-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Cư Trần Lạc Ðạo
-
(Trọn bộ 3 tập)
-
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
- ---
o0o ---
-
-
Tập 1
-
- (8)
- Mười Ðiều Tâm
Niệm
- Ðiều
1: Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh khổ, vì
không bệnh khổ thì dục vọng dễ sanh. Hãy lấy bệnh khổ làm
thuốc thần.
- Ðiều
2: Ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì
kiêu xa nổi dậy. Hãy lấy hoạn nạn làm giải thoát.
- Ðiều
3: Cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì
không khúc mắc thì sở học không thấu đáo. Hãy lấy khúc mắc
làm thú vị.
- Ðiều
4: Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không ma chướng, vì
không ma chướng thì chí nguyện không kiên cường. Hãy lấy ma
quân làm bạn đạo.
- Ðiều
5: Việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì
lòng khinh thường kiêu ngạo. Hãy lấy khó khăn làm thích thú.
- Ðiều
6: Giao tiếp thì đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất
đạo nghĩa. Hãy lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ.
- Ðiều
7: Với người thì đừng mong tất cả thuận theo ý mình, vì
được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng. Hãy lấy người
chống đối làm nơi giao du.
- Ðiều
8: Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có
ý mưu đồ. Hãy coi thi ân như đôi dép bỏ.
- Ðiều
9: Thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải
động. Hãy lấy sự xả lợi làm vinh hoa.
- Ðiều
10: Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân
ngã chưa xả. Hãy lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh.
- * * * *
-
Trên thế gian này, cuộc
sống đầy dẫy những sự bất trắc, bất như ý, con người phải bon
chen quanh năm suốt tháng để sống còn, phải tranh đấu một cách
vất vã để vươn lên, để vượt qua những cơn sóng gió của cuộc đời,
những bước thăng trầm của thế sự. Con người thường mang tâm
trạng hoang mang, âu lo, sợ hãi khi hướng về tương lai, không
biết rồi đây ngày mai mình sẽ ra sao, cuộc đời của mình sẽ như
thế nào, chuyện gì sẽ xảy ra cho mình và người thân của mình?
Cho nên con người thường mong muốn mọi chuyện được bình yên,
suôn sẻ, may mắn, chuyện gì cũng đều tốt đẹp như ý. Lòng mong
muốn cao độ đó thường dẫn tới sự cầu nguyện, van xin Trời Phật
ban cho những điều mơ ước vượt tầm tay, tưởng chừng như ngoài
khả năng của con người.
- Chúng ta cần
nên biết rằng: Ðức Phật không phải là thần linh, chuyên ban
phước lành, ban ân sủng cho mọi người. Cũng không có lý do nào
Ðức Phật ban phước lành cho riêng mình, mà không ban cho người
khác. Thực ra, đạo Phật giảng dạy nhiều phương pháp hành trì,
gọi là "vô lượng pháp môn", để giúp con người tự lực, mạnh mẽ
vượt lên trên mọi sóng gió phiền não, khổ đau của cuộc đời, bước
ra khỏi vòng trầm luân sanh tử, tự tạo cuộc sống an lạc và hạnh
phúc cho chính mình. Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:"Hãy
tự thắp đuốc lên mà đi. Thắp lên với Chánh Pháp". Nghĩa là
chúng ta hãy tự thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ của chúng ta, bằng
cách học hiểu những lời dạy của Ðức Phật, và đem áp dụng trong
cuộc sống hằng ngày, để thấy được sự mầu nhiệm của Chánh Pháp,
để tự cứu mình và giúp đỡ người khác.
- * * *
- Trong kinh
sách của Phật giáo, những lời dạy quý báu có thể giúp đỡ chúng
ta vượt qua những cơn sóng gió của cuộc đời, vượt qua những bước
thăng trầm của thế sự, được ghi chép khắp nơi, chẳng hạn như
trong "Luận Bảo Vương Tam Muội", chúng ta có "Mười Ðiều Tâm
Niệm" cần nên thường xuyên chiêm nghiệm, suy tư, nghĩ tưởng
luôn luôn, để mỗi khi "bát phong" ập đến, nghĩa là sóng gió của
cuộc đời dồn dập xảy ra, chúng ta có thể đối phó, ứng xử một
cách dễ dàng hơn, không bị nhận chìm trong biển nước mắt của
phiền não và khổ đau.
- Ðiều
1: Ðiều thứ nhứt trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng:
"Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh khổ, vì
không bệnh khổ thì dục vọng dễ sanh. Hãy lấy bệnh khổ làm thuốc
thần". Tại sao vậy? Bởi vì khi nào con người còn
mang tấm thân tứ đại, thì còn đau khổ vì bệnh tật. Tấm thân tứ
đại bao gồm đất, nước, gió, lửa, thường xuyên chống trái nhau,
gây đau đớn, khổ sở cho con người. Người nào có phước nhiều thì
ít bệnh. Người nào ít phước, kém phước, bạc phước thì bệnh tật
triền miên. Cho đến khi hết duyên ở đời, con người phải ra đi,
nhưng tấm thân tứ đại này thì để lại, tan rả và trở về với tứ
đại trong trời đất. Cát bụi lại trở về với cát bụi, thế thôi.
Người nào tạo phước nhiều thì ra đi dễ dàng, nhẹ nhàng, êm thắm.
Người nào tạo nghiệp nhiều thì ra đi khó khăn, hành hạ thân xác,
khổ lụy người thân!
