-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
- Cư Trần Lạc
Ðạo
-
(Trọn
bộ 3 tập)
-
Toronto, Canada
1999 - PL 2543
- ---
o0o ---
-
-
Tập 1
-
- (10)
- Phước Báu
-
Trong cuộc sống hằng ngày
chúng ta thường nghe nói: Người này "có phước" quá, cho nên mới
được vừa giàu sang, vừa học giỏi, vừa đẹp đẽ, vừa mạnh khỏe, vừa
may mắn, cầu con được con, cầu của được của, vạn sự như ý, tùy tâm
mãn nguyện. Hoặc cũng có khi chúng ta nghe nói: Người này "bạc
phước" quá, cho nên làm chuyện gì cũng thua lỗ, tính toán việc gì
cũng hỏng, muốn gì cũng không nên, cầu gì cũng chẳng được, tai họa
xảy ra tới tấp, gặp xui xẻo liên miên! Khi được may mắn, khi được
sung sướng, khi được những sự như ý, khi được tất cả những điều
gọi là "có phước", người đời thường nghĩ rằng, cho rằng:
mình có phước báu như vậy là do trời thương, trời ban cho mình!
Những người đó không chịu tìm hiểu thêm: Tại sao ông trời lại
thương mình và ban cho mình phước báu như vậy, mà không ban cho
biết bao nhiêu người khác? Như vậy có phải là bất công chăng? Như
vậy có đúng chăng? Tại sao con người lại có ý nghĩ như vậy?
- Sở dĩ con người
có ý nghĩ như vậy là do tâm ích kỷ nhiều đời, do tập khí tham lam
bỏn sẻn, do tánh ganh tị đố kỵ mà ra. Con người khi được sung
sướng, thì mặc kệ người khác ra sao, chẳng bận tâm đoái hoài, đó
là tâm ích kỷ. Con người khi được toại nguyện, muốn gì được nấy,
thì mặc kệ người khác ra sao, thậm chí trong lòng còn chẳng muốn
ai khác được như vậy, đó là tập khí tham lam bỏn sẻn. Con người
khi được thành công thắng lợi, thì mặc kệ người khác ra sao, chẳng
muốn ai khác bằng mình hay hơn mình, đó là tánh ganh tị đố kỵ vậy.
- Thực ra, không
có ông trời, thượng đế, hay đấng tạo hóa nào làm những chuyện bất
công, thiên vị như vậy. Những "phước báu" chúng ta đã hưởng, đang
hưởng, và sẽ hưởng, chính do chúng ta đã tạo trong nhiều kiếp
trước và ngay trong kiếp này. "Mình làm mình chịu, mình làm
mình hưởng" mới là lẽ công bằng tuyệt đối vậy. Cũng không ít
người thắc mắc: Làm sao biết mình "có phước" hay không? Làm sao để
tạo phước? Ðồng thời chúng ta cũng cần nên biết: thế nào là phước
hữu lậu và thế nào là phước vô lậu? Và khi làm phước giúp đỡ ai
điều gì, mình nên nguyện như thế nào?
- * * *
- Trên thế gian
này, nếu ngước nhìn lên chúng ta sẽ thấy không biết bao nhiêu
người giàu sang hơn mình, học thức hơn mình, khỏe mạnh hơn mình,
sung sướng hơn mình, đẹp đẽ hơn mình, địa vị hơn mình, quyền thế
hơn mình, may mắn hơn mình, nhàn nhã hơn mình, bình yên hơn mình,
thông minh hơn mình, sáng suốt hơn mình, nhứt là không biết bao
nhiêu người tu tập giác ngộ hơn mình, được an lạc và hạnh phúc hơn
mình. Những người như vậy chính là những người "có phước" hơn
mình. Trái lại, khi nhìn xuống chúng ta sẽ thấy không biết bao
nhiêu người nghèo hèn hơn mình, dốt nát hơn mình, yếu đuối hơn
mình, khổ sở hơn mình, xấu xí hơn mình, thấp kém hơn mình, cô thế
hơn mình, xui xẻo hơn mình, cực khổ hơn mình, hoạn nạn hơn mình,
đần độn hơn mình, tối tăm hơn mình, nhứt là không biết bao nhiêu
người không được sống an lạc và hạnh phúc như mình. Những người
như vậy chính là những người "bạc phước" hơn mình.
- Như vậy, rõ ràng chúng ta được gọi
là "có phước", hay đang thọ hưởng "phước báo", nếu như
chúng ta có đủ tay chân, mắt mũi vẹn toàn, cơm ăn áo mặc, khỏe
mạnh ít đau, sống lâu trăm tuổi, tâm trí bình thường, gia đình
hạnh phúc, cuộc sống tương đối đầy đủ, cuộc đời tương đối bình
yên, không gặp hoạn nạn, không gặp hiểm nguy, không gặp tai biến,
không gặp chiến tranh, không gặp đói khát, không gặp kẻ thù, không
gặp thiên tai, hỏa hoạn động đất, bão lụt cuồng phong. Khi nào bị
đau mắt, không còn nhìn thấy được gì nữa cả, chúng ta mới thấy giá
trị của đôi mắt, giá trị của thị giác, mà hằng ngày chúng ta không
lưu tâm. Ðến khi gặp thầy gặp thuốc, được chữa lành bệnh, đôi mắt
trở lại như xưa, chúng ta mới thấy là mình đang "có phước"! Hoặc
khi nào bị bệnh bại xuội cả hai chân, không còn đi đứng được bình
thường, phải dùng xe lăn. Ðến khi khỏi bệnh, được bình phục như
xưa, chúng ta mới thấy là mình đang "có phước"!
- Thí dụ như trên
một chuyến máy bay, một chuyến tàu thủy hay một chuyến xe lửa gặp
tai nạn, hằng trăm người thương tích tử vong, những người được
sống sót chính là những người "đại phước" vậy. Họ là những người
theo đủ mọi tôn giáo, thuộc đủ mọi sắc dân, thuộc đủ mọi thành
phần trong xã hội, gồm đủ mọi lứa tuổi, nhưng điểm quan trọng là:
chính họ đã "tu nhơn tích phước" nhiều đời nhiều kiếp trước, mới
được sống còn như vậy, chứ không phải do họ cầu nguyện van xin
thánh thần thiên địa gì cả, dù là chí thành và khẩn thiết lắm,
trong lúc ngộ nạn, mà được đâu! Chúng ta thử suy nghĩ: trong khi
lâm nạn, người thì cầu Ðức Mẹ cứu giúp, người thì cầu Bồ Tát Quán
Âm cứu tai, cứu khổ, cứu nạn. Vậy, khi cả hai người cùng thoát
được nạn, vị nào thực sự đã tế độ họ? Thực sự chính "phước báo"
của mỗi người đã cứu chính họ mà thôi. Người có "phước báo" nhiều
hơn, thoát nạn một cách an ổn hơn. Người có "phước báo" ít hơn,
thoát nạn với một chút xây xát. Người hết phước báo, không phước
báo, thì đã vong mạng!
