-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Ba
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
- Phần
II - Bài 2
- Giới thiệu
đường lối tu thiền của Phật giáo
- HT. Thích Thanh
Từ
-
A- Dẫn nhập
- Tu thiền là
thực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Ðức Phật tọa
thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác
ngộ thành Phật. Chúng ta là Tăng Ni, Phật tử học giáo lý của
Phật thì phải đi theo con đường mà Phật đã đi, không đi con
đường nào khác, dù đường ấy người thuyết giảng nói linh thiêng
mầu nhiệm, chúng ta cũng không theo. Chúng ta cần phải giảng
trạch pháp thiền nào không phải của Phật dạy và pháp thiền nào
của Phật dạy, để có cái nhìn chính xác, để tu và đạt được kết
quả tốt đúng với giáo lý mà mình đã tôn thờ.
-
B- Nội dung
-
A. Thiền không phải của đạo Phật
- 1- Thiền
chuyển luân xa: Thiền này hành giả dẫn điện từ rốn ra sau lưng,
lên đầu xuống rốn, từ rốn ra sau lưng, lên đầu xuống rốn, dẫn
điện chạy vòng vòng như vậy là chuyển luân xa.
- 2- Thiền xuất
hồn: Hành giả mở các khiếu huyệt trên thân rồi xuất hồn bay đi
học đạo với các bậc thầy chưa từng biết, sau đó tự thực hành.
Thiền này có hai cái hại: Cái hại thứ nhất là khi mở huyệt đạo
để xuất hồn, có người mở không khéo phát điên. Cái hại thứ hai
là xuất hồn bay đi học đạo, ai nói là minh sư liền theo, không
giảng trạch chánh tà nên dễ bị thần linh đánh lừa.
- 3- Thiền thai
tức: Hành giả thở vô, giữ hơi tại đan điền một lúc rồi mới thở
ra, lâu ngày bụng dưới lớn dần như người nữ có thai, nên gọi là
thiền thai tức.
- 4- Thiền
luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần: Hành giả luyện tinh hóa
thành khí, luyện khí hóa thành thần. Ðây là lối tu tiên, đưa
người đạt được thần thông du hí khắp mọi nơi.
- 5- Thiền Yoga
hay Du già: Thiền này có nhiều cách tu, trọng tâm thiền này
luyện cho cơ thể khỏe mạnh hơn là giải thoát.
- Năm loại
thiền kể trên thuộc thiền ngoại đạo, không phải thiền của đạo
Phật.
-
B. Thiền của đạo Phật
- Thiền của đạo
Phật trọng tâm phát huy trí tuệ, phá si mê chấp ngã chấp pháp,
để giải thoát sanh tử luân hồi đau khổ. Tạm chia ra: Thiền
nguyên thủy, Thiền Ðại thừa phát triển, Thiền tông.
- I. Thiền
nguyên thủy: Thiền nguyên thủy được truyền bá ở các nước: Tích
Lan, Miến Ðiện, Thái Lan, Lào, Campuchia... Thiền nguyên thủy có
rất nhiều pháp, ở đây chỉ nêu lên những pháp thường dùng.
- 1- Tứ
niệm xứ:
- * Quán thân
bất tịnh: Là thấy đúng như thật về thân. Quán xét thân mình từ
đầu tới chân toàn là một đãy da bao bọc não, tủy, thịt, gân,
xương, máu, mủ... Những món này còn nằm trong đãy da thì dễ coi
một chút, nếu nó ra khỏi đãy da thì rất nhơ nhớp. Phần đầu là
quý nhất, thế mà những chất tiết ra từ mắt là ghèn, từ tai là
cức ráy, từ mũi là nước mũi, từ miệng là đờm dãi đều tanh hôi
nhơ nhớp, ai thấy cũng gớm ghê. Thân mình và tay chân cũng như
thế; chỗ nào trong thân bài tiết ra cũng đều tanh hôi nhơ nhớp,
không có cái nào là sạch, là quý cả. Nếu bên trong thân sạch sẽ
thì khi tiết ra có mùi thơm. Nhưng vì quá dơ bẩn nên tiết ra có
mùi tanh hôi nhơ nhớp mà lúc nào chúng ta cũng ảo tưởng thân
mình là đẹp, là sạch, là quý... Do si mê thấy thân lầm lẫn như
thế, nên tự cao ngã mạn phát sanh bao nhiêu thứ phiền não. Do
đó, Phật dạy chúng ta phải thấy đúng như thật về thân, để phá
cái nhân si mê chấp ngã, dứt mầm luân hồi sanh tử.