- Con người
không ai mong cầu bệnh khổ, cho dù cầu mong không bệnh khổ,
nhưng bệnh khổ vẫn cứ đến. Nếu không có bệnh khổ, con người khỏe
mạnh thường sinh dục vọng khó kềm chế. Thỏa mãn những dục vọng
này, con người gây thêm biết bao nhiêu là nghiệp báo, để rồi
phải đền trả, cho nên phải lăn lộn trong biết bao nhiêu kiếp
luân hồi sanh tử, bao giờ mới có thể dứt, có thể thoát ra được?
Bởi vậy cho nên, Ðức Phật dạy chúng ta đừng cầu không bệnh khổ,
nên coi bệnh khổ như là món thuốc thần, là tiên dược để điều trị
những dục vọng trong tâm thức của chúng ta. Dục vọng càng nhiều
chừng nào, con người càng phiền não và khổ đau chừng ấy. Ðạo
Phật là đạo cứu khổ nhân loại. Phật Pháp có công năng điều trị
tâm bệnh của chúng sanh. Chúng sanh có muôn ngàn tâm bệnh thì
Phật Pháp có tám muôn bốn ngàn pháp môn đối trị.
- Chẳng hạn như
người hay tham lam, bỏn sẻn thì pháp đối trị là hạnh bố thí.
Người nào hiểu được hạnh bố thí đem lại vô lượng vô biên phước
báu và thực hành được hạnh bố thí hằng ngày thì tâm tham lam,
bỏn sẻn sẽ giảm đi nhiều. Chẳng hạn như người hay nóng giận thì
pháp đối trị là quán từ bi. Con người tăng trưởng tâm từ bi được
thì những cơn nóng giận sẽ giảm đi rất nhiều. Cặp mắt của người
có tâm từ bi, luôn luôn thương nhìn cuộc đời, cư xử nhẹ nhàng,
dễ dãi với mọi người chung quanh, khó nổi cơn sân với những lỗi
lầm, sai trái của người khác, không lợi dụng lòng từ bi của mọi
người. Các bậc phụ huynh cần có tâm từ bi quảng đại mới có thể
giữ gìn được hạnh phúc trong gia đình. Các nhà giáo cần có tâm
từ bi quảng đại mới có thể thương yêu, dạy dỗ học sinh như con
ruột của chính mình. Các nhà tu cần có tâm từ bi quảng đại mới
có thể thương xót chúng sanh đang trầm luân đau khổ, phát nguyện
tu hành tinh tấn để tự độ và độ tha, sẵn sàng hy sinh, phục vụ
nhơn loại. Chẳng hạn như người hay cố chấp, sống để dạ chết mang
theo những lời người khác nói mích lòng thì pháp đối trị là tâm
hỷ xả. Người nào hiểu được rằng chứa chấp càng nhiều trong tâm
thức của mình thì càng bị trầm luân trong sanh tử luân hồi,
trong phiền não và khổ đau, chẳng ích lợi gì, bèn cố gắng phát
triển tâm hỷ xả, tự khắc sẽ cảm thấy khinh an, nhẹ nhàng, mắt sẽ
nhìn cuộc đời một cách lạc quan hơn, cuộc sống sẽ an lạc hơn.
- Ðiều
2: Ðiều thứ hai trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng:"Ở
đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu xa nổi
dậy. Hãy lấy hoạn nạn làm giải thoát". Tại sao vậy?
Bởi vì van xin cầu khẩn thực sự có được gì đâu. Con người kiếp
trước tạo ít phước báo, gây nhiều nghiệp báo, cho nên cuộc sống
kiếp này mới gặp nhiều hoạn nạn, bất trắc, bất như ý. Muốn cuộc
sống bớt hoạn nạn, vui nhiều hơn khổ, con người cần tích cực tu
tâm dưỡng tánh, làm phước tạo phước kiếm phước nhiều hơn, đừng
làm người khác đau khổ, dù bằng hành động, lời nói hay ngay cả
trong ý nghĩ cũng vậy. Chúng ta nên nhớ rằng: chỉ có phước báo
mới có thể che chở chúng ta qua những cơn hoạn nạn mà thôi.
Không có Trời Phật nào cứu chúng ta khi gặp hoạn nạn đâu. Cũng
như chỉ có chiếc ghe mới có thể chở chúng ta qua sông mà không
bị thấm nước vậy.
- Con người
không ai cầu mong hoạn nạn, cho dù mong cầu không hoạn nạn,
nhưng hoạn nạn vẫn cứ tới, nguyên do là chúng ta phải đền trả
những nghiệp báo đã tạo từ trước, không ai có thể tránh khỏi.
Những người nào sống ở trên đời không gặp hoạn nạn, làm việc gì
cũng thành công dễ dàng, người đó thường sanh tâm kiêu căng,
ngạo mạn, phách lối, tiêu xài xa xỉ, khinh thường thế nhân, nghi
kỵ mọi người, khiến mọi người xa lánh, không ai muốn gần gũi,
thân cận, vì chẳng ích lợi gì. Khi gặp hoạn nạn, con người
thường không còn tâm kiêu căng, vì kiêu căng thì gặp nạn, không
còn xa hoa phung phí, tâm không còn duyên theo cảnh trần, không
còn dễ nổi lòng tham lam, không còn dễ sân hận, không còn si mê
lầm lẫn, bởi vì tham thì gặp nạn, sân thì gặp nạn, ngu thì gặp
nạn! Nghĩa là hoạn nạn giúp cho con người sớm giải thoát khỏi
những trói buộc của tham lam, sân hận, si mê, ngã mạn, nghi kỵ,
chính là nghĩa đó vậy.