- Thậm chí trong
số những người tử vong trong các tai nạn, nhiều trường hợp có cả
các chức sắc thuộc các tôn giáo, có cả những người đã từng đại
diện thượng đế tha tội cho nhiều người khác! Còn chính họ có tội
nghiệp, đến lúc phải trả, vẫn phải đền trả quả báo, nghiệp báo như
mọi người khác vậy! Chúng ta đọc báo cũng thấy có những chuyến
hành hương cầu nguyện của các tôn giáo, bị lật xe trên đường đi
hoặc trên đường về, gặp nạn hỏa hoạn tại thánh địa, tại khu vực
hành lễ, khiến cho hàng trăm người, hàng ngàn người tử vong thương
tích. Ðiều này giúp cho chúng ta nhận định rất rõ ràng rằng: con
người tạo nghiệp báo, dù vô tình hay cố ý, cho đến lúc quả báo
chín mùi, lại không có phước báo che chở, thì cầu nguyện van xin
cũng chẳng ích lợi gì, chẳng có hiệu quả gì.
- Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có
dạy: "Dù lên non, xuống biển, vào hang, nghiệp báo vẫn theo con
người như hình với bóng, không ai có thể tránh được". Nghĩa là
nếu như con người không biết tu nhơn tích phước, chỉ lo tạo tội
tạo nghiệp, trong cuộc sống đấu tranh giành giựt hằng ngày, cho
đến khi quả báo thuần thục, không ai có thể tránh được, dù cho
người đó là bất cứ ai trong thế gian này, không phân biệt vua
quan, chức quyền hay thường dân, giàu sang hay nghèo hèn, học thức
hay bình dân, nam phụ lão ấu, tín đồ hay chức sắc!
- Có ông Liêm Sứ
ở Hồng Châu, đến hỏi Thiền sư Mã Tổ Ðạo Nhất: Uống rượu ăn thịt là
nên hay không nên? Mã Tổ Ðạo Nhất đáp: Uống rượu ăn thịt là cái
"lộc" của ngài. Không uống rượu ăn thịt là cái "phước" của ngài!
Có phước mới hưởng lộc. Có phước mới trường thọ. Không phước sao
được hưởng lộc, sao được trường thọ? Như vậy, chúng ta đã tạm hiểu
thế nào là "có phước". Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu vấn đề: trong
cuộc sống hằng ngày, những phương cách nào, những pháp môn nào,
những việc làm nào, những hành động nào, những lời nói nào, hay
những ý nghĩ nào có thể tạo "phước báu", công năng và ích lợi của
"phước báu" như thế nào?
- 1)
Trước tiên là Bố Thí. Hạnh bố thí là nền tảng của tất cả
các hạnh lành, là căn bản của việc thực hành giáo pháp, luôn luôn
được đề cập đến trong Phật giáo. Bản chất của con người thế gian
là luôn luôn muốn có, muốn thêm, muốn nữa, không bao giờ thấy đủ,
không bao giờ thỏa mãn với những gì mình đang có. Cho nên, nếu
được lên thiên đàng, nếu được về cõi tây phương, mà vẫn còn giữ
lòng tham như vậy, gọi là "đới nghiệp vãng sanh", thì con người
vẫn thấy khổ đau như hiện đời vậy thôi. Muốn được an lạc hạnh phúc
hiện đời, ngay tại thế giới ta bà này, hãy vui thích với những gì
mình đang có, bởi vì mình không thể có những gì mình thích. Mong
cầu nhiều, mơ ước nhiều, chỉ thêm nhiều đau khổ mà thôi. Thực là
đơn giản!
- Ðạo Phật dạy
hạnh bố thí để giúp con người dẹp lòng tham lam ham muốn, ích kỷ
hẹp hòi, gồm có tham tiền tài, tham sắc đẹp, tham danh vọng, ham
ăn ham uống, ham ngủ ham nghỉ. Ðạo Phật dạy hạnh bố thí để đem lại
an lạc và hạnh phúc cho người đời. Tại sao vậy? Bởi vì với lòng
tham ngũ dục: tài, sắc, danh, thực, thùy, nói trên, con người trên
thế gian phải đấu tranh, giành giựt, phải dùng mọi thủ đoạn để
thỏa mãn, bất chấp sự đau khổ của kẻ khác, bất chấp sự an nguy của
chính bản thân, với bất cứ giá nào cũng phải đoạt cho bằng được sự
như ý! Không được thỏa mãn, con người dễ nổi lòng sân hận, thù đời
ghét người, oán trời trách đất! Hạnh bố thí giúp con người hiểu
được ít nhiều sự an lành thiết thực của người và của chính mình
như thế nào. Cái gì mình tiêu xài thì đã qua mất rồi. Cái gì mình
đang có chưa chắc giữ được lâu dài, nhưng chắc chắn rằng sẽ để lại
khi qua đời. Chỉ có những gì mình đã bố thí, đã cho ra, mới thực
sự là "của mình", mới thực sự là "phước báu", và sẽ đến với mình
các qua dạng: bình yên may mắn, tai qua nạn khỏi, cầu gì được nấy,
trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
- Trong khi thực
hành hạnh bố thí, chúng ta đừng nên thắc mắc: nếu mình quyên góp
tiền bạc cho một người hay một tổ chức nào đó, để làm việc từ
thiện, nhưng họ không làm đúng như lời họ nói, thậm chí họ còn lợi
dụng lòng tốt của nhiều người để thủ lợi, làm việc sai trái, thì
mình có được "phước báu" hay không? Tại sao vậy? Bởi vì khi chúng
ta tự nguyện, phát tâm tùy hỷ, đóng góp tịnh tài cho một việc từ
thiện, cứu người giúp đời, với tâm vị tha bất vị kỷ, vì người quên
mình, vì muốn giúp người, không vì phước báu cho mình, thì chúng
ta đã có "phước báu" ngay tại chỗ đó rồi, ngay từ lúc phát tâm tùy
hỷ như vậy đó. Còn chuyện người đó, chùa đó, tổ chức đó, có làm
đúng hay không, tội nghiệp họ tạo, quả báo họ sẽ tự nhận. Nhân nào
quả nấy. Chúng ta không cần phải bận tâm!