- * Quán thọ là
khổ: Thọ là những cảm giác mà mình lãnh thọ. Mắt thấy hình sắc
đẹp tâm ưa thích là cảm thọ lạc, thấy hình sắc xấu tâm chán ghét
là cảm thọ khổ. Tai nghe âm thanh nhẹ nhàng trầm bổng vừa ý là
cảm thọ lạc, nghe âm thanh nặng nề chát tai tâm bực bội là cảm
thọ khổ. Mũi, lưỡi, thân, ý cũng như thế. Mắt thấy sắc không xấu
không đẹp, tai nghe tiếng không hay không dở... tâm không ưa
không ghét là cảm thọ không khổ không lạc. Thọ khổ thì thấy khổ
quá rõ, còn thọ lạc tại sao lại khổ? Ví dụ lưỡi nếm thức ăn ngon
là thọ lạc, nhưng thọ lạc chỉ trong phút chốc, thức ăn qua khỏi
cổ là hết, hết rồi nhưng còn muốn nữa nên khổ. Cảm thọ không khổ
không lạc cũng thế, có rồi mất, nó vô thường nên khổ.
- Con người có
hai cái chấp nặng nhất là chấp thân thật và chấp cảm giác của
thân là quý, cho nên mắt đòi sắc đẹp, tai đòi âm thanh hay, mũi
đòi hương thơm... Hết đòi cái này tới đòi cái kia, không có ngày
dừng. Vì không thấy thọ đúng như thật, nên say đắm theo những
cái ưa thích tạm bợ vô thường nên khổ. Phật dạy chúng ta biết
đúng như thật những cảm thọ là vô thường, là khổ, để không đua
đòi thụ hưởng thì không bị lệ thuộc với ngoại trần, được tự do
giải thoát hết khổ.
- * Quán tâm vô
thường: Tâm người lúc nghĩ tốt lúc nghĩ xấu, lúc nghĩ chuyện
mình lúc nghĩ chuyện người, nghĩ hết chuyện này tới chuyện khác,
không phút giây dừng nghỉ. Tâm nghĩ suy chợt khởi chợt diệt,
không nhất định, luôn luôn chuyển biến vô thường. Thế mà ai cũng
cho là thường, là cố định, là chân lý, người nào nghĩ khác, làm
khác ý nghĩ mình là nổi giận. Vì chấp những nghĩ suy là thường,
là chân lý nên cãi vã, đấu tranh, sát hại, gây đau khổ cho nhau.
Do đó, Phật dạy quán tâm nghĩ suy chợt khởi chợt diệt là vô
thường không thật, để không lầm chấp nó là thường là thật, mới
phá được kiến chấp mình đúng, kẻ khác sai.
- * Quán pháp
vô ngã: Có hai cách quán.
- a)- Pháp chỉ
cho những niệm buồn, thương, giận, ghét... Những niệm này không
có chủ thể, không cố định; khi thì buồn lúc thì vui, khi thì
thương lúc thì ghét... làm cho con người rối rắm bất an. Phật
dạy quán những pháp này là tướng không cố định, không có thật,
để phá niệm chấp ngã về tâm.