- Hơn nữa,
trong cuộc sống phức tạp, nhiều khi gặp hoạn nạn này, có thể
chúng ta tránh được hoạn nạn khác lớn hơn. Thí dụ như có người
vì thua bạc nên mất vé tàu đi du lịch, cho nên thoát chết, vì
chuyến tàu đó bị chìm đắm ngoài biển khơi! Nghĩa là có khi trong
hoạn nạn, chúng ta có thể tìm được sự may mắn, hay bài học, hoặc
kinh nghiệm nào đó vậy. Không có chuyện gì hoàn toàn xui xẻo,
không có chuyện gì hoàn toàn may mắn cả. Chẳng hạn như trúng số
độc đắc có thể giúp chúng ta mua nhà, tậu xe, làm ăn buôn bán,
cũng có thể gây bất hòa trong gia đạo, làm cho gia đình tan nát,
hay trộm cướp viếng thăm, hoặc mừng quá nghỉ thở luôn! Chẳng hạn
như tù tội gian khổ, đối với bậc thánh nhân, phi phàm, là cơ hội
tốt nhứt để rèn luyện tâm tánh, để suy tư sáng tác những tác
phẩm để đời! Biết bao nhiêu bậc vĩ nhân, hiền triết trên thế
giới xuất thân từ ngục tù! Còn đối với kẻ hèn yếu, hoạn nạn
chính là địa ngục trần gian, nhận chìm họ trong biển khổ đau,
phiền não!
- Ðiều
3: Ðiều thứ ba trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng:"Cứu
xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì
sở học không thấu đáo. Hãy lấy khúc mắc làm thú vị".
Tại sao vậy? Bởi vì tâm tánh của chúng ta, vì duyên theo cảnh
trần, cho nên không cố định, thường xuyên thay đổi. Gặp cảnh
thuận lòng vừa ý, tâm trạng của chúng ta vui tươi, hớn hở, hỷ
hạ, hân hoan, hài lòng. Gặp cảnh trái tai gai mắt, tâm trạng của
chúng ta nổi sóng gió ngay, nhẹ thì còn giữ được trong lòng,
nặng thì phun ra miệng những cơn bực dọc, tức tối. Gặp đối
phương biết nhẫn nhịn, thì mọi việc còn có thể êm xuôi, qua
chuyện. Gặp phải người cứng cổ, cang cường, ngoan cố, thì câu
chuyện không biết sẽ kết thúc như thế nào? Có thể người đi nhà
thương hay vào nhà xác, còn người khác đi nhà tù!
- Trong Kinh
Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Căn bản của sanh tử luân
hồi là vọng tâm. Căn bản của bồ đề niết bàn là chơn tâm".
Nghĩa là tâm tánh của chúng ta luôn luôn xao xuyến, loạn động,
bất an, được gọi là "vọng tâm", tức là tâm vọng động vì duyên
theo cảnh trần. Lúc tâm trạng buồn thảm, thê lương, thì chúng ta
cảm thấy cảnh vật chung quanh cũng chẳng có gì vui vẻ cả. Trái
lại, khi trong lòng thấy vui, có niềm hoan hỷ, chúng ta cảm thấy
cảnh vật chung quanh dường như đang chia xẻ niềm vui hân hoan đó
với chúng ta. Chính vọng tâm là căn bản của sanh tử luân hồi.
Tại sao vậy? Bởi vì vọng tâm lúc vui lúc buồn, lúc thương lúc
ghét, lúc tốt lúc xấu, lúc nghĩ chuyện đông lúc nghĩ chuyện tây,
lúc nghĩ chuyện hiện tại, lúc nghĩ chuyện quá khứ, vị lai, lúc
vầy lúc khác, lúc có lúc không, lúc còn lúc mất, sanh diệt liên
miên trong từng sát na, trong từng giây phút, ví như con ngựa
chạy lung tung linh tinh lang tang khắp chốn, ví như con vượn
chuyền từ cành cây này sang cành cây khác khắp nơi vậy.
- "Vọng tâm" là
động lực chính dẫn dắt chúng sanh tạo nghiệp trong vòng sanh tử
luân hồi. Muốn tâm được an, mỗi khi vọng tâm khởi lên, chúng ta
nhận biết ngay, dừng lại lập tức, đừng theo đuổi nó, thì được
giải thoát khỏi những hệ lụy ưu phiền sau đó, phiền não và khổ
đau sẽ không đến! Khi sống ở đời, tiếp xúc với mọi cảnh, mọi sự,
mọi việc, vẫn sinh hoạt như bao nhiêu người khác, nhưng tâm vẫn
như như, an định, không xao xuyến, không loạn động, tức là chúng
ta đang sống trong cảnh giới niết bàn, an lạc, tịch diệt, nói
cách khác, lúc đó chúng ta sống với "chơn tâm" đó vậy. Chơn tâm
ví như mặt biển yên lặng, phẳng lờ, rộng rãi, bao la bát ngát.
Vọng tâm ví như những ngọn sóng do gió thổi gây nên, gió nhẹ
sóng nhỏ, gió mạnh sóng to. Sách có câu: Tâm buồn cảnh được
vui sao. Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an.
- Tục ngữ cũng
có câu: "Dò sông dò biển dễ dò. Ðố ai lấy thước mà đo lòng
người". Nghĩa là tâm tánh của con người biến thiên không cùng,
lòng dạ con người còn khó dò hơn sông hơn biển, cho nên khi cứu
xét tâm tánh, chúng ta không thể nào tránh được những khúc mắc.