- Chúng ta cũng
được hiểu thế nào là "phước điền" cao thượng nhứt, đó là những
"ruộng phước" đem lại nhiều "phước báu" nhứt, khi hành động tạo
phước của chúng ta hướng đến. Cũng ví như người nông dân hiểu biết
đám ruộng nào phì nhiêu, trồng trọt sẽ cho năng suất cao nhứt.
Phước điền cao thượng đó chính là bốn ơn nặng, hay tứ trọng ân,
gồm có: ơn cha mẹ, ơn thầy bạn, ơn xã hội, ơn tam bảo. Hạnh bố thí
dù là tài thí, pháp thí hay vô úy thí, đều đem lại "phước báu" vô
lượng vô biên, nếu như mình làm hạnh bố thí với thiện tâm, trực
tâm và bồ đề tâm. Nghĩa là tạo được bao nhiêu "phước báu" do hạnh
bố thí, chúng ta đều nên phát tâm "hồi hướng" cho toàn thể chúng
sanh trong pháp giới đồng thọ hưởng. Có như thế, quả báo phước đức
sau này, còn gọi là phước báo, mới thực sự to lớn. Tại sao vậy?
Bởi vì không giữ riêng cho mình, dù là "phước báu" do chính mình
tạo nên, có nghĩa là mình đã diệt được lòng tham. Khi lòng tham đã
diệt được, sự giải thoát mới hoàn toàn, phước báo mới vô lượng vô
biên vậy.
- 2) Thứ
hai là Trì Giới. Trì giới là nghiêm chỉnh ăn ở theo đúng
giới luật của Phật Tử, dù là cư sĩ tại gia, hay tu sĩ xuất gia.
Nhờ đó, trong cuộc sống, chúng ta không làm tổn nhơn, hại vật,
trong khi tạo ích lợi cho mình. Ðó là cách tạo "phước báu" vô cùng
vô tận, không thể nghĩ bàn. Thí dụ như chúng ta trì giới không nói
dối, không nói lời xuyên tạc, thêm bớt, vu cáo, để buộc tội, vu
oan cho kẻ khác phải chịu nhiều đau khổ, cho thỏa mãn lòng căm tức
của chúng ta đối với người đó, dù cho đó là kẻ thù, hay kẻ mình
không ưa cũng vậy. Thí dụ như người tu sĩ Phật giáo cố gắng giữ
gìn giới hạnh trong sạch, cuộc sống thanh tịnh, chăm lo tu học,
không tham gia hoạt động thế sự, không lo chuyện thế gian, không
ham danh văn sĩ, thi sĩ, tiến sĩ gì gì đó với đời, thì vị tu sĩ đó
đem lại biết bao nhiêu "phước báu" cho chính bản thân, cho đồng
bào Phật Tử và cho đạo pháp.
- Ðược như vậy,
không cần đợi đến kiếp mai sau, mà ngay hiện tại, trên cuộc đời
này, ở tại nơi đây, trong kiếp sống này, chúng ta có thể thọ hưởng
"phước báu" của một nếp sống giới hạnh. Lợi ích của giới đức phát
sanh ngay trong hiện tại. Hiện tại rất quan trọng đối với người
biết sống trong tỉnh thức, biết quán sát nội tâm, biết giữ gìn
giới hạnh. Quá khứ đã trôi qua, nhớ nhung tiếc nuối chỉ phí phạm
thời giờ, chẳng những điên rồ, mà đôi khi còn tạo nghiệp xấu, vì
những chuyện tức giận, thù hận đã qua. Trong khi đó, tương lai chỉ
là viễn ảnh mơ hồ, không có gì cố định, không có gì chắc chắn.
Người nào hẹn đến khi có tuổi rồi, mới cạo đầu vào chùa bắt đầu
tu, cũng là người đang sống trong mơ, đang trong cơn mê. Tại sao
vậy? Bởi vì có ai biết được chắc chắn mình sống đến bao lâu? Trong
khi đó, chúng ta có thể tạo "phước báu" bằng cách tu tâm dưỡng
tánh, ngay hiện tại, trong cuộc sống hằng ngày, đừng đợi đến ngày
nào cả. Tu tâm dưỡng tánh được ngày nào, chúng ta hưởng "phước
báu" ngay ngày đó, thì tại sao phải hẹn? Vã lại tu tâm dường tánh
đâu phải là việc dành riêng cho các tu sĩ, hoặc đâu phải cạo đầu
vào chùa mới gọi là tu! Các bậc tôn túc thường nhắc nhở chúng ta:
"tu mau kẻo trể" và "tu trong mọi hoàn cảnh", chính là nghĩa đó
vậy.
- Chẳng hạn như
trước đây, chúng ta thích bàn chuyện thị phi, phải quấy, tốt xấu,
thích xen vào chuyện của thiên hạ thế nhân, cho nên lắm khi gặp
rắc rối, tranh cãi, đôi co, mích lòng, có khi dẫn tới chuyện kiện
tụng lôi thôi. Bây giờ chúng ta hiểu được giáo lý đạo Phật, biết
rằng tu tâm dưỡng tánh đem lại nhiều "phước báu" hiện đời, có thể
thực hành trong mọi hoàn cảnh, chúng ta quyết tâm dừng ngay, chừa
bỏ tất cả, thì cuộc sống sẽ an lạc và hạnh phúc, không còn phiền
não và khổ đau nữa. Giới luật ví như hai đường sắt của một tuyến
xe lửa. Chiếc xe lửa nào, chạy đúng đường sắt, sẽ chạy ngon lành,
đến nơi đến chốn, bình yên vô sự. Chiếc nào mà chạy, trật khỏi
đường rầy, tức nhiên lật gọng, tai nạn thê thảm. Cũng vậy, những
người Phật Tử, dù tại gia cư sĩ, hay xuất gia tu sĩ, trì giới
thanh tịnh, sẽ tu tinh tiến, kết quả rõ ràng, bớt chuyện phiền
não, giảm thiểu khổ đau, chóng được niết bàn, an lạc hạnh phúc,
ngay tại hiện đời.