- b)- Pháp còn
chỉ cho tất cả sự vật như bàn, ghế, nhà cửa, ruộng vườn... Với
mắt người phàm tục thì thấy cái bàn thật, cái ghế thật... Nhưng
với mắt người trí tuệ thì thấy cái bàn cái ghế không thật mà do
các duyên như gỗ, đinh, công thợ... hợp lại tạm có, có một thời
gian rồi hoại diệt, nên nói là vô ngã, không có chủ thể. Thân
người cũng là một pháp, cũng do đất nước gió lửa hợp lại tạm có,
có rồi hoại diệt.
- Phật dạy quán
các pháp đúng như thật của nó là vô ngã để phá chấp thân là
thật, chấp tâm là thật, chấp cảnh là thật. Khi thấy thân, tâm,
cảnh không thật thì hết mê muội, hết luyến ái, hết chạy theo
người, chạy theo cảnh.
- 2- Minh
sát tuệ:
- Hành giả dùng
trí tuệ thấy rõ và theo dõi từng cử động nơi thân, hoặc những ý
nghĩ khởi lên nơi tâm. Ví dụ hơi thở vô bụng phồng lên, hành giả
biết và chú ý niệm thầm "phồng à". Khi thở ra bụng xẹp xuống,
hành giả biết và chú ý niệm "xẹp à". Hoặc tâm khởi tưởng điều gì
phải biết ngay tâm đang tưởng tượng và niệm (thầm) liền "tưởng
tượng à, tưởng tượng à"... Ðó là thiền Minh sát tuệ.
- Người theo
Phật giáo Nguyên thủy tu thiền, hoặc quán Tứ niệm xứ, hoặc ứng
dụng Minh sát tuệ, hoặc quán Ngũ đình tâm. Ðó là những pháp
thiền người tu theo Phật giáo Nguyên thủy thường dùng.
-
II. Thiền Phật giáo Ðại thừa hay Phật
giáo Phát triển:
- Thiền Phật
giáo Ðại thừa hay Phật giáo Phát triển được truyền bá ở Trung
Hoa. Ðại sư Trí Khải dạy tu thiền theo Lục diệu pháp môn gốc từ
Phật giáo Nguyên thủy, nhờ ứng dụng khéo thành pháp tu của Ðại
thừa.
- 1- Lục
diệu pháp môn:
- - Sổ tức:
Hành giả điều hòa hơi thở không mạnh, không gấp, yên ổn, thong
thả... hít vô thở ra đếm từ một tới mười, nhiếp tâm tại số,
không cho dong ruổi gọi là sổ tức. Tâm hành giả vận chuyển tự
nhiên theo hơi thở với số không cần gia công, biết hơi thở rỗng
nhẹ, tưởng tâm lần lần tế nhị. Khi không muốn đếm thì bỏ sổ tức
tu tùy tức.
- - Tùy tức: Xả pháp sổ tức, tâm
nương theo hơi thở ra vào, hơi thở vào thì theo vào, hơi thở ra
thì theo ra, dứt hết các duyên, ý không phân tán. Biết hơi thở
ra vô là thô, muốn bỏ, khi ấy xả tùy tức tu chỉ.
- - Chỉ: Dứt
các duyên lự, không nhớ đếm hơi thở hay theo hơi thở, tâm ngưng
lặng gọi là tu chỉ. Biết thân tâm đứng lặng vào định, không thấy
tướng mạo trong ngoài, hành giả khởi nghĩ định này tuy vô vi
tịch tịnh, an ổn, khoái lạc, nhưng không có trí tuệ, không thể
phá hoại nhân sanh tử. Khởi nghĩ như thế, không đắm nơi chỉ mà
khởi quán.
- - Quán: Tâm ở
trong định dùng tuệ quán tưởng hơi thở ra vào vi tế như gió
trong hư không, ba mươi sáu vật trong thân không thật, như bẹ
chuối; tâm thức vô thường sanh diệt, từng sát na không có ta và
người, người đã không có thì định nương vào đâu? Quán như thế,
biết hơi thở ra vào khắp các lỗ chân lông, tâm sáng, thấy trong
thân ngoài thân đều bất tịnh, biến đổi từng sát na, tâm quán lưu
động, không phải đạo chân thật. Khi ấy xả quán tu hoàn.