Chúng ta đừng nãn lòng vì những khúc mắc đó. Bởi vì chính những
khúc mắc đó giúp chúng ta thêm nhiều thú vị, hăng hái hơn trên
bước đường tu tâm dưỡng tánh, xả bỏ những tạp niệm, vọng tâm,
loạn tưởng. Chúng ta luôn luôn thúc liễm thân tâm trong từng
giây phút, đừng để vọng tâm dối gạt, nghĩ rằng mình tu đã khá
lắm rồi, đã hiền thiện lắm rồi, đã đạt được điều này điều nọ. Có
những lúc chúng ta làm những điều bất thiện, lợi mình hại người,
kiện thưa người khác, đòi bồi thường bạc triệu, đó là lòng tham
lam. Chúng ta đem bố thí hay cúng chùa vài chục bạc, vọng tâm
dối gạt mình: thế là xong, hết tội rồi! Trong thiền tông, chư Tổ
dạy chúng ta phải "sống trong tỉnh thức", hay "sống trong chánh
niệm", chính là nghĩa đó vậy.
- Ðiều
4: Ðiều thứ tư trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng:"Xây
dựng đạo hạnh thì đừng cầu không ma chướng, vì không ma chướng
thì chí nguyện không kiên cường. Hãy lấy ma quân làm bạn đạo".
Tại sao vậy? Bởi vì ma chướng ở đây có nghĩa là những lời khen
tiếng chê, là danh thơm hay tiếng xấu. Nếu chúng ta có thể coi
những người khen chê như những người giúp đỡ chúng ta trên bước
đường tu tập, rèn luyện tâm tánh, thì chính họ là bạn đạo, là
thiện hữu tri thức, là bồ tát nghịch hạnh, là giám khảo trên
đường đạo của chúng ta vậy. Bởi vì ma chướng ở đây cũng có nghĩa
là những sóng gió của cuộc đời, những chuyện phiền não khổ đau,
những chuyện thị phi phải quấy, những chuyện bất trắc bất như ý,
những chuyện lăng xăng lộn xộn hằng ngày. Thông suốt được như
vậy, chí nguyện của chúng ta mới kiên cường, không thoái chuyển,
khi gặp lời khen hay tiếng chê, danh thơm hay tiếng xấu, khi gặp
bát phong của cuộc đời, và tâm trí của chúng ta mới không bị
giao động.
- Chúng ta
không ai mong cầu ma chướng, cho dù cầu mong không ma chướng,
nhưng ma chướng vẫn cứ tới đều đều. Trên đời này có thiếu gì
những kẻ luôn luôn dòm ngó người khác, để vạch lá tìm sâu, để
bới lông tìm vết, trong khi bản thân họ thì đủ thứ thói hư tật
xấu. Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Khi
lên tiếng phê bình lỗi của người khác, thì lỗi của mình đã ở
ngay bên chân rồi đó vậy". Tuy nhiên, dù ma chướng có tới
thường xuyên cở nào, nếu biết tu tâm dưỡng tánh, chúng ta cũng
có thể chấp nhận được, chịu đựng được, coi đó như là những thử
thách cần thiết để nhắc nhở chúng ta rèn luyện tâm tánh, chuyển
hóa cuộc sống từ phiền não khổ đau thành an lạc hạnh phúc. Sách
có câu: "Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả. Anh hùng hào kiệt có
hơn ai", chính là nghĩa đó vậy.
- Ðiều
5: Ðiều thứ năm trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng:
"Việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng
khinh thường kiêu ngạo. Hãy lấy khó khăn làm thích thú".
Tại sao vậy? Bởi vì việc làm nào càng khó khăn, càng gian khổ
bao nhiêu, mà chúng ta có thể vượt qua, đạt được thành công,
thắng lợi, thì việc làm đó càng vinh quang, hiển hách bấy nhiêu.
Chẳng hạn như bài toán càng khó khăn bao nhiêu, khi giải được,
tìm được kết quả, càng thích thú bấy nhiêu. Việc làm nào dễ
thành chỉ là những việc làm tầm thường, không có giá trị cao,
hoặc người thực hiện có thừa khả năng, cho nên dễ sanh ra khinh
thường mọi việc, kiêu ngạo, coi trời bằng nắp vung.
- Ở trên thế
gian có nhiều việc rất khó khăn, ít người thành đạt, chẳng hạn
như thi đậu bằng cấp này, bằng cấp kia, tìm ra món thuốc điều
trị mới, phát minh ra máy móc hiện đại, tối tân, sáng chế ra
cách thức làm việc khoa học hơn, đem lại năng xuất cao hơn. Các
bậc anh hùng cứu quốc, có thể đem lại độc lập, tự do, no ấm cho
một dân tộc, không phải ai ai cũng có thể làm được một cách dễ
dàng. Trên phương diện xuất thế gian, việc tu tâm dưỡng tánh
cũng vậy, nếu ai ai tu tập sơ sài, cũng có thể thành Phật được,
thì quả vị Phật đâu còn giá trị bao nhiêu. Một vị Phật ra đời
đem lại phước báu, ích lợi cho biết bao nhiêu chúng sanh, trong
biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp, không thể nghĩ bàn. Có những
người tu hành đạt được vài thành quả nhỏ nhoi, cũng tưởng đâu đã
thành Phật, thành thánh nhơn, không ai bằng!
- Ðiều
6: Ðiều thứ sáu trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng:
"Giao tiếp thì đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất
đạo nghĩa. Hãy lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ".
Tại sao vậy? Bởi vì những mối lợi, dù nhỏ dù lớn, trên thế gian,
cũng đều là những mục tiêu tranh giành, chiếm đoạt của bao nhiêu
người. Người đời thường không ngại dùng đủ mọi thủ đoạn, để
tranh danh đoạt lợi, cho nên bất chấp đạo nghĩa, luân lý, tình
thương, quan hệ. Con người sẵn sàng thượng đội hạ đạp, chà đạp
mọi người chung quanh, chỉ vì chút danh lợi nhỏ nhoi. Danh lợi ở
đời ví như những miếng mồi câu cá. Cá nhỏ tới ăn miếng mồi liền
bị cá lớn đớp gọn! Cá lớn đớp cá nhỏ xong, thì bị lưới lên ghe
ngay tức thì! Có người chán danh lợi thế gian, hoặc không đủ khả
năng tranh đua, kiếm sống ngoài đời, bèn đi tìm danh lợi trong
chốn thiền môn! Thiệt là tội nghiệp!