- 3) Thứ
ba là Nhẫn Nhịn. Có người quan niệm: nhịn thì nhục, cự
thì đục. Họ cho rằng nếu nhịn được đằng chân, chúng sẽ lân đằng
đầu, được nước lần này chúng sẽ làm tới lần sau, nhịn hoài chúng
sẽ cho là mình ngu, cho là mình hèn, làm sao nhịn nổi, tại sao
phải nhịn chứ? Chính quan niệm như vậy khiến cho cuộc đời luôn
luôn đầy dẫy những tranh chấp, cãi vã, hơn thua, kiện tụng, đấu
tranh, cho nên thường dẫn đến phiền não và khổ đau. Thực ra, chính
vì con người không thể thực hành được "hạnh nhẫn nhịn" cho nên mới
có quan niệm như trên. Người ta mắng mình một tiếng, mình trả một
miếng, có khi nhiều hơn, thì dễ dàng quá. Người ta hành động,
không tốt với mình, mình liền trả đủa, hết sức nặng nề, cho thiệt
hả giận, cho thực đả nư, thì dễ dàng quá. Nhưng còn tiếp theo, sau
đó thì sao? Câu chuyện như vậy, biết đến bao giờ, mới được chấm
dứt, và dứt thế nào? Người ta lỡ lầm, vi phạm tội ác, mình đòi
trừng phạt, cho thiệt xứng đáng, phanh thây xẻ thịt, treo cổ bắn
bỏ, đày xuống địa ngục, bỏ tù rục xương, rủa xả chửi mắng, tưng
bừng tơi tả, thì hãy thử nghĩ: ai ác hơn ai?
- Có những người
trên thế gian này xin ân xá cho kẻ phạm tội đã giết người thân của
mình, bởi vì những người đó đã biết cảnh mất người thân, đau khổ
như thế nào, nên không muốn gia đình phạm nhân lâm vào cảnh ngộ bi
thương đó. Chúng ta đọc báo thấy thực sự có những người như vậy,
nhưng rất hiếm hoi! Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:" Lấy
oán báo oán, oán nghiệp chập chùng. Lấy ơn báo oán, oán nghiệp
tiêu tan" . Người ta mắng mình một tiếng, nếu mình nhịn được,
không trả một miếng, mới thực là khó. Người ta hành động, không
tốt với mình, mình không hành động, giống y như vậy, mới thực là
khó. Hơn nữa, nếu người ta gặp, khó khăn hoạn nạn, mình sẵn sàng
giúp, thực tâm thực tình, hết lòng hết dạ, lại càng khó hơn. Làm
được như vậy, mọi chuyện bình yên, tiếp theo sau đó. Câu chuyện
thù oán, chắc chắn chấm dứt, một cách êm đẹp, nhẹ nhàng dễ dàng.
- Trong Kinh Pháp
Cú, Ðức Phật có dạy:"Thắng vạn quân không bằng tự thắng mình.
Tự thắng mình là điều cao quí nhứt". Nghĩa là tự kềm chế bản
thân, tự kềm chế hành động, tự kềm chế ngôn ngữ, tự kềm chế ý nghĩ
của chính mình, mới thực là khó. Con người thường bị tâm tham lam,
tâm sân hận và tâm si mê sai khiến, điều khiển, cho nên cuộc đời
mới gặp nhiều phiền não và khổ đau. Khi tâm tham khởi lên, khi tâm
sân khởi lên, khi tâm si khởi lên, người nào tỉnh thức, tự kềm chế
được, tự hóa giải được, thì cuộc sống sẽ an lạc hạnh phúc. Chiến
thắng được tâm tham lam, sân hận, si mê của chính mình, mới thực
sự gọi là "có phước", mới thực sự đem lại an lạc và hạnh phúc cho
cuộc đời mình. Cho nên cổ nhân có dạy: "Một sự nhịn chín sự lành",
chính là nghĩa đó vậy.
- Khi chiến thắng
được tâm tham chẳng hạn, không đi ăn trộm, không chôm chĩa đồ,
không gạt gẫm người, con người khỏi gặp rắc rối với pháp luật. Khi
chiến thắng được tâm sân chẳng hạn, không chửi mắng đánh đập,
không trả thù người khác, không thưa gửi kiện tụng, không gây thêm
phiền não, không tạo thêm kẻ thù, không tăng thêm nghiệp báo,
không chuốc thêm oán hờn, không làm chuyện càn dở, con người được
thoải mái bình yên. Khi chiến thắng được tâm si chẳng hạn, không
mê tín dị đoan, không uống nước sông suối, chẳng có chút vệ sinh,
lại cho là nước thánh, không tin chuyện huyễn hoặc, không tin
thiên linh chuỗi, chẳng có căn cứ, con người được bình tĩnh, tâm
trí sáng suốt. Nhờ đó, con người sẽ ăn được ngon, ngủ được yên.
Sách có câu: "Ăn được ngủ được là tiên". Ðó là "phước báu" do
chính mình tạo nên, không do trời ban, không do cầu nguyện.
- 4) Thứ
tư là Tinh Tấn. Tinh tấn nghĩa là siêng năng, cần mẫn tu
tâm dưỡng tánh trong mọi hoàn cảnh, trong mọi động tác, đi, đứng,
nằm, ngồi, để ngăn chận ba nghiệp, không tạo thêm tội lỗi, nghiệp
báo mới. Không phải đợi đến lúc quỳ trước bàn Phật, hay đi đến
chùa, hoặc dự các khóa tĩnh tâm, mới gọi là tu! Tu như vậy ít quá,
một tháng mới có một khóa tu, một tuần mới đến chùa một lần, một
ngày niệm hương trước bàn thờ, hay ngồi thiền, chừng một tiếng
đồng hồ, 23 tiếng còn lại, tha hồ để tâm trí dong ruỗi theo những
ý nghĩ tạp nhạp, thương người này, ghét người khác, thị phi phải
quấy, tâm trí bất định. Ðến khi nghịch cảnh xảy đến, tai nạn giáng
xuống, không đủ năng lực để đối phó, tâm trí của chúng ta sẽ xáo
trộn, bất an, đương nhiên dẫn đến khổ đau và than trời trách đất.