- - Hoàn: Ðã
biết quán từ tâm sanh hoặc từ phân tích cảnh sanh đều không hợp
bản nguyên, phải phản quán, quán lại tâm năng quán, quán tâm này
từ đâu sanh, gọi là tu hoàn.
- - Tịnh: Bấy
giờ tâm đã thanh tịnh, không còn nương theo hơi thở, không còn
quán. Ðó là tịnh.
- 2- Tam
quán:
- Ðại sư Trí
Khải còn dạy tu theo Tam quán là quán không, quán giả và quán
trung. Hành giả quán tất cả pháp trên thế gian này do nhân duyên
hợp mà tạm có hình tướng, tạm có tên gọi, không có thật thể, nên
nói là không. Tuy là không nhưng duyên hợp thì nó giả có. Vì giả
có nên quán giả. Nếu thấy được nghĩa không giả hòa hợp là quán
trung.
-
III. Thiền tông:
- Sau đây là
pháp tu của Thiền tông. Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma từ Êẽn Ðộ sang Trung
Hoa, Ngài ở chùa Thiếu Lâm, ngồi xoay mặt vào vách không tiếp
người gần chín năm. Hôm ấy vào tiết mùa Ðông có Thần Quang là
một thiền khách đến yết kiến, thấy Tổ ngồi xoay mặt vào vách,
đứng chắp tay chờ mãi, tuyết rơi lên tới gối. Tổ quay lại thấy,
hỏi:
- - Ngươi đến
đây cầu cái gì mà chịu khổ hạnh như vậy?
- Thần Quang
thưa:
- - Cúi mong
Hòa thượng từ bi mở cửa cam lồ rộng độ chúng con.
- - Diệu đạo vô
thượng của chư Phật dù nhiều kiếp tinh tấn, hay làm việc khó
làm, hay nhẫn được việc khó nhẫn, còn không thể đến thay, huống
là dùng chút công lao nhỏ này mà cầu được pháp chân thừa!
- Thần Quang
nghe dạy bèn lén lấy dao chặt cánh tay đặt trước Tổ tỏ lòng
thiết tha cầu đạo. Tổ biết đây là pháp khí bèn dạy:
- - Chư Phật
lúc ban đầu cầu đạo, vì pháp quên thân, nay ngươi chặt cánh tay
để trước ta, tâm cầu đạo như vậy cũng khá.
- Qua câu
chuyện, chúng ta thấy Phật pháp cao siêu tuyệt vời đưa tới giải
thoát sanh tử. Người tu đạo phải quyết tâm gan dạ xem thường
thân mạng mới có thể đạt được, còn tu lai rai cầm chừng thì
không thể tiến được.
- Sau đó, Thần
Quang thưa:
- - Pháp ấn của
chư Phật, con có thể được nghe chăng?
- - Pháp ấn của
chư Phật không phải từ người khác mà được.
- - Tâm con
chưa an, xin thầy dạy pháp an tâm.
- - Ngươi đem
tâm ra đây ta an cho.
- Thần Quang
nhìn lại tâm mình, tìm mãi không thấy ở đâu, bèn thưa:
- - Bạch Hòa
thượng, con tìm tâm không được.
- - Ta đã an
tâm cho ngươi rồi.
- Ngay đó Thần
Quang lãnh hội, biết pháp an tâm, Tổ đặt tên là Huệ Khả.
- Từ lâu, ai
cũng như ai đều cho cái nghĩ suy là tâm mình, nên hết nghĩ việc
này, tới nghĩ việc kia, tâm lúc nào cũng loạn động bất an. Tổ
bảo đem tâm ra ta an cho là bảo xoay lại tìm cái nghĩ suy lăng
xăng đó ở đâu? - Khi xoay lại tìm thì nó lặng mất. Ý nghĩ lăng
xăng mất ngay để tâm an. Vậy, xoay lại tìm ý nghĩ lăng xăng, thì
ý nghĩ lăng xăng lặng, đó là phương pháp tu để được an tâm, để
được định. Ðây là phản quang tự kỷ, xoay lại soi sáng tâm mình,
Tổ dạy tu một cách đơn giản, rõ ràng và thực tế, không phải
chuyện xa vời không thực hiện được.