- Trong Kinh A
Hàm, Ðức Phật có dạy: "Khi tới ngã ba đường, nếu thấy cái cây
đầy trái chín mọng, không ai hái ăn, thì nên hiểu rằng đó là
trái độc". Nghĩa là ở đời không có mối lợi lớn nhỏ nào dành
sẵn cho mình hưởng, hay người khác đem dâng tặng mình, mà không
có cái bẫy rập độc hại bên trong, bên dưới, hay phía sau, chờ
đợi người tham lam, mê muội, thiếu suy nghĩ. Người đời thường
thả con tép để bắt con tôm. Người nào tham lợi lớn, ham lời
nhiều, thường hay bị lợi dụng, bị sập bẫy một cách dễ dàng, ví
như cá thường hay cắn câu vậy. Cũng như những người không cố
gắng tu tâm dưỡng tánh, không chịu học hiểu Chánh Pháp, không
làm lợi ích gì cho chúng sanh, cho đạo pháp, chỉ tham danh lợi,
thích sự sung sướng, thì quả báo, nghiệp báo tới liền sau đó.
- Trong phạm vi
gia đình, nếu vợ chồng con cái giao tiếp với nhau hằng ngày mà
không biết thương yêu nhau, không biết nghĩ đến nhau, không biết
hy sinh cho nhau, người nào cũng chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng
mình, chỉ nghĩ đến sự sung sướng bản thân, thì còn gì là đạo
nghĩa vợ chồng, còn gì là tình cha con, còn gì là mẫu tử tình
thâm, còn gì gọi là hạnh phúc gia đình?
- Trong phạm vi
xã hội, trong lúc giao thiệp tiếp xúc hằng ngày, người nào chỉ
nghĩ đến, chỉ mong cầu lợi mình, bất chấp hại người, người đó
làm sao sống hòa thuận, yên ổn, vui vẻ với những người chung
quanh? Người quá ích kỷ như vậy làm sao kết bạn được với ai, làm
sao sống cuộc đời hạnh phúc? Hạnh phúc thực sự chỉ có với những
người biết hai chữ "hy sinh" mà thôi. Trong cuộc đời, những kẻ
ích kỷ, tệ bạc, chỉ biết lợi mình, bất chấp hại người, chẳng kể
nhân tình, chẳng màng đạo nghĩa, nhiều không biết bao nhiêu mà
kể cho xiết. Nhưng chính những người như vậy lại là kẻ giúp đỡ
người biết tu tâm dưỡng tánh, để rèn luyện tâm tánh của mình. Có
gặp những kẻ tệ bạc như vậy mà tâm trí của chúng ta vẫn như như,
bất động, bình tỉnh, thản nhiên, mới biết được công phu tu tập
của mình đến đâu. Nếu tất cả mọi người đều tốt, đều hiền thiện,
đều biết đạo nghĩa, thì chúng ta đâu biết tâm mình ra sao? Bởi
vậy cho nên, người nào thực sự muốn phát tâm tu học, thì ngay
cuộc đời này, ngay cõi ta bà ngũ trược ác thế này, chính là
trường tu tốt nhứt vậy, không cần phải đợi vãng sanh tây phương
cực lạc mới chịu bắt đầu tu. Tại sao vậy? Bởi vì cõi tây phương
cực lạc, như Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy trong Kinh A Di Ðà, là
nơi chỉ toàn bậc thánh nhơn, chư thượng thiện nhơn câu hội, đâu
cần phải tu làm gì nữa, đâu có chỗ chứa hạng phàm phu không chịu
tu!
- Ðiều
7: Ðiều thứ bảy trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng:"Với
người thì đừng mong tất cả thuận theo ý mình, vì được thuận theo
ý mình thì lòng tất kiêu căng. Hãy lấy người chống đối làm nơi
giao du". Tại sao vậy? Bởi vì sách có câu "năm
người mười ý", đâu ai có ý kiến giống ai, mỗi người thường có ít
nhứt hai ý kiến trong cùng một vấn đề, nay vầy mai khác, thì làm
sao bắt buộc người khác phải thuận theo ý mình? Tại sao mình lại
không thuận theo ý người khác? Con người vì sự cố chấp, chấp
chặt như vậy cho nên phiền não và khổ đau dài dài!
- Trong gia
đình, nếu người chồng hay người vợ cố chấp, bảo thủ ý kiến của
riêng mình, thì làm sao gia đình đó có hạnh phúc được? Cái gì
của mình cũng đúng, cũng hay, cũng nhứt cả, thì làm sao chịu
nghe ý kiến của người khác? Cha mẹ và con cái thuộc hai thế hệ
khác nhau, thì tức nhiên ý kiến, suy nghĩ, hoàn cảnh, môi trường
sinh hoạt, tất cả đều khác nhau, không thể khai trừ nhau, cho
nên phải tùy thuận nhau mà sống, mới có được hạnh phúc trong gia
đình. Trong thập đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, điều thứ chín
dạy: "Hằng thuận chúng sanh", chính là nghĩa đó vậy. Tuy nhiên,
tùy thuận chúng sanh không có nghĩa là một người trong gia đình
có lòng tham lam, xúi giục cả gia đình tham lam theo, bất chấp
thủ đoạn, lợi mình hại người!
