Trí tuệ
của Phật nắm bắt mọi sự vật, hiện tượng trong một sát na. Nói
tóm lại, tất cả những gì thuộc về các Ðức Phật đều là siêu
nhiên.
- Quan niệm của
Ðại chúng bộ về Ðức Phật, dẫn tới thuyết ba thân của Phật về sau
này, cũng như khái niệm Bồ tát, sau này trở thành nhân vật trung
tâm của Ðại thừa giáo. Theo Ðại chúng bộ, Bồ tát cũng là siêu
nhiên. Vì hậu thân Bồ tát vào bụng mẹ dưới hình thức con voi
trắng, và ra khỏi bụng mẹ ở hông bên phải. Vì lòng thương tưởng
đối với chúng sanh, các Ðức Phật chủ động giáng thế theo bất cứ
hóa thân nào mà các Ngài chọn. Chính những khái niệm như thế dẫn
tới sau này thần thánh hóa Phật và Bồ tát. Một bộ phận của Ðại
chúng bộ, những người theo Mahadeva, cho rằng A la hán cũng còn
nhược điểm, cũng còn phải học, còn có điểm nghi hoặc.
- Sau đây là
một số chủ thuyết khác của Ðại chúng bộ:
- 1) Năm thức
đầu hoạt động có thể dẫn tới tham trước những chuyện thế tục,
nhưng đồng thời cũng có thể dẫn tới ly tham.
- 2) Các quan
năng (mắt...) chỉ là thịt cho nên chúng không biết được hoạt
động của các tâm thức (vijnanas).
- 3) Có thể
diệt tận mọi đau khổ và chứng đạt cảnh Niết bàn tuyệt đối an lạc
thông qua trí tuệ.
- 4) Vị Dự lưu
(Srotapanna) có thể bị thối chuyển, còn A la hán thì không còn
thối chuyển. Vị Dự lưu có thể biết rõ tự thân mình, nhờ hoạt
động của tâm và tâm sở. Dự lưu có thể phạm mọi loại giới tội trừ
năm tội cực trọng là giết cha, giết mẹ, giết A la hán, làm Phật
chảy máu và phá hòa hợp Tăng.
- 5) Mọi hành
động đều là ác hay thiện, không thể có hành động bất định, không
phải ác, không phải thiện.
- 6) Bản chất
của tâm là thanh tịnh, nhưng nó có thể bị ô nhiễm bởi các dục
vọng và những niệm xấu khác.
- 7) Không có
trung ấm thân giữa kiếp sống này và kiếp sống khác.
- Tăng sĩ thuộc Ðại chúng bộ mặc
áo màu vàng, vạt áo dưới buộc chặt vào bên trái.
-
10. Bộ phái Bahusrutiyas (Ða văn bộ)
- Bộ phái này
được nhắc tới trong các bia ký ở Amaravati và Nagarjunakonda và
là một bộ phái nhánh xuất hiện sau này của Ðại chúng bộ, và được
sáng lập bởi một luận sư có kiến thức uyên bác về triết học Phật
giáo, tên là Bahusrutiya. Bộ phái này cho rằng các thuyết Vô
thường, Khổ, Không, Niết bàn của đạo Phật đều có ý nghĩa xuất
thế bởi vì chúng dẫn tới giải thoát. Còn những chủ thuyết khác
chỉ có giá trị thế tục. Họ chủ trương Tăng già không bị luật
pháp thế tục hạn chế. Họ chấp nhận năm thuyết của Ðại Thiên
(Mahadeva).
- Theo
Paramartha (Chân Ðế), bộ phái này đã cố gắng điều hòa Thanh văn
thừa (Sravakayana) và đại thừa. Bộ luận thành thực (Satyasiddhi)
là bộ luận chủ yếu của bộ phái này. Tác giả là Harivarman.
Harivarman chủ trương tất cả các pháp không phải riêng các loài
hữu tình mà mọi sự vật đều vô ngã, không có thực thể. Ông cũng
công nhận có hai loại chân lý: chân lý quy ước gọi là Tục đế và
chân lý tuyệt đối tức là Chân đế. Theo Tục đế, vũ trụ thế giới
có thể chia thành 84 pháp; nhưng theo chân đế, thì cả 84 pháp
đều không tồn tại, mà chỉ còn lại sự không rỗng (sunya). Ông
chấp nhận thuyết Phật thân và pháp thân, mà ông giải thích như
là có bao gồm giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến
và tuệ giải thoát. Ông cho rằng chỉ có hiện tại mới thật sự tồn
tại, còn quá khứ và vị lai là không tồn tại.
