-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật Học Cơ Bản
-
Tập Ba
- Ban Hoằng Pháp
Trung Ương
GHPGVN
-
Chương Trình Phật Học Hàm Thụ (1998-2002)
Nguyệt San Giác Ngộ
- --- o0o ---
-
Phần II - Bài 5
- Giới thiệu
về Mật Tông (Kim Cương Thừa)
- Thích Viên
Giác
-
A- Dẫn nhập
- Mật tông là
một trong những tông phái của Phật giáo, xuất phát từ Ấn Ðộ vào
khoảng thế kỷ thứ VII, rồi sau đó được truyền bá sang Trung Hoa,
Nhật Bản... và đặc biệt là phát triển mạnh mẽ ở Tây Tạng. Ở Tây
Tạng, Mật tông còn được gọi là Kim cương thừa.
- Kim cương
thừa được coi như là con đường thẳng dốc đứng để đi lên đỉnh
núi; điều đó vừa nói lên tính siêu việt, đồng thời cũng nói lên
sự khó khăn và nguy hiểm của con đường, lối tu Mật giáo. Trong
các kinh điển Ðại thừa, có nhiều bộ kinh lồng vào những thần
chú, Ðà la ni như là để khai triển ý nghĩa sâu thẳm của tâm linh
quả chứng hay ý lực chư Phật, Bồ tát; có lẽ đây là cơ sở để Mật
giáo phát triển về sau.
- Lịch sử phát
triển Mật tông đôi khi đã có những xu hướng lệch lạc ra ngoài
quỹ đạo hướng đến giải thoát theo lý tưởng của đạo Phật. Bởi có
sự biểu hiện thiên về phù phép, tà thuật... làm cho uy tín của
Mật giáo bị tổn thương nặng nề. Ngày nay, với sự nỗ lực truyền
bá Mật giáo hay Kim cương thừa của các bậc đại sư Tây Tạng đã
làm sáng tỏ ý nghĩa đích thực của tông phái này. Kim cương thừa
là một con đường giải thoát đặc biệt của Phật giáo Phát triển.
-
B-
Nội dung
-
I.
Lịch sử Mật tông
- Mật giáo được
thành lập vào thế kỷ thứ VII ở vùng Nam Ấn với sự xuất hiện của
bộ kinh Ðại Nhật (Mahàvairocana sùtra). Ðây là bộ kinh
căn bản của Mật tông. Ở Ấn Ðộ, giai đoạn mà Mật giáo phát triển
mạnh mẽ nhất là dưới thời các vương triều Pàla (750-1150) ở
Bengale. Nhà vua Dharmapala (thế kỷ VII), người đã nhiệt thành
ủng hộ xây dựng tu viện Vikramasilà, làm trung tâm truyền bá Mật
giáo.
- Ngài Long Thọ
(Nagarjuna, 600-650) được coi là vị Tổ sư của Mật giáo. Ngài
thuộc dòng Bà la môn, thọ giới tại Nalanda, sau đó đến Vương Xá
tu 12 năm đắc thánh quả Ðại thủ ấn tất địa (Mahamudràsiddhi).
Theo truyền thuyết, có lần Ngài gặp đứa trẻ chăn cừu giúp Ngài
qua sông; để đền ơn, Ngài thi triển thần thông giúp đứa trẻ làm
vua. Tranh tượng vẽ về Ngài có hình rắn phủ quanh đầu. Phật giáo
Tây Tạng cho rằng Long Thọ (thế kỷ VII) và Long Thọ luận sư (thế
kỷ II) là một, tức Long Thọ đầu thai trở lại. Ngài có đệ tử
truyền pháp là Long Trí.
- Long Trí
(Nagabodhi) là truyền nhân của ngài Long Thọ. Ngài dòng dõi Bà
la môn, nhưng lại thường đi ăn trộm, khi ngài Long Thọ đang ở
tịnh xá Suvarna, Long Trí đến rình xem thấy ngài Long Thọ đang
ăn bằng một cái bát vàng, bèn nảy ý trộm lấy cái bát. Ngài Long
Thọ biết tâm ý của Long Trí, liền ném cái bát cho Ngài. Ngài
kinh ngạc và cảm phục bèn xin đi theo tu học. Ngài Long Thọ làm
phép quán đỉnh cho Ngài nhập môn. Sau 12 năm tu luyện, Ngài
chứng ngộ thánh quả.