- Trong phạm vi
xuất thế gian, người tu theo pháp môn này chê bai pháp môn khác
cũng đều không đúng. Tại sao vậy? Bởi vì đạo Phật có nhiều pháp
môn tương ứng, thích hợp, tùy theo căn cơ, trình độ, hoàn cảnh,
sở thích của mỗi người, để mọi người đều có thể tu tập được.
Chúng ta không nên nghĩ mọi người phải tu như mình, hành như
mình, mới là đúng. Ý nghĩ như vậy, tư tưởng như vậy chỉ làm cho
chúng ta càng ngày càng trở nên kiêu căng, phách lối, ngạo mạn,
chê người, khinh đời. Trái lại, chúng ta nên giao du với những
người chống đối, trái ý, để luôn luôn suy xét, hoàn chỉnh ý kiến
của mình, chuyển hóa tâm tánh của mình, để học hỏi thêm cái hay
cái tốt của họ. Nhờ có những người nghịch ý, chống đối như vậy
chúng ta bớt lòng kiêu căng. Ví như chiếc xe có máy móc để chạy,
cũng cần có cái thắng mới hữu dụng vậy. Nếu không có cái thắng,
chắc chắn có ngày cũng lọt xuống hố mà thôi.
- Ðiều
8: Ðiều thứ tám trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng:
"Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có
ý mưu đồ. Hãy coi thi ân như đôi dép bỏ". Tại sao
vậy? Bởi vì chúng ta thi ân, làm ơn vì lòng tốt, chứ không phải
vì muốn được cám ơn, nhớ ơn hay đền ơn. Làm ơn mà muốn được cám
ơn, muốn được nhớ ơn, nghĩa là con người còn bản ngã, còn vì
danh tiếng mới chịu làm. Làm ơn mà muốn được đền ơn, nghĩa là
con người còn bản ngã, còn vì lợi lộc mới chịu làm. Làm ơn như
vậy chẳng có phước báu gì, chẳng được người khác mang ơn, mà còn
chuốc lấy oán hờn, thù ghét, chuốc lấy ưu phiền, bực tức, khi
gặp mặt kẻ vô ơn, bạc nghĩa. Làm ơn như vậy rõ ràng là có mưu
đồ, làm ơn thì ít, mà muốn được đền ơn gấp bội phần. Chẳng hạn
như khi đến phúng điếu, giúp đỡ tang quyến người khác chẳng bao
nhiêu, lại muốn được "trả công bội hậu" ở nước thiên
đàng, thì quả là tham lam quá xá.
- Trong Kinh
Kim Cang, Ðức Phật có dạy: "Thi ân, bố thí bất trụ tướng,
phước đức bất khả tư lượng". Nghĩa là chúng ta làm ơn bố
thí, nhưng không chấp mình là người ban ơn làm phước, không thấy
có người thọ nhận việc phước mình làm, không nhớ mình làm phước
giúp đỡ điều gì, không tính mình giúp đỡ bao nhiêu người. Ðược
như vậy, chúng ta sẽ ăn ngon ngủ yên, tâm trí không bất an vì
những chuyện phước đã làm, vì gặp những người vô ơn, không tiếc
nuối những vật đã đem cho, không ân hận đã giúp đỡ lầm người.
Làm ơn có nghĩa là làm phước, tạo phước bòn phước, cứu đời giúp
người, khi cần thiết, lúc hoạn nạn, chỉ vì lòng tốt, vì tâm
lượng từ bi, vì muốn chuyển hóa tâm tánh của chính mình, thì như
vậy mới có thể làm ơn được lâu dài, giúp được nhiều người, nhiều
lần và phước báu vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. Sách có
câu: "Thi ân bất cầu báo đáp", chính là nghĩa đó vậy. Hàng phục
được tâm ý, chuyển hóa được tánh tình như vậy, chúng ta mới có
thể phát nguyện độ tất cả chúng sanh, mà không thấy có chúng
sanh nào được độ. Cho nên Ðức Phật dạy hãy coi thi ân như đôi
dép bỏ, làm ơn làm phước xong rồi thì quên ngay đi, bỏ qua liền,
đừng ghi nhớ trong tâm thức cho thêm phần nặng nề. Ðược như vậy,
chúng ta mau tiến đến chỗ giác ngộ và giải thoát.
- Ðiều
9: Ðiều thứ chín trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng:
"Thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải
động. Hãy lấy sự xả lợi làm vinh hoa". Tại sao vậy?
Bởi vì lợi lộc trên đời thường do tranh đấu, giành giựt, bon
chen, bất chấp mọi thủ đoạn, bất chấp nhơn nghĩa, bất chấp đạo
lý, mới có được. Lợi lộc không từ trên trời rơi xuống, không ở
dưới đất trồi lên. Khi thấy có lợi lộc, cả khối người nhào vô,
sẵn sàng chà đạp, gạt gẫm, loại trừ, giết hại lẫn nhau để chiếm
đoạt cho bằng được.
- Nhiều khi lợi
lộc quá lớn lao, có thể khiến cho con người đánh mất lương tri,
sẵn sàng thanh toán người thân lẫn kẻ thù, chỉ nhằm đoạt được
mục tiêu mà thôi. Chẳng hạn như một thái tử âm mưu sát hại phụ
hoàng để chiếm ngai vàng, con cái giết hại cha mẹ để đoạt gia
tài, bạn bè cáo gian để hại nhau, chiếm đoạt tài sản, vợ con
người khác. Con người vì ham lợi lộc cho nên chuyện gì cũng dám
làm, coi lợi lộc như vinh hoa phú quí cần phải có trên thế gian,
để ngẫng mặt nhìn đời cho có oai phong ngon lành. Chính vì thế
tâm si mê phải động, sai khiến con người làm tất cả mọi chuyện
để thỏa mãn lòng tham lam của mình. Con người khi thấy lợi lộc
liền nhúng tay vào, mà chẳng cần biết hậu quả ra sao? Ðó chính
là tâm si mê vậy.
