-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Nhất
Nhân Thừa Phật Giáo
- --- o0o ---
- Bài Thứ 8
- Tụng Kinh,
Trì Chú,Niệm Phật
-
A.- Mở đề
- Người Phật
tử, nếu chỉ thờ, lạy và cúng Phật, thì cũng chưa có thể gọi là
thuần thành. Người Phật tử thuần thành còn phải tụng kinh, trì
chú và niệm Phật. Vả lại nếu bỏ qua ba phần sau này, thì ba phần
trước là thờ, lạy và cúng khó có thể viên dung cả Sự và Lý được.
Vì phần Lý là phần cao siêu khó thực hành, mà nếu chúng ta không
tụng kinh, niệm Phật để cho tâm hồn được sáng suốt, tỏ ngộ các
lý lẽ sâu xa huyền diệu trong kinh đìển, thì chúng ta không làm
thế nào để đạt được 4 phép lạy thuộc về Lý là: Phát trí thanh
tịnh lễ, biến nhập pháp giới lễ, chánh quán lễ, thật tướng bình
đẳng lễ và 5 món diệu hương để cúng Phật là: Giới hương, Ðịnh
hương, Huệ hương, Giải thoát hương, Giải thoát tri kiến hương.
Và nếu không thực hành được 4 phép lạy về Lý và cúng dường được
5 món diệu hương, thì sự lạy và cúng chỉ là phần "Sự" là phần
hình thức, và vì thế, kẻ tín đồ khó có thể tiến được trên đường
Ðạo. Bỡi vậy, cùng một lần với thờ, lạy và cúng Phật, chúng ta
phải tụng kinh, trì chú và niệm Phật. Ðó là những điểm căn bản
tối thiểu mà một Phật tử thuần thành không thể bỏ qua được.
-
B.- Chánh Ðề
- I.- Ðịnh
Nghĩa
- 1) Tụng
kinh: Tụng là đọc thành tiếng một cách có âm diệu và thành
kính. Tụng kinh là đọc một cách thành kính những lời Ðức Phật đã
dạy trong kinh điển, hợp với chân lý và căn cơ của chúng sanh.
- 2) Trì chú:
Trì là nắm giữ một cách chắc chắn. Chú là lời bí mật của Chư
Phật mà chỉ có Chư Phật mới hiểu được, chứ các hàng Bồtát cũng
không hiểu thấu. Các bài chú đều có oai thần và công đức không
thể nghĩ bàn, dứt trừ được nghiệp chướng, tiêu tai giải nạn và
tăng trưởng phước huệ, nên cũng gọi là thần chú.
- 3) Niệm
Phật: Niệm là tưởng nhớ. Niêm Phật là tưởng nhớ danh hiệu
Phật, hình dung
Phật và đức hạnh của Phật, để luôn luôn cố gắng noi theo bước
chân Ngài.
- II.- Lý Do
Phải Tụng Kinh - Trì Chú - Niệm Phật
- 1) Vì sao
phải tụng kinh? Chúng ta sống trong cõi dục, cho nên lòng
dục vọng của chúng ta không bao giờ ngừng nghỉ, cho đến trong
giấc ngủ, cũng còn chiêm bao cãi lẩy, cười khóc, vui buồn như
lúc thức. Trong cảnh mê mờ đầy dục vọng ấy, may thay, Ðức Phật
vì đã thương xót chúng sanh mà truyền dạy những lời vàng ngọc,
có thể phá tan màng mây u ám của vô minh và tội lỗi. Nhưng những
lời lẽ cao siêu ấy, chúng ta nghe qua một lần , hai lần cũng
không thể hiểu thấu và nhớ hết được. Cho nên chúng ta cần phải
đọc đi đọc lại mãi, để cho lý nghĩa thâm huyền được tỏa ra, và
ghi khắc trong thâm tâm chúng ta, không bao giờ quên được. Ðó là
lý do khiến chúng ta phải tụng kinh.
- 2) Vì sao
phải trì chú? Chú có công năng phi thường, nếu người thành
tâm trì chú, thì được nhiều hiệu lực không thể tưởng tượng.