Sách có câu: "Mấy người lòng dạ tinh ma. Ðã làm phải chịu, kêu mà
ai thương", chính là nghĩa đó vậy.
- Chúng ta tinh
tấn làm tất cả các điều thiện, dù lớn dù nhỏ, cứu người giúp đời,
làm cho cuộc sống của chính mình và của những người chung quanh,
có ý nghĩa hơn, an lạc hơn và hạnh phúc hơn. Chúng ta tinh tấn
diệt trừ những tạp niệm vọng tưởng, thường xúi giục chúng ta tạo
thêm nghiệp báo xấu, để cho chính mình và những người chung quanh
bớt lo âu, phiền muộn vì những hành động sai khiến bởi tâm tham,
tâm sân và tâm si của mình. Chúng ta thử nghĩ: thực hành hạnh tinh
tấn như vậy, có phải chúng ta được vô lượng vô biên "phước báu"
chăng? Và nhờ hạnh tinh tấn, chúng ta không nản lòng trên đường tu
tập các hạnh lành, dù gặp biết bao nhiêu nghịch cảnh trở ngại. Cho
nên trong đạo Phật, hạnh tinh tấn được tượng trưng bởi Bồ Tát Ðại
Lực Ðại Thế Chí, là vị Bồ Tát có năng lực tinh tấn lớn lao, có ý
chí siêu xuất thế gian, dũng mãnh tiến bước không lui, trước mọi
nghịch cảnh, trước mọi nghiệp chướng.
- 5) Thứ
năm là Thiền Ðịnh. Thiền định nghĩa là trau dồi tâm tánh
cho được tự tại, cho được bình tĩnh thản nhiên, trước mọi hoàn
cảnh của cuộc sống. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường gặp
những bước thăng trầm, những sóng gió của cuộc đời, chẳng hạn như
lúc thịnh lúc suy, lúc được danh dự lúc bị hủy báng, lúc được khen
tặng lúc bị chỉ trích, lúc được sung sướng lúc bị khổ đau. Trong
kinh sách gọi đó là "bát phong", thường làm cho tâm trí của chúng
ta bị bất an, chao đảo, giao động, xao xuyến, xáo trộn.
- Cho nên đạo
Phật dạy nhiều phương pháp để hàng phục và an trụ tâm, tùy theo
căn cơ, trình độ, hoàn cảnh, sở thích, tâm nguyện của mỗi người,
gọi là vô lượng pháp môn. Chẳng hạn như pháp môn tịnh độ dạy chúng
ta tụng kinh, niệm Phật để định tâm. Khi chúng ta tụng kinh, thân
ngồi ngay ngắn, nghiêm trang, miệng đọc lời Phật dạy trong kinh,
tâm chú ý vào lời kinh và tiếng chuông mõ, nên không còn nghĩ ngợi
linh tinh lang tang, tư tưởng không còn chạy lung tung nữa. Như
vậy có nghĩa là tam nghiệp, gồm thân khẩu ý của chúng ta, đều được
thanh tịnh. Kinh sách có câu:"Tam nghiệp hằng thanh tịnh đồng
Phật vãng tây phương". Nghĩa là khi ba nghiệp của chúng ta
luôn luôn thanh tịnh, không còn tạo nghiệp nữa, thì "phước báu" vô
lượng vô biên, chúng ta cùng chư Phật sống trong cõi tịnh độ tây
phương. Hoặc khi tâm trạng bị hoang mang, lo lắng, sợ sệt, xôn
xao, chúng ta dùng câu niệm Phật để định tâm, để trấn áp những tâm
trạng bất an vừa kể.
- Ở đây, cần biết thêm rằng không
phải chúng ta tụng kinh để cho Ðức Phật nghe! Cũng không phải
chúng ta niệm Phật để cho Ðức Phật tính sổ, coi chúng ta niệm được
bao nhiêu câu, cộng được bao nhiêu chuỗi mỗi ngày! Kinh điển ghi
lại lời dạy của Ðức Phật cốt để hướng dẫn chúng ta tu tâm dưỡng
tánh, điều trị tâm bệnh của chúng sanh, ví như toa thuốc của bác
sĩ để điều trị thân bệnh, chứ không phải để đọc đi, đọc lại, tụng
cho bác sĩ nghe! Mục đích chúng ta tụng kinh, niệm Phật là để
hàng phục và an trụ tâm, chuyển hóa từ kẻ phàm phu tục tử, trầm
luân đau khổ, thành người trí tuệ, giác ngộ giải thoát. Hàng phục
và an trụ được tâm, chúng ta mới có được cuộc sống phước báu, an
lạc và hạnh phúc.
- Cũng với mục
đích hàng phục và an trụ được tâm, thiền tông dạy chúng ta "tứ oai
nghi thiền". Nghĩa là trong bốn oai nghi, gồm có: đi, đứng, nằm,
ngồi, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta luôn luôn giữ gìn tâm
được chánh niệm, không loạn tưởng, không tạp niệm, như vậy sẽ được
chánh định. Cho nên mỗi khi tạp niệm, vọng tưởng khởi lên, chúng
ta liền biết ngay và dừng lại, không bị luồng tư tưởng lăng xăng
lộn xộn đó dẫn đi. Thí dụ như khi đang ngồi chơi, bổng dưng chúng
ta nhớ tới chuyện thù oán năm xưa, tâm trí liền xao xuyến với ý
nghĩ trả thù phục hận! Nếu chúng ta không thức tỉnh dừng lại ngay,
thì luồng tư tưởng này sẽ tiếp tục dẫn chúng ta đi tới ý nghĩ tìm
cách nào để trả thù, cho đáng đời kẻ đã hại mình, đã thưa gửi mình
ra tòa, đã vu oan giá họa cho mình, đã cáo gian mình, và hậu quả
là chúng ta tạo thêm nghiệp báo! Cuộc đời chắc chắn sẽ gặp nhiều
khổ đau! Tây phương có câu: "Do not mess up your beautiful life!",
chính là nghĩa đó vậy.