- Các sòng bạc
được mở ra khắp nơi, chính là những cái bẩy khổng lồ nuốt tiền
của những người nhẹ dạ ham vui tham tiền, hình như ai ai cũng
biết vậy, nhưng người nào cũng vẫn nuôi hy vọng là mối lợi to
lớn ở các sòng bạc đó, biết đâu may mắn đến với mình, cho nên
mạnh mẽ nhào vô lãnh đủ. Có nhiều người tán gia bại sản, nợ nần
tứ tung, nhưng vẫn không chừa, vẫn không không biết sợ! Tục ngữ
có câu: "Cờ bạc là bác thằng bần. Cửa nhà bán hết nợ nần tứ
tung". Có cửa nhà để bán trả nợ là còn có phước đó! Người nào
muốn tu tâm dưỡng tánh thì phải xả bỏ tâm tham lợi, tâm si mê,
phải biết sống cuộc đời thiểu dục tri túc, ít muốn và biết thế
nào là đủ, tâm mới được khinh an, thơi thới, nhẹ nhàng, cuộc
sống mới được an lạc, cuộc đời mới được hạnh phúc.
- Trong Kinh Di
Giáo, Ðức Phật có dạy:
- Tri túc chi nhơn tuy ngọa địa
thượng du vi an lạc.
Bất tri túc giả thân xử thiên đường diệc bất xứng ý.
- Nghĩa là
người biết thế nào là đủ, không tham lợi lộc, thấy lợi lộc không
nhúng tay vào, tuy nằm trên đất nhưng vẫn thấy an lạc hạnh phúc,
bình yên vui vẻ. Chỉ cần "biết" đủ, thì đã quá đủ rồi. Trái lại,
người nào không "biết", thì không bao giờ thấy đủ, tấm thân tuy
được ở trên thiên đường, tiền rừng bạc biển, giàu sang sung
sướng, nhưng tâm ý vẫn chưa thỏa mãn, cố gắng kiếm cho thiệt là
nhiều tiền vẫn chưa chịu thôi, chưa chịu ngưng, chưa chịu an
hưởng tuổi già gần đất xa trời. Sách cũng có câu:
- Tri túc tiện túc đãi túc hà
thời túc.
Tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời nhàn.
- Nghĩa là
"biết" thế nào là đủ, tức thời được đầy đủ ngay lập tức, không
cần phải đợi đến lúc có thiệt nhiều tiền mới thấy đủ. Bao nhiêu
mới gọi là nhiều đối với người không biết đủ? "Biết" thế nào là
nhàn, tức thời được nhàn nhã ngay lập tức, không cần phải đợi
đến già, hay lúc nào hết. Nói tóm gọn là "biết" đủ thì đủ,
"biết" nhàn thì nhàn. Không "biết" thì cực khổ tấm thân vậy
thôi.
- Ðiều
10: Ðiều thứ mười trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng:
"Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã
chưa xả. Hãy lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh". Tại
sao vậy? Bởi vì con người kiếp trước tạo ít phước báo, gây nhiều
nghiệp báo, cho nên kiếp này mới gặp nhiều điều oan ức. Cho nên
khi gặp chuyện oan ức, không cần phải than trời trách đất gì cả.
Muốn cuộc sống bớt những điều oan ức trái ngang, con người cần
tích cực tu tâm dưỡng tánh, cần cố gắng làm phước nhiều hơn, cố
tránh đừng gieo tiếng oán, đừng loan truyền tin đồn, đừng vu oan
giá họa, đừng làm đau khổ cho người khác, dù cho đó là kẻ thù
của mình, kẻ mình không ưa cũng vậy.
- Người nào nói
xấu mình, mình bèn tìm đủ cách nói xấu lại, cho bỏ ghét. Người
nào hại mình, mình bèn tìm đủ cách hại lại nặng hơn, cho đáng
đời. Người nào không chịu giúp mình, không tốt với mình, mình
bèn tìm đủ mọi cách trả thù, cho hả giận, rỉ tai biêu riếu, vu
khống cáo gian, vu oan giá họa, kiện cáo tụng đình, cho chúng
chết luôn, cho chúng mạt luôn, khỏi ngóc lên nổi. Mình cho rằng
người ta xấu xa, người ta ác độc, người ta bất chính, người ta
bất lương, người ta bất thiện, người ta bất nhơn, người ta ác
đức, người ta dã man, mà mình cũng làm y như vậy, chỉ khoác danh
nghĩa "trả thù", thì mình có khác gì người ta đâu? Phản ứng y
chang những điều người đời làm cho mình thực là dễ dàng. Còn như
nhịn được mới thực là khó khăn vô cùng. Nhịn được như vậy chứng
tỏ chúng ta không còn chấp mình nhận chịu khổ đau, không còn
chấp người tạo đau khổ cho mình, tức là chúng ta đã thấu rõ và
hành được "giáo lý vô ngã" của đạo Phật. Trong giáo lý vô ngã
của đạo Phật, không có cái gì là "Ta", nên không có gì là "của
Ta". Ðó chính là triết lý cao thượng vô cùng mà chúng ta cần
phải nghiên cứu, tìm hiểu cho thấu đáo, để khi gặp chuyện oan ức
trên thế gian này, chúng ta vẫn giữ được tâm trí bình tĩnh, thản
nhiên. Ðược như vậy, oan ức chính là cữa ngõ tiến vào con đường
đạo hạnh.