- Về sau, Tổ
Huệ Khả cũng dạy cho ngài Tăng Xán như thế. Một hôm có một cư sĩ
đến đảnh lễ Tổ, thưa:
- - Ðệ tử mang
bệnh ghẻ lở đầy mình, xin thầy từ bi vì đệ tử sám tội.
- Tổ bảo:
- - Ðem tội ra,
ta sẽ vì ngươi sám hối.
- Cư sĩ đứng
sững giây lâu, thưa:
- - Ðệ tử tìm
tội không được.
- - Ta vì ngươi
sám hối rồi.
- Sám hối cũng
là lối phản quang tự kỷ. Ở trước thì phản quang tìm tâm (vọng
tưởng), bây giờ thì phản quang tìm tội.
- Về sau nữa,
Tổ Tăng Xán cũng dạy cho Sa di Ðạo Tín như thế. Sa di Ðạo Tín
đến đảnh lễ Tổ, thưa:
- - Xin Hòa
thượng từ bi ban cho con pháp môn giải thoát.
- Tổ hỏi:
- - Ai trói
buộc ngươi?
- - Không ai
trói buộc.
- - Không ai
trói buộc đâu cần cầu giải thoát?
- Ðạo Tín nghe
liền đại ngộ.
- Các Ngài ngộ
đạo đều xoay lại mình tìm coi vọng niệm có thật không, nghiệp
tội có thật không, sự trói buộc có thật không? Thấy tất cả đều
là ảo tưởng không có thật. Thấy nó không thật là ngộ được lý
Thiền. Ðó là lối phản quang tự kỷ.
- Từ đời Tống
trở về trước, Thiền tông chưa có pháp tu khán thoại đầu. Từ đời
Tống trở về sau, các Thiền sư Trung Hoa trong tông Lâm Tế thấy
đa số Tăng Ni đều thông hiểu lý Thiền, nhưng không chịu tu mà
chỉ nói suông, nên các Ngài dạy khán thoại đầu, không cho tìm
hiểu nghĩa lý để nói suông nữa.
- Khán thoại
đầu là pháp tu mà hành giả dồn hết tâm lực khán câu thoại đầu do
vị thầy hướng dẫn đưa ra cho tới khi ngộ. Trong thời gian này
không học kinh luận, ngoại trừ những buổi khai thị của vị thầy.
Hiện giờ, đa số Tăng Ni và Phật tử chưa thấu suốt lý Thiền, nên
chúng tôi không hướng dẫn khán thoại đầu mà phải giảng dạy cho
hiểu lý Thiền, hiểu rồi mới biết đường lối tu. Ðó là tùy thời
tùy cảnh mà dùng phương tiện cho hợp với căn cơ của người đương
thời để tu cho có kết quả tốt.
-
C- Kết luận
- Tu thiền là
một pháp tu thực tế phù hợp với tinh thần khoa học hiện đại. Tâm
chúng ta khởi vọng tưởng phiền não, chúng ta khéo quán thì vọng
tưởng lặng, hết phiền não, tâm an định. Tu tới đâu có kết quả
lợi ích tới đó, rất cụ thể, không xa vời. Vọng tưởng phiền não
là cái không thật hư ảo, nơi mình sẵn có Phật tánh là cái chân
thật bị vọng tưởng phiền não che khuất, bây giờ bỏ hết vọng
tưởng thì Phật tánh hiện ra. Ðó là những vấn đề chủ yếu của việc
tu thiền./.
- -oOo-
-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
- 1- Thiền ngoại đạo là
những pháp nào?
- 2- Thiền của đạo Phật có
mấy thứ?
- 3- Thiền của đạo Phật
trọng tâm phát huy cái gì?
- 4- Tu thiền được lợi ích
gì?
|
--o0o--
|
|