Chẳng hạn thần chú "Bạc nhứt thế nghiệp chướng căn bổn đắc sinh
Tịnh độ Ðà la ni" có hiệu lực tiêu trừ được hết gốc
rễ nghiệp chướng, làm cho người được vãng sanh về Tịnh độ. Thần
chú "Tiêu tai kiết tường" có hiệu lực làm cho tiêu trừ các hoạn
nạn, tai chướng, được gặp những điều lành. Thầ chú "Lăng Nghiêm"
thì phá trừ được những ma chướng và nghiệp báo nặng nềv.v...
Thần chú "Chuẩn Ðề" trừ tà, diệt quỷ. Thần chú "Thất Phật diệt
tội" có công năng tiêu trừ tội chướng của chúng ta từ nhiều đời
nhiều kiếp v.v... Vì thế nên chúng ta phải trì chú.
- 3) Vì sao
phải niệm Phật? Tâm chúng ta bị vô minh làm mờ đục, chẳng
khác gì nước bị bùn nhơ làm ngầu đục. Muốn cho nước đục kia hóa
ra trong, không có phương pháp nào hay hơn là gia một chút phèn
vào, thì các chất dơ bẩn ngầu đục kia dần
dần lắng xuống, bấy giờ nước đục trở nên trong sạch. Phương pháp
niệm Phật cũng vậy, có công năng trừ phá các vọng niệm đen tối ở
nơi tâm của chúng ta, làm cho tâm mê muội, mờ ám trở nên sáng
suốt, chẳng khác gì chất phèn làm cho nước trở nên trong vậy.
- Vì sao niệm Phật lại làm cho tâm
mê muội trở nên trong sáng ? Vì lý do rất dễ hiểu sau đây:
- Tâm chúng ta
rất điên đảo, không bao giờ dừng nghỉ. Kinh thường nói: "Tâm
viên, ý mã", nghĩa là "tâm" lăng xăng như con vượn nhảy từ cành
nầy qua cành khác, và "ý" như con ngựa chạy lung tung luôn ngày
suốt buổi. Làm sao cho tâm ý chúng ta đừng nghĩ xằng bậy? Chỉ có
một cách là bắt nó nghĩ những điều tốt lành, hay đẹp. Niệm Phật
chính là nhớ nghĩ đến những Vị hoàn toàn tốt đẹp, những hành
động trong sáng, những đức tánh thuần lương. Càng niệm Phật
nhiều chừng nào, thì ít niệm ma
chừng ấy. Ma ở đây là tất cả những gì xấu xa đen tối, làm hại
mình hại người. Vì thế chúng ta nên luôn luôn niệm Phật.
- III.- Phải
Thường Tụng Những Bộ kinh Nào, Trì Chú Gì Và Niệm Danh Hiệu Phật
Nào ?
- 1.- Các
kinh thường tụng. Phàm là kinh Phật thì bộ nào tụng cũng
được cả, vì kinh nào cũng có công năng thù thắng là phá trừ mê
mờ, khai mở tâm trí sáng suốt cho chúng sanh, nếu chúng ta chí
thành đọc tụng. Nhưng vì căn cơ của chúng ta không đến, nên
chúng ta phải lựa những bộ kinh nào thích hợp với căn cơ và sở
nguyện của chúng ta mà đọc tụng.
- Thông thường,
các Phật tử Việt Nam, từ xuất gia cho đến tại gia đều trì tụng
những kinh như: Di-Ðà, Hồng Danh, Vu-Lan, Phổ Môn, Dược Sư, Ðịa
Tạng, Kim Cang, Lăng Nghiêm, Pháp Hoa v.v...
- Nhiều người
có quan niệm, chọn bộ kinh cho thích hợp với mỗi hoàn cảnh, mỗi
trường hợp để tụng, như lúc:
- - Cầu siêu
thì tụng kinh Di-Ðà, Ðịa Tạng, Vu Lan v.v...; - Cầu an thì tụng
kinh Phổ Môn, Dược Sư v.v...; - Cầu tiêu tai giải bịnh thì tụng
kinh Kim-Cang, Lăng-Nghiêm v.v...; - Cầu sám hối thì tụng kinh
Hồng-Danh.