- Người nào có
nhiều "tự ái", thường cho rằng ta đây là nhứt, cái gì của mình
cũng đứng nhứt, cái gì liên quan đến mình cũng nhứt, chấp nhứt
từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ nhặt, chẳng bao giờ chịu nghe lời
khuyên, thường thấy lỗi lầm của người khác, không bao giờ cho là
mình có lỗi gì cả, bất cứ chuyện gì xảy ra cũng tìm đủ mọi cách,
viện đủ lý lẽ, đổ lỗi người này, đổ thừa người kia, tại thế này,
bị thế khác, chứ không bao giờ tại mình, bởi mình, do mình mà
chuyện sai trái xảy ra cả! Người như vậy chính là người có "tâm
chấp ngã" quá cao. Cho nên người đó vẫn còn lẫn quẩn trong vòng
sanh tử luân hồi. Tại sao vậy? Bởi vì những người như vậy rất
nhạy cảm, phản ứng nhanh lẹ, khi tiếp xúc với cảnh trần đời. Một
lời nói vô tình, một ý kiến trái nghịch, một việc làm không vừa
ý, một cử chỉ vụng về của người khác, tất cả đều có thể khiến
cho những người như vậy nổi sân, bực tức, khó chịu, gây gổ, phê
phán, bình phẩm, chỉ trích, miệt thị, hơn thua, sống để dạ, chết
mang theo. Nghĩa là vọng tâm của họ khởi lên đều đều mỗi ngày,
mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây. Những người như vậy thường xuyên
sống trong tâm trạng bất an, vọng động, thậm chí đau khổ nhiều
thứ, nhiều mặt bởi vì kho tàng tâm thức chứa nhóm quá nhiều
phiền não.
- * * *
- Tóm lại,
chúng ta nên biết rằng ngoài biển khơi lúc nào cũng có gió thổi,
tùy theo gió nhẹ thì sóng nhỏ, gió to thì sóng cả. Tâm của chúng
ta ví như mặt biển cả, tùy theo "bát phong" của thế gian thổi
đến, chẳng hạn như lúc thịnh lúc suy, lúc khen lúc chê, lúc danh
dự, lúc tủi nhục, lúc sung sướng lúc đau khổ, đối với người
không biết tu tâm dưỡng tánh thường để cho lòng nổi sóng, chìm
đắm trong vui mừng tột độ, hay đau khổ triền miên. Còn đối với
người quyết tâm tu tập thì cố gắng giữ gìn tâm ý bất động, bất
loạn, như như, bình tĩnh, thản nhiên trước mọi phong ba của cuộc
đời. Ðược như vậy, chắc chắn đời sống an lạc, hạnh phúc, tâm
linh giác ngộ, giải thoát. Ðó là cảnh giới niết bàn, tịch diệt,
chính là mục đích cứu kính của đạo Phật.
- Chư Tổ có
dạy: "Nếu chấp nhận trở ngại thì lại thông suốt, mà mong cầu
thông suốt thì sẽ bị trở ngại". Chúng ta đừng cầu không bệnh
khổ, đừng cầu không hoạn nạn, đừng cầu không khúc mắc, đừng cầu
không bị ma chướng, đừng cầu lợi cho mình, đừng cầu tất cả đều
thuận theo ý mình, đừng cầu được báo đáp, đừng cầu không bị oan
ức. Tại sao vậy? Bởi vì cầu nguyện thực sự có được gì đâu, chỉ
làm cho tâm trí chúng ta thêm rối loạn khi gặp nghịch cảnh, bất
trắc mà thôi. Chúng ta hãy cùng suy gẫm câu chuyện sau đây: Có
một bà lão đến gặp Thiền sư Triệu Châu thưa hỏi cầu nguyện cách
nào có thể giúp bà, kiếp này chuyển được phiền não khổ đau thành
an lạc hạnh phúc, kiếp sau được lên thiên đàng, không đọa địa
ngục? Thiền sư Triệu Châu dạy bà khấn nguyện như thế này: Tôi
nguyện đời đời kiếp kiếp chấp nhận sống trong đau khổ, chấp nhận
địa ngục, còn an lạc hạnh phúc và cõi thiên đàng xin dành cho
người khác!
- Ngày nay,
người tu học theo đạo Phật nên dấn thân trong mọi sự trở ngại,
không quản khó khăn, không sợ trắc trở. Cho nên trở ngại, khó
khăn, trắc trở không thể cản được bước đường tiến tu, không làm
cho chúng ta chán nản, sờn lòng, muốn xa lánh cõi đời, mong cầu
về cõi cực lạc sung sướng cho dễ tu hơn. Chánh Pháp chí thượng
nhờ vậy mới được sáng tỏ. Chúng ta cần tích cực tu tâm dưỡng
tánh, mở mang trí tuệ bát nhã, "chiếu kiến ngũ uẩn giai không,
độ nhứt thiết khổ ách". Nghĩa là khi thấy được, hiểu được,
"biết" được một cách rõ ràng tấm thân tứ đại, ngũ uẩn này là
không thực, là giả tạm, nay còn mai mất, muốn duy trì, giữ gìn
mãi mãi cũng không được, muốn trẻ mãi không già cũng chẳng được,
muốn khỏe mãi không đau cũng chẳng được, "biết" được như vậy,
hiểu được như vậy, thấy được như vậy, thì khổ ách nào mà chẳng
qua. Nếu chúng ta thực sự thấy được tất cả các pháp trên thế
gian này đều không thực, không tự tánh, không cố định, không tồn
tại vĩnh viễn, thì khi đó chúng ta đủ khả năng vượt qua mọi sóng
gió của cuộc đời, vượt qua tất cả mọi khổ ách, đáo bỉ ngạn, đến
được bờ giác ngộ và giải thoát vậy.
--o0o--
|
|