- Kim Cương Trí
(Vajrabodhi, 663-723) người Nam Ấn, tu học ở Nalanda. Năm 15
tuổi qua Tây Ấn học về Nhân Minh luận với ngài Pháp Xứng, sau đó
tham học về Luật, Trung Quán luận, Du Già luận, Duy Thức
luận..., sau cùng tu học và nghiên cứu Kim Cương Ðỉnh
(Vajra-Sekhàra) và các kinh Mật giáo với ngài Long Trí ở Nam Ấn
7 năm. Năm 720, Ngài qua Trung Hoa, đến Lạc Dương truyền bá Mật
giáo. Ngài được coi như vị Tổ đầu tiên của Mật tông Trung Hoa
đồng thời với ngài Thiện Vô Úy.
- Bất Không Kim
Cương (Amoghavajra, 750-774) là đệ tử xuất sắc của ngài Kim
Cương Trí. Ngài người Bắc Ấn, thọ Sa di năm 15 tuổi, theo thầy
đến Lạc Dương thọ Tỳ kheo giới năm 20 tuổi. Tu học 12 năm thông
suốt Mật giáo. Sau khi thầy mất, Ngài cùng với các đệ tử qua
Tích Lan nghiên cứu giáo lý Kim cương đỉnh du già và Ðại Nhật
thai tạng. Trở về Trường An với số kinh điển đồ sộ, Ngài khởi
công dịch thuật. Ngài Bất Không Kim Cương là Quốc sư của ba
triều vua Huyền Tông, Túc Tông và Ðại Tông.
- Thiện Vô Úy
(Subhakarasimha, 637-735) là đệ tử của ngài Long Trí, tức là
huynh đệ với ngài Kim Cương Trí, từng là vua xứ Orissa, tu học ở
tu viện Nalanda, thâm hiểu Du Già, chân ngôn và ấn quyết. Ngài
đến Trung Hoa năm 716, đời vua Huyền Tông, trước ngài Kim Cương
Trí 4 năm và cũng được coi là vị Tổ sư của Mật tông Trung Hoa,
được vua Huyền Tông trọng đãi. Ngài dịch nhiều kinh quan trọng
của Mật tông như Ðại Nhật kinh, Tô Tất Ðịa Yết La kinh...
Ðệ tử của Ngài có các ngài Nhất Hạnh, Huyền Siêu, Minh Trí,
Nghĩa Lâm...
- Ngài Nhất
Hạnh (638-727) quê quán ở Thuận Ðức, tỉnh Nhật Lệ, Trung Hoa, là
người tinh thông Tam luận, Thiền học, Thiên Thai..., đặc biệt
tinh thông cả thiên văn học. Khi ngài Thiện Vô Úy đến Trung Hoa,
Ngài được truyền pháp "Thai tạng giới" của Mật giáo. Ngài cùng
với thầy dịch kinh Ðại Nhật và trước tác bản sớ Ðại
Nhật kinh. Sau đó, Ngài cũng học với Kim Cương Trí, được
truyền cho nghi quỹ của Kim Cương giới. Ngài được lãnh hội cả
hai phái của Mật giáo Ấn Ðộ.
- Mật giáo Ấn
Ðộ được khởi xướng và truyền bá do các cao tăng như Long Thọ,
Long Trí, Kim Cương Trí, Thiện Vô Úy. Trên mặt giáo nghĩa và
hành trì thì chia làm hai phái Chân ngôn thừa (Mantrayàna) và
Kim cương thừa (Vajrayàna), dựa theo tư tưởng của hai bộ kinh
Ðại Nhật và Kim Cương Ðỉnh. Qua Trung Hoa, cả hai
dòng hợp lưu ở Nhất Hạnh, đường lối Mật tông Trung Hoa tổng hợp
của lý luận và thực tiễn. Mật tông phát triển mạnh và đã tạo
nhiều ảnh hưởng đến nền văn hóa nghệ thuật Trung Hoa, được các
triều vua ủng hộ nên rất hưng thịnh. Công đức truyền bá Mật giáo
Trung Hoa do các ngài Thiện Vô Úy, Kim Cương Trí, Bất Không,
Nhất Hạnh, Vô Hành...