- Cái quan niệm
lựa chọn như thế cũng có phần hay là làm cho tâm chuyên nhất sẽ
được hiệu nghiệm hơn. Nhưng chúng ta không nên quên rằng về mặt
giáo lý cũng như về mặt công đức, bất luận một bộ kinh nào, nếu
chí tâm trì tụng, thì kết qủa cũng đều mỹ mãn như nhau cả.
- 2.- Các
chú thường trì. Ở chùa, chư Tăng hằng ngày, trong thời khóa
trụng khuya, trì chú Lăng Nghiêm, Ð5i Bi, Thập chú hay Ngũ Bộ
chú v.v... còn ở nhà, phần nhiều cư sĩ trì chú Ðại Bi và Thập
chú, bỡi hai lẽ: một là thời giờ ít ỏi, vì còn phải lo sinh sống
cho gia đình; hai là chú Lăng Nghiêm đã dài, lại thêm chữ âm
vận, trắc trở khó đọc, khó thuộc. Nhưng nếu cư sĩ nào có thể học
hết các thần chú, trì tụng được như chư Tăng thì càng tốt.
- 3.- Các
hiệu Phật thường niệm. Ðúc Phật nào cũng đủ cả 10 hiệu, đồng
một tâm toàn giác, từ bi vô lượng, phước trí vô biên, thương
chúng sanh vô cùng vô tận, nên chỉ niệm danh hiệu một Ðức Phật
nào cũng đều được cảm ứng đến tất cả Chư Phật, công đức cũng đều
vô lượng vô biên.
- Nhưng đứng về
phương diện trìng độ và hoàn cảnh mà luận, thì hiện nay, chúng
ta là người ở thế giới Ta Bà, nhằm quốc độ của Ðức Phật Thích Ca
Mâu Ni giáo hóa, lẽ cố nhiên chúnng ta phải niệm danh hiệu của
Ngài. Dụ như dân chúng ở trong nước nào, phải nhớ nghĩ đến ơn
nhà cầm quyền chính trị sáng suốt ở trong nước đó.
- Nếu Tín đồ
nào tu theo pháp môn Tịnh Ðộ, thì thường ngày phải niệm danh
hiệu Ðức Phật A-Di-Ðà. Pháp môn này được thành lập do lời dạy
sau đây của Ðức Phật Thích Ca: "Ở cõi thế giới Ta Bà này, đến
thời kỳ mạc pháp, cách Phật lâu xa, chỉ
có pháp "Trì danh niệm Phật", cầu vãng sanh về Tây phương cực
lạc là quốc độ của Ðức Phật A-Di-Ðà, thì dễ tu dễ chứng hơn
hết". Ngoài ra, cũng có người niệm danh hiệu Ðức Phật Di-Lặc, để
cầu sanh về cõi trời Ðâu Xuất; hoặc niệm danh hiệu Ðức Phật Dược
Sư, để cầu cho khỏi tật bịnh.
- Tóm lại, tín
đồ phải niệm đủ Tam thế Phật:
- a) Niệm Ðức
Phật Thích Ca Mâu Ni, là niệm Ðức Phật hiện tại, cũng là Ðức
Phật Giáo chủ của chúng ta.
- b) Niệm Ðức
Phật A-Di-Ðà, là niệm Ðức Phật đã thành từ quá khứ xa xưa, mà
cũng là Ðức Phật tiếp dẫn chúng ta về Cực Lạc.
- c) Niệm Ðức
Phật Di-Lặc, là niệm Ðức Phật vị lai.