- Trong Kinh Kim
Cang, Ðức Phật có dạy: "Quá khứ tâm bất khả đắc. Hiện tại tâm
bất khả đắc. Vị lai tâm bất khả đắc". Nghĩa là: Chuyện quá khứ
qua rồi đừng luyến tiếc, đừng nhớ nghĩ làm gì cho bận tâm, chỉ
gieo thêm nghiệp chướng chứ chẳng ích lợi gì. Chuyện hiện tại rồi
cũng qua mau, cố níu kéo cũng chẳng được, có lo âu phiền muộn cũng
chẳng ích lợi gì. Chuyện tương lai chưa đến, lo lắng, ưu tư, sầu
muộn cũng chẳng giúp ích được gì. Chi bằng chúng ta giữ gìn tâm
trí được như như, bình tỉnh, thản nhiên, có phải khỏe hơn không?
Chuyện gì phải tới nó sẽ tới, lo sợ cũng chẳng ngăn cản được đâu.
Tốt nhứt chúng ta đừng tạo thêm tội nghiệp mới, thì khỏi phải lo
sợ quả báo, tội báo, nghiệp báo sẽ đến!
- Trong Kinh Pháp
Cú, Ðức Phật có dạy:"Lấy oán báo oán, oán nghiệp chập chùng.
Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan". Nghĩa là chuyện oán thù
trong quá khứ chỉ nên cởi mở, không nên kết chặt thêm. Thí dụ như
trong gia đình trước kia có chuyện bất hòa, tranh chấp, chúng ta
bèn bỏ nhà đi xa. Khi có dịp trở về quê hương viếng thăm, chúng ta
mang theo quà cáp với tấm lòng từ bi hỷ xả, một trời thương nhớ,
quên hết chuyện không vui trong quá khứ, tức nhiên mọi chuyện sẽ
trở nên êm đẹp vui vẻ. Tâm trí của chúng ta sẽ an lạc hơn, cuộc
đời sẽ hạnh phúc hơn.
- Ở đây, cần biết
thêm rằng thiền tông không dạy tọa thiền như con cóc, từ giờ này
sang giờ khác, chẳng hiểu mục đích để làm gì, ngoài chuyện đem
khoe khắp nơi khắp chốn! Chính thiền tông dạy chúng ta ngồi thiền
để "chăn trâu", để thúc liễm thân tâm, tức là dẹp trừ tạp niệm và
vọng tưởng, với mục đích hàng phục và an trụ tâm. Hơn thế nữa,
không phải chỉ có lúc ngồi thiền mới dẹp trừ tạp niệm và vọng
tưởng mà thôi. Trong đời sống hằng ngày, lúc tiếp xúc với ngoại
cảnh, lúc thấy hình sắc, lúc nghe âm thanh, lúc ngửi mùi, lúc nếm
vị, lúc xúc chạm, chúng ta luôn luôn giữ gìn tâm trí được bình
tĩnh thản nhiên, không xao xuyến, không loạn động. Nếu trong tâm
"lỡ" nổi loạn, tạp niệm khởi lên, chúng ta liền biết ngay và dừng
lại kịp thời, thì đó chính là thiền định vậy.
- Tổ Ðiều Ngự
Giác Hoàng, tức là Hoàng Ðế Trần Nhân Tôn nhường ngôi, đi tu, trở
thành Sơ Tổ Thiền Phái Trúc Lâm, có dạy rằng:
- "Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mích
Ðối cảnh vô tâm mạc vấn thiền".
- Nghĩa là dù
sống trên trần đời, muốn được vui theo đạo lý, hãy đừng chấp chặt,
tùy duyên hành sự, tùy hoàn cảnh mà ứng xử. Chẳng hạn như đói đến
thì ăn, mệt ngủ khò. Chẳng có gì đòi hỏi, chẳng có gì buồn lo,
chẳng có gì bận tâm, chẳng có gì ưu phiền. Trong mỗi con người
chúng ta, ai ai cũng có "của báu", đó chính là "con người chân
thật" của chúng ta. Cho nên chẳng cần chạy vào chùa, hay lên non
lên núi, tìm kiếm làm gì cho mất công, nhọc sức vô ích. Trong cuộc
sống hiện nay, đối với các cảnh trần đời, chúng ta đừng khởi vọng
tâm lăng xăng lộn xộn, thương thương ghét ghét, phải quấy thị phi,
tranh đua hơn thua. Lúc đó, chính là lúc chúng ta đạt được thiền
định, hiểu được và sống được với "con người chân thật" của chính
mình. Ðó chính là mục đích cứu kính của đạo Phật vậy.
- 6) Thứ
sáu là Trí tuệ. Trí tuệ trong đạo Phật, kinh sách gọi là
trí tuệ bát nhã, không phải sự hiểu biết, kiến thức, trí thức của
thế gian. Ở thế gian, người trí thức là người học cao hiểu rộng,
có bằng cấp các ngành, nhưng vẫn sống trong trong sanh tử luân
hồi, thường gặp phiền não khổ đau. Trí tuệ trong đạo Phật là sự
nhận thức sáng suốt, đưa con người đến chỗ giác ngộ và giải thoát,
được an lạc và hạnh phúc. Người có trí tuệ là người có chánh kiến,
nghĩa là người thấy muôn pháp, biết muôn việc "đúng như thực",
không mê lầm điên đảo, không mê tín dị đoan, không nhận giả làm
chân, không chấp chặt thành kiến. Chẳng hạn như khi thấy việc gì
xảy đến cho mình hay cho người, chúng ta biết ngay rằng: đó là kết
quả hay hậu quả của một việc hay nhiều việc đã làm trước đây.
Không bao giờ tự nhiên có khói, mà không do lửa phát sanh. Không
bao giờ tự nhiên có sóng, trong khi gió lặng yên. Không bao giờ tự
nhiên có cái cây mọc lên, mà không có hạt giống trong đất trước
đó. Nhờ đó, chúng ta không ngạc nhiên, khi có chuyện may mắn đến,
cũng như không đau khổ, khi có chuyện xui xẻo xảy ra.
- Trong Kinh Hoa
Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Chư pháp tùng duyên sanh. Chư pháp
tùng duyên diệt". Nghĩa là mọi việc muôn sự trên thế gian này,
trong kinh sách gọi là chư pháp, tùy theo nhân duyên mà sanh ra,
cũng tùy theo nhân duyên mà diệt đi. Không có việc gì sanh diệt mà
không có nguyên nhân. Không có cái gì, vật gì, việc gì tự nhiên
xảy ra, tự nhiên sanh ra, tự nhiên xuất hiện. Không có cái gì, vật
gì, việc gì tự nhiên biến mất, tự nhiên diệt đi, tự nhiên không
còn nữa. Chẳng hạn như khi thấy một tòa nhà sụp đổ, một tình bạn
kết thúc, chúng ta hiểu ngay phải có nguyên nhân và cũng hiểu rằng
không có chuyện gì trên đời tồn tại vĩnh viễn. Nhờ đó, chúng ta có
thể giữ gìn được tâm trí bình tĩnh thản nhiên, khi mọi chuyện tang
thương biến đổi xảy ra trong cuộc đời.