- Mật giáo được
truyền vào Tây Tạng thế kỷ VIII do ngài Liên Hoa Sinh
(Padmasambhava), người Ấn Ðộ, sống cùng thời với vua Tây Tạng
Ngật Lật Song Ðề Tán (755-797). Ngài đến Tây Tạng, đem Mật giáo
truyền bá và sáng lập tông phái Ninh Mã (Nuyingmapa), một trong
bốn phái lớn của Mật giáo Tây Tạng. Ngài được coi là Ðức Phật
Thích Ca tái thế, có tài chinh phục ma quỷ, thiên tai và các
giáo phái. Ngài xây dựng tu viện Tang Duyên (Samye) năm 775 và
trước tác nhiều tác phẩm quan trọng như bộ Tử thư... Ngài
là Tổ sư của Phật giáo Tây Tạng.
- Sự truyền
thừa của Mật tông Tây Tạng không rõ nét và rất phức tạp; những
bậc đại sư nổi bật đóng góp làm hưng thịnh và sáng rỡ Phật giáo
Tây Tạng sau Liên Hoa Sinh có Atisa (A Ðề Sa, 982-1054), thế kỷ
X, Ngài người Ðông Ấn, được mời sang Tây Tạng và sống ở đó 12
năm, đóng góp rất nhiều cho Phật giáo Tây Tạng nói chung và Mật
giáo Tây Tạng nói riêng. Ngài sáng lập ra trường phái Kadampa
(Cam Ðan) ảnh hưởng lớn Phật giáo Tây Tạng, trước tác Bồ đề
đạo đăng luận, đặc biệt công trình sắp xếp hệ thống kinh
sách Phật giáo Tây Tạng, lấy triết học Tánh không và Duy thức
làm tư tưởng cho Phật giáo Tây Tạng, điều đó ảnh hưởng đến các
hệ tư tưởng Mật giáo Tây Tạng rất lớn.
- Người cải
cách nổi tiếng của Mật giáo Tây Tạng là Tông Khách Ba
(1357-1419), Ngài sinh tại Amdo, thuộc vùng Ðông bắc Tây Tạng.
Xuất gia khi còn nhỏ, tham học với nhiều vị đại sư khác nhau, tư
tưởng của Ngài ảnh hưởng của Atisa. Ngài sáng lập tông phái
Gelugpa (Hoàng Mạo phái), một tông phái quan trọng nhất của Tây
Tạng hiện nay. Ngài chủ trương xét lại toàn bộ kinh điển và tổng
kết thành hai tác phẩm chính: Lamrin Chenmo (Bồ đề đạo thứ đệ)
tiêu biểu cho đường lối tu tập Hiển giáo, Ngagrim Chenmo (Chân
ngôn đạo thứ đệ) tiêu biểu cho đường lối tu tập của Mật giáo.
Phật giáo Tây Tạng được chấn chỉnh và phát huy rực rỡ nhờ Tông
Khách Ba. Trước khi mất, Ngài phó chúc cho hai đệ tử là Dalai
Blama và Panchen Blama, tức Ðạt lai Lạt ma và Ban thiền Lạt ma;
theo truyền thuyết thì hai vị này chuyển sinh để tiếp tục cai
trị Tây Tạng, được dân chúng coi là hai vị Phật sống. Mật tông
được Phật giáo Tây Tạng bảo tồn và phát triển, còn ở các nơi
khác không phát triển mấy.
-
II.
Giáo nghĩa Mật tông
-
1- Mandala:
- Xuất phát từ
tư tưởng của hai bộ kinh Ðại Nhật và Kim Cương Ðỉnh,
Mật giáo thiết lập hai Mandala: Thai tạng giới Mandala và Kim
cương giới Mandala.