- IV.- Lợi Ích
Của Sự Tụng Kinh - Trì Chú - Niệm Phật
- 1.- Lợi
ích của sự tụng kinh. Những lời giáo hóa trong ba tạng kinh
điển của Phật, đều toàn là những lời hiền lành, sáng suốt do
lòng từ bi và trí tuệ siêu phàm của Phật nói ra. Kinh Phật, vì
thế, có phần siêu việt hơn tất cả những lời lẽ của thế gian. Nếu
chúng ta chí tâm trì tụng, chắc chắn sẽ được nhiều lợi ích cho
mình, cho gia đình và những người chung quanh:
- a) CHO MÌNH:
Lúc tụng niệm, hành gỉa đem hết tâm trí chí thành đặt vào văn
kinh để khỏi sơ xuất, nên sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý
không còn móng lên mười điều ác nữa, mà chỉ ghi nhớ những lời
hay, lễ phải.
- b)CHO GIA
ÐÌNH: Trước khi sắp sửa tụng kinh, những người trong nhà đều dứt
các câu chuyện ngoài đời và khách hàng xóm đến ngồi lê đôi mách
cũng tự giải tán. Trong gia đình nhờ thế được thanh tịnh, trang
nghiêm, hòa thuận.
- c)CHO NGƯỜI
CHUNG QUANH: Trong những lúc đêm thanh canh vắng, lời tụng kinh
trầm bỗng theo với tiềng mõ nhịp đều, tiếng chuông ngân nga, có
thể đánh thức người đời ra khỏi giấc mê, đưa lọt vào tai kẻ lạc
lối những ý nghĩa thâm huyền, những lời khuyên dạy bổ ích, chứa
đựng trong kinh mà hành giả đang tụng.
- Như vậy rõ
ràng tụng kinh chẳng những có lợi ích cho mình, cho gia đình, mà
còn cho những người chung quanh nữa. Ðó là mới nói những điều
ích lợi thông thường có thể thấy được, ngoài ra tụng kinh còn có
những điều lợi ích, linh nghiệm lạ thường,
không thể giải thích được, ai tụng sẽ tự chứng nghiệm mà thôi.
- 2.- Lợi
ích của sự trì chú. Các thần chú tuy không thể giải nghĩa ra
được, nhưng người chí tâm thọ trì, sẽ được công hiệu thật là kỳ
diệu, khó có thể nghĩ bàn, như người uống nước ấm, lạnh thì tự
biết lấy. có thể nói: một câu thần chú, thâu gồm hết
một bộ kinh, vì vậy, hiệu lực của các thần chú rất phi thường.
Khi gặp tai nạn, nếu thực tâm trì chú, thì mau được giải nguy.
Như thuở xưa, Ngài A-Nan mắc nạn, Ðức Phật liền nói thần chú
Lăng Nghiêm, sai ngài Văn Thù Sư Lợi đến cứu, thì Ngài A-Nan
liền được thoát nguy.
- Ngày nay có
nhiều trường hợp mà người thành tâm niệm chú thấy được hiệu
nghiệm rõ ràng. Theo lời Bác sĩ Thiện Thành nói lại, thì vào năm
1946, giữa lúc loạn ly, BS ở trong một vùng rừng sâu, núi hiểm
tại Trung việt. Một lần Bs bị một chứng bịnh
nan y, mặc dù lương dược Ðông, Tây sẵn có trong tay, cũng không
làm sao trị được. Bác sĩ tưởng sẽ bỏ mình trong xóm người Sơn
cước, không ngờ lúc còn ở dưới mái nhà cha mẹ, thường đêm nghe
thân phụ trì chú "Công Ðức Bảo Sơn", BS liền đem
thần chú ấy ra áp dụng. Trong lúc ấy, các người nuôi bịnh cũng
xúm lại hộ niệm cho BS suốt đêm. Sáng hôm sau, quả thật BS lành
mạnh trở lại một cách dễ dàng, làm cho tất cả các bạn đồng
nghiệp đều ngạc nhiên.
- 3.- Lợi
ích của sự niệm Phật. Niệm Phật công đức lại còn to lớn hơn
nữa, vì một câu niệm Phật có thể gồm thâu cả 3 tạng kinh điển,
hết thảy thần chú, cùng là các pháp viên đốn, như tham thiền,
quán tưởng v.v...