- Không có cái
gì, vật gì, việc gì do ông trời, do thượng đế sanh ra cả. Chẳng
hạn như một cơn mưa do hội đủ nhân duyên mà có, chứ làm gì có ông
thần mưa, ông thần gió, ông thần sấm, ông thần sét, ông thần sông,
ông hà bá, như người xưa tin tưởng, khi khoa học chưa phát triển.
Bây giờ con người còn có khả năng làm mưa nhân tạo, ở bất cứ nơi
nào, bất cứ lúc nào. Tại sao thượng đế làm ra cuồng phong, bão tố,
lũ lụt, động đất, để giết hại con người? Thượng đế vẫn còn nổi cơn
thịnh nộ, nổi cơn sân hận, để giáng họa trừng phạt con người ngoan
cố, không nghe theo, không làm theo, như vậy có khác gì những kẻ
phàm phu tục tử ở trên đời này, hay nổi sân hận, khi gặp chuyện
không vừa ý?
- Nếu chỉ đọc
giáo lý của đạo Phật và chỉ biết Phật giáo qua lý thuyết, ắt là
không đủ. Không học hiểu giáo lý, không thực sự biết Phật giáo như
thế nào, chỉ nhắm mắt làm theo những tập tục cổ truyền một cách
máy móc, tức nhiên là sai lầm và thiếu sót nặng nề. Học mà không
hành thì khác nào cái đãy sách, cái tủ sách, cái tàng kinh các.
Hành mà không học hiểu, khác nào người đi trong đêm tối, không có
đèn đuốc, đụng đầu lọt hố, bất cứ lúc nào! Trọng Phật tin Phật mà
không nghe Pháp học Pháp, như vậy chưa phải là đệ tử chơn chánh
của Ðức Phật. Vì không nghe Pháp học Pháp, làm sao thực hành đúng
theo lời Phật dạy được? Do đó, con người sống mãi trong vô minh,
mờ mịt u tối, si mê lầm lạc, bao giờ mới giác ngộ và giải thoát
được, bao giờ mới hết phiền não giảm khổ đau được? Chư Tổ có dạy:
"Tu mà không học là tu mù. Học mà không tu là đãy sách",
chính là nghĩa đó vậy.
- Chúng ta cần
phải phát tâm học Phật Pháp, nếu muốn có được trí tuệ "đúng như
thực", còn gọi là "trí tuệ bát nhã". Ðó chính là "phước báu" tối
thượng. Người có trí tuệ bát nhã, chiếu kiến ngũ uẩn giai không,
độ nhứt thiết khổ ách. Nghĩa là con người muốn được tự tại, muốn
không sợ hãi, muốn qua mọi khổ ách, thì phải có trí tuệ bát nhã,
thấy tất cả các pháp đều không thực, không tồn tại vĩnh viễn,
không cố định. Cái thân ngũ uẩn của chúng ta cũng là một trong các
pháp trên thế gian, cho nên cũng sẽ biến hoại sau một thời gian
tại thế, không có gì đáng luyến tiếc, than thở, khổ đau. Chỉ có
"con người chân thật không sanh diệt" mới là cứu kính mà thôi. Ðó
là những lời dạy vô cùng quí báu của Ðức Phật, đó là bản đồ hướng
dẫn chúng ta đạt được cuộc sống an lạc và hạnh phúc, tiến đến chỗ
giải thoát và giác ngộ.
- * * *
- Tóm lại, trong
cuộc sống hằng ngày, có rất nhiều cơ hội, có rất nhiều cách, có
rất nhiều phương pháp, để cho con người làm phước, tạo phước, kiếm
phước. Dù là phước hữu lậu hay vô lậu, đều có công năng giúp con
người có cuộc sống bình yên, ít đau khổ, bớt phiền não, để tiến
tới chỗ giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. Phước hữu lậu do
những việc làm tạo sự an vui thoải mái, có ích lợi cho người, giúp
đỡ người lúc gặp khó khăn về vật chất hay tinh thần. Phước hữu lậu
có công năng đem lại sự may mắn, tai qua nạn khỏi, chuyện lớn hóa
nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, bớt oan trái, giảm nghiệp báo. Người
làm phước với ước mong được hưởng phước về sau, đó là phước hữu
lậu, còn trong vòng sanh tử luân hồi.
- Phước vô lậu do
những việc làm có ích lợi cho người, nhưng đồng thời cũng chuyển
hóa được con người chính mình, thí dụ như bố thí cúng dường, tụng
kinh niệm Phật, tư duy thiền quán, tu tâm dưỡng tánh. Người làm
phước với tâm từ bi hỷ xả, không cầu mong được hưởng phước về sau,
chỉ cố gắng tu học để tiến dần đến chỗ giác ngộ và giải thoát, đó
là phước vô lậu, vượt khỏi vòng sanh tử luân hồi. Trong lúc thực
hiện hành động tạo phước, không nghĩ rằng mình đang làm phước,
giúp đỡ người khác vì tình thương, do lòng tốt tự nhiên, với tâm
bất vụ lợi, vì người quên mình, đó là hành động tạo phước cao
thượng nhứt, đem lại "phước báu" vô lượng vô biên, không thể nghĩ
bàn.
- Phước hữu lậu
ví như tiền tiết kiệm, có khả năng giúp con người giàu sang, sung
sướng, may mắn, bình yên. Hưởng phước này có ngày cũng cạn, cũng
dứt. Khi đó, con người sẽ phải đền trả những nghiệp báo trước kia.