- Mandala, Hán
dịch là luân viên cụ túc, nghĩa là vòng tròn đầy đủ. Ðây là biểu
tượng của vũ trụ và năng lực trong vũ trụ được trình bày bằng
các hình vẽ. Mandala, về mặt triết lý, là cơ sở hợp nhất thế
giới hiện tượng và thế giới bản thể, là đối tượng của thiền
quán. Trong ý nghĩa thực tiễn thì Mandala là đàn tràng bằng đất
để hành giả bày biện các lễ vật hay pháp khí phục vụ cho nghi
thức hành lễ, cầu nguyện, tu luyện...
- Thai tạng
giới Mandala (Garbhadhàtu mandala) là yếu tố thụ động tâm linh,
cũng có nghĩa chỉ cho vũ trụ về mặt tĩnh, mặt lý tánh. Tác dụng
lý tánh như thai mẹ chứa đựng đứa con, từ lý tánh thai tạng mà
xuất sinh mọi công đức.
- Kim cương
giới Mandala (Vajradhatu mandala) là yếu tố tác động, biểu hiện
cho trí tuệ viên mãn, còn gọi là trí thủy giác. Kim cương giới
là trí tuệ nội chứng của Phật. Bí tạng ký nói: "Thai tạng là lý,
Kim cương là trí".
- Như vậy, Thai
tạng giới biểu hiện cho bản thể Phật tính của mọi chúng sanh và
Kim cương giới biểu tượng cho trí tuệ viên mãn. Từ Thai tạng
giới mà xuất sinh Kim cương giới theo tiến trình nhân quả. Sự
hợp nhất Kim cương giới và Thai tạng giới là sự chứng ngộ tối
thượng.
- Ðức Phật Ðại
Nhật (Tỳ Lô Xá Na) là biểu tượng hợp nhất tối thượng, vũ trụ là
sự hợp nhất viên mãn. Vì vậy, Ðức Ðại Nhật chính là vũ trụ thân.
Mật tông dựa trên cơ sở ấy cho rằng vũ trụ thân là pháp thân và
pháp thân biểu hiện trong mọi hiện hữu, sở dĩ chúng ta không
nhận thấy được vì tâm thức mê mờ, chúng ta chỉ thấy thế giới là
bất an và khổ đau vì thiếu trí tuệ Kim cương; trí tuệ Kim cương
có công năng là phá tan mọi chướng ngại pháp. Con đường trở về
hợp nhất với vũ trụ thân, nói cách khác, muốn đi vào quỹ đạo của
pháp thân phải có những tác pháp thiêng liêng, thể hiện sự gia
trì giúp ta thể nhập một cách sâu xa và phổ quát của pháp giới
tính. Lý thuyết này có phần tương tự với lý thuyết Bất tư nghì
giải thoát trong kinh Duy Ma Cật.
- Mạn đà la có
nhiều loại, tựu trung có 4:
- a) Ðại Mạn đà
la (Maha mandala): vòng tròn hội tụ các Ðức Phật và Bồ tát,
trình bày bằng hình vẽ hoặc điêu khắc. Mạn đà la này biểu tượng
cho tự thân của Phật và mối quan hệ giữa tự thân Phật với toàn
thể vũ trụ nên gọi là Ðại.
- b) Tam muội
gia Mạn đà là (Samaya mandala): vòng tròn hội chúng với những
pháp khí trong tay tùy theo bản nguyện của mỗi vị. Samaya dịch
là bổn thệ, tức là xu hướng và khả năng hóa hiện độ sanh của mỗi
vị Phật, Bồ tát.
- c) Pháp Mạn
đà la (Dharma mandala): là Mạn đà la của văn tự lý giải chân lý.
Tất cả những lời Phật dạy, những chân ngôn của Phật và Bồ tát
đều bao hàm trong đó.