-
11. Bộ phái Caityakas (Chế đa sơn bộ)
- Bộ phái này
do Mahadeva thành lập vào khoảng 200 năm sau khi Phật nhập Niết
bàn. Không nên nhằm Mahadeva này với mahadeva đề xuất năm điểm
dẫn tới sự phân phái đầu tiên trong Phật giáo Ấn Ðộ. Ông
Mahadeva sáng lập ra bộ phái Caityavada và một Tăng sĩ thông
thái, xuất gia theo Ðại chúng bộ. Vì ông sống trên một ngọn núi
có bảo tháp Caitya, cho nên gọi bộ phái do ông thành lập là
Caityavada. Chính từ bộ phái Caityavada, sau này tách ra hai bộ
phái nhánh là Ðông Sơn trụ bộ và Tây Sơn trụ bộ.
- Các chủ
thuyết của bộ phái Caityavada gồm các điểm như sau:
- 1) Xây dựng,
trang hoàng, cúng dường các bảo tháp Phật có công đức lớn. Ngay
việc đi nhiễu xung quanh bảo tháp cũng có công đức.
- 2) Cúng dường
hương hoa cho bảo tháp Phật cũng là một công đức lớn.
- 3) Nhờ cúng
dường (bảo tháp Phật) mà có công đức và người ta có thể hồi
hướng công đức đó cho người thân, và bạn bè vì hạnh phúc của
những người này. Quan niệm hồi hướng công đức không thấy có
trong Phật giáo nguyên thủy nhưng rất là phổ biến trong Phật
giáo Ðại thừa, và có sức hấp dẫn lớn đối với hàng Phật tử tại
gia.
- 4) Các Ðức
Phật đã hoàn toàn từ bỏ tham sân, si, và có được 10 quyền năng
(bales-thập lực) mà A la hán không có.
- 5) Một người
có Chánh kiến, vẫn có thể có sân, do đó vẫn có nguy cơ phạm tội
sát.
- 6) Niết bàn
là một trạng thái tích cực, không còn cấu nhiễm và khuyết điểm
gì nữa.
- Như chúng ta
thấy trong Ðại chúng bộ và các bộ phái chánh sau này tách khỏi
Ðại chúng bộ, đã sớm có những tư tưởng về sau được cụ thể hóa và
phát triển bởi Phật giáo Ðại thừa. Thí dụ, tư tưởng thần thánh
hóa Phật và Bồ tát, xem Phật và Bồ tát là những đấng siêu nhiên.
Có thể nói tư trào này làm thỏa mãn tình cảm tôn giáo của đại
chúng Ấn Ðộ. Thuyết ba thân của Phật, sau này trở thành một đặc
sắc của triết học Ðai thừa chính là bắt nguồn từ thuyết Báo thân
(Sambhogakaya) nảy sinh trong Ðại chúng bộ. Truyền thống cúng
dường bảo tháp Phật và chư Tăng và hồi hướng công đức của mình
cho người khác đã giúp nhiều trong việc phổ thông hóa và phổ cập
hóa đạo Phật trong đại chúng.
- Cuốn
Kathavattu có nhắc đến một số bộ phái như Rajagirika,
Siddartaka, Pubbaseliya, Aparaseliya, Uttarapatha, Vajiriya,
Veluya và Hetvadina.
- Bốn bộ phái
đầu liệt kê trên đây có tên chung là Andhakas, đều là những bộ
phái nhánh của Ðại chúng bộ hoạt động trong địa bàn vùng núi
Andha phía Nam Ấn. Không có tư liệu gì về bộ phái Vajitiya. Bộ
phái Uttarapathakas hưng thịnh ở các vùng Bắc và Tây Bắc Ấn, bao
gồm cả Apganistang. Bộ phái này đề xướng thuyết Chân như -
Tathata, sau này trở thành một khái niệm quan trọng của Ðại thừa
giáo. Họ cho rằng chỉ có một thừa, thay vì bốn thừa như Phật
giáo chính thống chủ trương. Theo họ, cư sĩ cũng có thể tu thành
A la hán. Bộ phái Vetulyakas cho rằng Phật và Tăng già chỉ là
khái niệm trừu tượng, không có tồn tại thực tế. Họ đề ra chủ
thuyết, có thể là do ảnh hưởng của Phật giáo, rằng nam nữ tu sĩ
có thể có quan hệ tình dục, vì lòng lân mẫn đối với chúng sinh.