Chúng ta đã từng thấy các ông vua, các bà hoàng, các hoàng tử, các
công chúa, các nhà giàu có trưởng giả, thế lực quyền quí, cao sang
danh vọng, các lãnh tụ chính trị, các lãnh tụ tôn giáo, khi hưởng
hết phước báo hữu lậu, họ phải chịu nhiều tai nạn, khổ ách, tán
gia bại sản, thân bại danh liệt, thậm chí có thể mất mạng thê
thảm, không chỗ chôn thân! Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:
"Phước báo con người đang hưởng ví như mũi tên bắn lên không
trung, đến khi hết trớn, rớt trở xuống đất rất nhanh", chính
là nghĩa phước hữu lậu đó vậy. Bởi vậy cho nên, Ðức Phật dạy chúng
ta khi làm phước, đừng mong cầu hưởng phước báo, mà nên nguyện
được phước duyên, đời đời gặp Chánh Pháp, gặp thầy lành bạn tốt,
giúp đỡ tu tập, cho đến ngày giác ngộ và giải thoát, mà thôi.
- Ðiều dĩ nhiên
ai ai cũng có thể hiểu được là: tất cả những hành động nào, những
lời nói nào, những ý nghĩ nào, ngược lại với việc tạo "phước báu",
chính là hành động, lời nói, ý nghĩ, tạo tội lỗi, tạo nghiệp báo
xấu vậy! Tội lỗi là do hành động, lời nói hay ý nghĩ làm cho mình,
cho người khác đau khổ trong hiện tại và vị lai, dù vô tình hay cố
ý. Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy: "Chỉ có phước báo mới có
thể giảm thiểu nghiệp báo mà thôi". Con người tạo tội nghiệp
từ trước, đến lúc phải đền trả quả báo, nhẹ thì bị chửi mắng, đau
yếu, nặng thì gặp tai nạn, thậm chí mất mạng.
- Tội nghiệp do
con người tạo tác, sanh ra tội báo nghiệp báo, được ví như một nắm
muối. Nếu phải bị nuốt nắm muối đó, thì con người sẽ đau khổ biết
là dường nào. Nhưng nếu có thể bỏ nắm muối đó vào trong một tô
nước rồi uống, thì có lẽ sẽ dễ chịu hơn một chút. Nếu có thể bỏ
nắm muối đó vào trong một lu nước rồi uống, thì chắc sẽ dễ chịu
hơn một chút nữa. Nếu bỏ nắm muối đó vào trong một hồ nước lớn,
rồi từ từ uống, thì chuyện sẽ không còn thành vấn đề. Tô nước, lu
nước, hồ nước tượng trưng cho "phước báu", do chính chúng ta tạo
được ít hay nhiều, sẽ giúp chúng ta tai qua nạn khỏi, chịu đựng
được quả báo, do tội nghiệp đã tạo trước đây. Chuyện lớn sẽ hóa
nhỏ, chuyện nhỏ sẽ hóa không, chuyện khó sẽ hóa dễ. Chứ không phải
chúng ta tạo tội nghiệp đầy dẫy trong cuộc đời, gây đau khổ cho
không biết bao nhiêu người thân kẻ thù, dù cho nhân danh công lý
lẽ phải, trả thù báo oán, gì gì đi nữa, rồi đến lúc giựt mình thức
tỉnh, bèn đem tất cả tội lỗi đã tạo, giao cho Trời Phật gánh giùm,
chịu tội thế cho mình, bằng cách đi chùa cúng kiến, đi nhà thờ
xưng tội, "thì mà là" tất cả tội lỗi đó tiêu tan hết đâu? Con
người thường có thói quen "quịt nợ", cho nên mới có ý nghĩ như
vậy!
- Luật nhân quả
không bao giờ sai chạy, dù cho con người tu hành đắc thánh quả,
vẫn phải chịu quả báo do những tội nghiệp đã gây nên, từ nhiều đời
nhiều kiếp trước kia. "Chỉ có phước báo mới có thể giảm thiểu
nghiệp báo mà thôi". Chúng ta nên ghi nhớ lời Ðức Phật đã dạy. Ðọc
lịch sử, chúng ta cũng đã nhận thấy, ngay cuộc đời của Ðức Phật,
cũng như các vị giáo chủ khác, vẫn bị người đời gièm pha, vu
khống, mạ lỵ, chửi bới, ám sát, xét xử, giam cầm, giết hại. Nếu là
bậc "phước tuệ lưỡng toàn" như Ðức Phật, nghĩa là phước báu và trí
tuệ đầy đủ, thì mọi chuyện trở ngại trên thế gian này rồi cũng
qua, cuộc đời kết thúc một cách êm đềm, bình an, tự tại. Nếu không
có đủ phước báo thì, dù là bất cứ ai, cũng sẽ bị xử chết một cách
thê thảm!
- Khi Ðức Phật
còn tại thế, có người ngoại đạo đến hỏi Ðức Phật: Ngài có kinh
điển nào đem đọc tụng, có thể giúp cho đệ tử của Ngài vãng sanh
niết bàn được không? Ðức Phật trả lời rõ ràng: Không! Tại sao vậy?
Bởi vì con người hiền thiện, biết tu tâm dưỡng tánh khi còn sinh
thời, tâm tư thanh thản, nhẹ nhàng, thì nhứt định kiếp sau sẽ sinh
ở cõi lành. Con người hung ác, luôn luôn làm việc lợi mình hại
người, bất chấp thủ đoạn, bất kể sự phiền não khổ đau của tất cả
mọi người, thì nhứt định kiếp sau sẽ sinh vào tam đồ ác đạo, gồm
có: địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh. Thí dụ như dầu nhẹ hơn nước thì
nổi trên mặt nước, đá nặng hơn nước thì chìm dưới đáy nước, không
nghi ngờ gì cả, không thể nào khác hơn được. Ðó là chân lý công
bằng tuyệt đối vậy.
- Cuối cùng, vấn
đề sau hết là phân biệt "phước báu" và
"phước báo". Phước báu là từ ngữ chỉ những hành động, lời
nói và ý nghĩ, thiện lành quí báu, tạo phước trong hiện tại, ví
như chúng ta làm việc, kiếm tiền sinh sống, có dư dả thì để dành
về sau. Phước báo là từ ngữ chỉ kết quả, còn gọi là quả báo lành,
do những hành động, lời nói, hay ý nghĩ thiện lành, từ nhiều đời
trước cũng như đời này, đến với chúng ta qua các dạng: thới hên,
may mắn, bình yên, an ổn, đẹp đẽ, vui vẻ, hạnh phúc, giàu sang,
sung sướng, nhàn nhã, trong cuộc đời hiện tại, ví như tiền tiết
kiệm chúng ta dành dụm được từ trước đến nay, bây giờ đem ra xử
dụng khi cần thiết.
--o0o--
|
|