- d) Yết ma Mạn
đà la (Karma mandala): là Mạn đà la bằng điêu khắc chạm trổ biểu
hiện các động tác, các hành trạng độ sanh của Phật và Bồ tát.
- Tóm lại, Ðại
mandala là tổng thể pháp giới, là tự thân của Phật; pháp môn mà
chư Phật, Bồ tát thuyết gọi là Pháp mandala; vũ khí mà chư tôn
cầm trong tay là Tam muội gia mandala và những hình ảnh của chư
tôn gọi là Yết ma mandala. Bốn mandala này biểu tượng cho năng
lực thiêng liêng của Tam mật: thân mật, khẩu mật và ý mật.
- Trên đây là 4
mandala của chư Phật và Bồ tát; ngoài ra, tất cả muôn loài, mọi
hiện tượng đều có 4 mandala của chúng, đại khái sắc tướng của
chúng gọi là Ðại mandala, đặc tính - khả năng riêng của chúng là
Tam muội mandala, danh từ để gọi chúng là Pháp mandala, hành vi
của chúng là Yết ma mandala. Ðiều cần chú ý là 4 mạn đà la không
độc lập, chúng có mối liên hệ duyên sinh và mặc dù Phật, Bồ tát
có mạn đà la riêng nhưng không tách rời mọi mạn đà la của pháp
giới. Vì vậy, Phật và chúng sinh là một, cùng chung thể tánh là
sáu đại: Ðịa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Thức. Sự khác nhau giữa
Phật và chúng sanh ở chỗ Phật thì tỉnh thức mà chúng sanh thì mê
muội.
- 2-
Mantra:
- Mantra là một
số âm chứa đựng sức mạnh của vũ trụ hay biểu hiện khía cạnh nào
đó của Phật. Mantra chính là thần chú, được đọc lặp đi lặp lại
nhiều lần trong các buổi tu tập hành trì. Ðịnh nghĩa về thần
chú, Lama Govinda nói: "Chữ "thần" là tinh thần, tức năng lực
suy nghiệm; chữ "chú" là lời, là tiếng dùng làm công cụ biểu
diễn. Như vậy, "thần chú" là công cụ để suy nghiệm, là hiện
tướng dẫn khởi một ảnh tượng tinh thần. Thần chú vang lên kêu
gọi nội dung của nó nơi thực tại trước mắt một cách trực tiếp.
Thần chú là năng lực chứ không phải đơn thuần là ý kiến mà tâm
trí có thể tránh trớ hay cãi lại. Thần chú phát lồ, tự thị hiện
như thế, như vậy đó. Chính ở nơi đây chứ không phải bất cứ nơi
đâu, lời nói là hành động mà sự thực hiện thì trực tiếp và tức
khắc" (Cơ sở Mật giáo, Trần Ngọc Sinh dịch, tr.14).
- Thần chú còn
gọi là đà la ni (Dhàranì), Hán dịch là tổng trì, tức bao gồm tất
cả, đó là những thần chú mang sức mạnh siêu nhiên, thường thì đà
la ni dài hơn thần chú (mantra). Ðà la ni là biểu hiện khía cạnh
chứng đắc của Phật hay Bồ tát được thấy trong thiền định, biểu
tượng hay ký hiệu hóa hình ảnh, nội dung chứng đắc ấy, được lưu
trữ và dễ dàng hiện hành khi gọi chúng trở lại. Chức năng đà la
ni không khác với thần chú. Mặt khác, tác dụng của thần chú hay
đà la ni được coi như là phương tiện để đạt được thiền định.
- Một vấn đề
cần nói rõ là hình thức của thần chú hay cách đọc thần chú không
phải làm cho ta thoát khỏi khổ đau hay những nỗi bất hạnh hoặc
tiêu trừ được nghiệp chướng; mà chính là nhờ tâm trong sạch và
thành thực mới cứu vớt được chúng ta, như Ðại sư Milarepa nói:
"Khi chư vị tự hỏi ác nghiệp có được tiêu trừ hay không, chư
vị nên biết rằng: nó chỉ tiêu trừ bằng sự ước mong của thiện
tâm" (Sđd).