Bộ phái Netuvadina vốn được xem như là đồng nhất với Hữu bộ
Sarvastivada, nhưng theo cuốn Kathavatthu, đây là một bộ phái
riêng biệt, bộ phái này có thuyết cho rằng người thế tục không
thể có trí tuệ nội quán để thấy rõ thực chất của sự vật.
- Trên đây, đại khái là học thuyết
của các bộ phái./.
- Minh
Chi
(Ban Phật giáo VN)
- (Viết theo
một bài bàn về những học phái và bộ phái Phật giáo chính ở Ấn Ðộ
đăng trong cuốn "2.500 năm Phật giáo" do giáo sư Ấn Ðộ
Bapat chủ biên - bản Anh ngữ.)
- * * *
- Cuốn "Tự điển
Sanskrit-Chinese Dictionary of Buddhist Technical Terms" của
Unrai Wogihara (Nhật Bản in lại năm 1959), ở trang 234, có bảng
danh mục 18 bộ phái, nói chung giống danh mục trong bài chúng
tôi, có bổ sung đối với những phái mới. Ngoài ra, cùng một bộ
phái, lại có hai, ba sách Hán dịch khác nhau, chúng tôi chép cả
ra đây để tiện tham khảo.
- 1.
Aryasarvastivada: Thánh thuyết nhất thiết hữu bộ.
- 2.
Mulasarvastivada: Căn bản thuyết Nhất thiết hữu bộ.
- (Mula là căn
bổn. Trong bài tôi viết là Nhất thiết hữu bộ chính thống. Ý tứ
là đối với những bộ phái nhánh sau này tách ra khỏi Nhất thiết
Hữu bộ, thì số người Hữu bộ còn lại tự xem mình là chính thống.
Còn, rõ rằng là Aryasarvastivada chỉ là một tên gọi xưng thán,
chứ không chỉ một bộ phái nào riêng biệt -- Minh Chi ).
- 3.
Kasyapiyah: Ấm trung bộ (còn gọi là Ca Diếp tỳ bộ, Bộ quang gia
bộ).
- 4.
Mahisasakas: Hóa địa bộ.
- 5.
Dharmaguptah: Pháp tạng bộ (còn gọi là pháp hộ bộ).
- 6.
Bahusrutiya: Ða văn bộ.
- 7.
Tamrasaiyah: Ðồng điệp bộ (không có trong bài của tôi -- Minh
Chi ).
- 8.
Vibhajgyavadinah: Phân biệt thuyết bộ (trong bản của tôi, dịch
là Phân tích bộ).
- 9.
Aryasummatiyah: Thánh chúng lượng bộ (cũng gọi là Nhất thiết sở
quý bộ, Cung kính chư Thánh bộ).
- 10.
Kaurukullakah: Cao câu lê kha bộ.
- (Trong bản
của tôi viết là Kê dẫn bộ, gồm có hai tên Sanskrit khác là
Kukkulika và Gokulika, theo bảng của Bapat -- Minh Chi).
- 11.
Avantakah: Bất khả diệp bộ (theo Bapat, đây là tên gọi chung cho
các bộ nhánh của Ðại chúng bộ hoạt động ở vùng Avanti).
- 12.
Vatsiputriyah: Ðộc tử bộ hay Ðâu tử bộ.
- 13.
Mahasanghikah: Ðại chúng bộ
- 14.
Purvasailah: Ðông sơn bộ
- 15.
Amparasaila: Tây sơn bộ
- 16.
Haimavatah: Thuyết sơn bộ.
- 17.
Lokottaravadinah: Thuyết xuất thế bộ (cũng gọi là xuất thế gian
ngữ ngôn bộ).
- 18.
Prajnaptivadinah: Thuyết giả bộ
- 19.
Aryasthaviruh: Thượng tọa bộ (Thánh thượng tọa bộ).
- 20.
Mahaviharavasinah: Ðại tự trụ bộ (cũng gọi là Pháp thắng bộ)
- 21.
Jetavaniyah: Thắng lâm bộ
- 22.
Abhayagirivasinah: Vô úy sơn trụ bộ.
- (*) Ghi chú:
Xem thêm bài viết "Lý
do phân phái và tình hình phân phái trong đạo Phật", Minh
Chi
--o0o--
|
|