- Sự hành trì
và đọc tụng thần chú là một trong ba khía cạnh thân mật, khẩu
mật và ý mật. Ðọc thần chú là khẩu mật. Thần chú thường được
nhiều người Phật tử đọc nhất, tiêu biểu là thần chú "OM MANI PAD
- MEHUM" được coi là của ngài Quán Thế Âm. Thần chú không phải
là một công thức chết, cũng không phải là những sóng âm thanh
tác động vào thế giới siêu hình để kêu gọi năng lực trong vũ
trụ. Thần chú là một công cụ để biểu diễn tinh thần, thái độ tâm
lý, tri thức, ý chí và thành thực mới là những yếu tố quan trọng
để biến thần chú thành năng lực hay mời gọi các năng lực siêu
nghiệm khác. Hơn nữa, thần chú chỉ có thần lực với những ai đã
trải qua kinh nghiệm do thụ pháp và hành trí dưới sự hướng dẫn
của một đạo sư (Guru).
- Tóm lại, thần
chú (mantra) là một phương tiện trong những phương tiện mà Mật
tông thực hành để thanh lọc tâm linh và đạt được thiền định, sau
cùng là hợp nhất và đồng hóa với vạn hữu. Thần chú được coi là
"mật" vì nó chứng tỏ mối liên hệ mật thiết bên trong của sự vật
hiện tượng, nhất là sự nối kết giữa vật chất và tinh thần.
- 3) Tam
mật tương ứng:
- Như đã nói,
Tam mật là thân mật, khẩu mật và ý mật. Theo Mật tông, để đạt
được khả năng điều động năng lượng vũ trụ hay năng lượng tâm
linh thì phải thực hành nghi thức đúng phép gồm cả ba lãnh vực
của thân, khẩu, ý. Thân thể tác động qua điệu bộ, nhất là của
hai bàn tay, được diễn theo lời thần chú sẽ tạo nên thái độ tâm
linh phù hợp theo một điểm. Miệng đọc các mantra (thần chú), âm
thanh biểu tượng, là hiện tượng thiêng liêng làm cho rung động
nội tâm của hành giả. Tâm ý thì quán tưởng mandala, tạo thành
một thể thống nhất để thể nhập Tam mật của Phật.
- Tam mật của
Như Lai bản thể bình đẳng, không giới hạn, có mặt khắp pháp
giới, hay nói cách khác: mọi hình sắc đều là thân mật, mọi âm
thanh đều là khẩu mật, mọi lý đều là ý mật. Như đã nói, thân
Phật và thân vũ trụ là một nên quan điểm về thân mật trong Mật
giáo lấy tư tưởng trùng trùng duyên khởi của Hoa Nghiêm làm cơ
sở. Sự hiện hữu của thân không đơn giản là một hữu thể độc lập,
mà có các mối quan hệ mật thiết với thế giới bên ngoài, hay nói
cách khác là với cái không phải thân. Ðiều kiện mà thên tồn tạo
gồm cả pháp giới, gọi là mọi hình sắc là thân. Tương tự trong
Trung Bộ kinh, Phật dạy quán sắc uẩn bao gồm nội sắc, ngoại sắc,
thô tế, liệt thắng, xa gần đều không hiện hữu (vô ngã). Sự mầu
nhiệm hay bí mật của thân là cái mầu nhiệm của thân vô ngã.
- Tương tự như
thân, về ngữ mật thì mọi âm thanh đều là ngữ mật. Thế giới mà
chúng ta đang sống là thế giới được biểu hiện bằng ngôn ngữ, mọi
thứ đều có tên gọi, mọi thứ đều được khái niệm hóa qua ký hiệu
ngôn ngữ, mọi vật đều được nhận thức và giải thích qua mẫu tự và
văn cú, ngôn ngữ diễn biến linh động để làm hiển lộ cái mầu
nhiệm bên trong, đó chính là sức mạnh của âm thanh. Mật tông cho
rằng thế giới được tạo ra bởi 14 nguyên âm và 33 phụ âm. Thể
nhập thực tại qua ngôn ngữ âm thanh là một phương cách đặc biệt
của Mật tông.
- Ý mật là sự
cảm nhận một cách trực tiếp của tâm. Ðó là cái tâm thuần túy,
không bị chi phối bởi các kiến thức, không phải cái tâm suy
nghĩa có đối tượng, mà tâm ấy nguyên vẹn đơn sơ cảm nhận trực
tiếp thực tại vô ngã, thực tại vô ngã ấy được cảm nhận qua nhiều
khía cạnh khác nhau. Thế giới tâm là một, Duy thức học gọi là
thế giới tánh cảnh. Tâm nhận thức trực tiếp những gì đang diễn
ra như thường nói: "Ðương thể tức không". Ðó là thực tại được
cảm nhận một cách tích cực.
- Thực hành
tantra (nghi thức) là tạo thế cân bằng hòa điệu của thân tâm,
rồi tạo mối quan hệ hay sự nối tiếp thân khẩu ý các vị tương ứng
với Tam mật của Phật, Phật cũng chính là vũ trụ thân. Ðó là sự
thể hiện hòa điệu giữa con người và vũ trụ. Sự gia trì Tam mật
của Phật sẽ nhập vào Tam mật của ta. Ðó gọi là Tam mật tương ưng
hay Tam mật du già.
-
C- Kết luận
- Những gì được
trình bày về Mật tông ở trên chỉ là những nét phác họa sơ sài,
còn nghĩa lý bí mật, phương pháp thực hành tantra của Mật tông
thì phức tạp vô cùng, cần phải nghiên cứu sâu rộng và hành trì
nghiêm túc may ra mới có cái nhìn chính xác và đầy đủ.
- Triết lý của
Mật tông là triết lý của Bát nhã Ba la mật (Prajnãpàramità) và
giáo lý Hoa Nghiêm cộng với Duy thức học. Sự phối hợp giáo lý
siêu nghiệm với hình thức ấn, chú, mandala... là một sự kết hợp
đặc biệt. Vũ trụ, thế giới, con người, vạn vật... đều mang một
giá trị thiêng liêng đối với một hành giả Mật tông. Nếu nhìn
phớt qua các biểu tượng và nghi quỹ của Mật tông có vẻ như sự
thành tín sơ khai hoặc mê tín, nhưng chính thái độ tinh thần
được thể hiện qua nghi quỹ ấy lại là hiển lộ mối liên hệ giữa
tinh thần và vật chất, giữa con người và vũ trụ với những năng
lượng vô cùng tận. Các biểu tượng Mật tông rất dễ bị ngộ nhận và
phê phán, tuy nhiên khi lặn sâu vào biển tâm, ta mới khám phá ra
được tác dụng và ý nghĩa của chúng, chúng là những phương tiện
diễn đạt những kinh nghiệm tâm linh sâu sắc nhất của hành giả.
- Triết lý và
phương pháp hành trì của Mật tông cơ bản vẫn xây dựng theo tiến
trình Giới-Ðịnh-Tuệ như tất cả mọi đường lối tu tập khác của
Phật giáo. Nó có mối liên hệ khá chặt chẽ với giáo lý Nguyên
thủy và giáo lý Ðại thừa. Sự khác biệt của Mật tông là ở phương
tiện để thể nhập thực tại (Tánh không, Vô ngã), đó là phương
tiện huyền bí.
- Sự phát triển
của đạo Phật tạo ra nhiều tông phái khác nhau và các phương pháp
hành trì khác nhau; đã là phương tiện thì "đa môn", cho nên bất
cứ phương tiện gì mà đưa đến niềm tin, loại bỏ chướng ngại nội
tâm, giúp cho tâm thực chứng giải thoát tối hậu thì đều được sử
dụng: Mật tông là một trong những phương tiện ấy./.
- -oOo-
-
Câu hỏi hướng dẫn ôn tập
- 1- Trình bày sơ lược
lịch sử hình thành và phát triển của Mật tông.
- 2- Giáo nghĩa cơ bản của
Mật tông là gì?
|
--o0o--
|
|