- Ðức Phật
Thích Ca Mâu Ni có dạy rằng: "Sau khi Phật nhập diệt , về thời
kỳ mạt pháp, đến kiếp hoại, các kinh sẽ bị tiêu diệt hết, chỉ
còn kinh Di-Ðà lưu truyền lại độ trăm năm rồi cũng diệt luôn.
Lúc bấy giờ chỉ còn một câu niệm Phật gồm 6 chữ
"Nam mô A-Di-Ðà Phật", mà đủ năng lực đưa chúng sanh về cõi
"Cực-Lạc".
- Lời Phật nói
không sai, bằng chứng là có nhiều nhân vật chuyên trì một câu
niệm Phật, mà biết được ngày giờ và thấy được điềm lành trước
khi vãng sanh. Như Tổ Huệ Viễn, trong 10 năm niệm Phật, 3 lần
thấy Ðức Di-Ðà rờ đầu; trong hội Liên xã, có 123 người chuyên tu
phép "Trì danh niệm Phật", đều lần lược được Phật rước về cõi
Tịnh Ðộ. Gần đây ở Nam phần VN, vào năm 1940, có 3 vị sĩ quan
Pháp là Ðại úy Touffan, Trung úy Retourna, Thiếu úy Brillant
đồng lái một chiếc thuỷ ohi cơ bay từ đảo Côn Lôn về Sài gòn.
Giữa đường, chiếc phi cơ hư, , rơi xuống biển. Thiếu úy Brillant
(người Pháp lai Việt) niệm Phật cầu cứu. Chiếc thủy Phi cơ lửng
thửng trên mặt biển suốt 3 giờ , mới gặp một chiếc tàu đánh cá
của người Nhật đến cứu. Khi 3 vị vừa bước sang tàu, thì chiếc
phi cơ chìm ngay xuống biển. Ai nấy đều lấy làm lạ, hỏi nhau:
Tai sao khi nãy có 3 người ngồi nặng, phi cơ lại nổi, mà bây giờ
không có người nó lại chìm ngấm? Chỉ có thiếu úy Brillant mới
giải thích được sự lạ lùng ấy. Ông kể lại cho mọi người nghe sự
linh ứng của pháp niệm Phật mà ông thường áp dụng, và lần nầy là
lần thứ hai ông được thoát nạn nhờ phép niệm Phật ấy. Ðại úy
Touffan và trung úy Retourna hết lòng tin tưởng, nên khi về đến
Saigon, hai vị sĩ quan ấy chung nhau một số tiền, cất một cái am
đẹp đẽ ở Cát lái, làng Thạnh Mỹ Lợi, tỉnh Gia Ðịnh để thờ Phật
gọi là tỏ lòng tri ân. Ðây chỉ là một câu chuyện trong muôn ngàn
câu chuyện về sự lợi ích của phép niệm Phật.
-
C.- Kết Luận
- Khuyên Phật
Tử Tụng kinh Niệm Phật Và Trì Chú Cả Sự Lẫn Lý Cho D(ược Viên
Dung . Tụng kinh, trì chú, niệm Phật là 3 phương pháp tu hành
gồm đủ cả Sự và Lý. Dù tại gia hay xuất gia, dù tiểu thừa hay
Ðại thừa, tiêu cực hay tích cực, không ai
có thể rời 3 phương pháp nầy được. Bỡi thế, Phật tử cần phải học
tụng kinh, niệm Phật và trì chú choSự,Lý đi đôi, lời nói và việc
làm phù hợp, mới có được kết quả tốt đẹp.
- Ba pháp môn
tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tuy không đồng mà kết qủa đều thù
thắng. Phật tử có thể tùy theo trình độ, hoàn cảnh của mình mà
tu một, hai hay cả ba pháp ấy. Thí dụ như người biết chữ và mạnh
khoẻ, công ăn việc làm hằng ngày không bận rộn lắm, thì nên tụng
kinh, trì chú, niệm Phật đủ cả ba pháp môn. Còn người tuổi gìa,
sức yếu, mắt mờ, răng rụng, miệng lưỡi phều phào, thân thể mỏi
mệt, nếu tụng kinh , trì chú không nổi, thì phải chuyên tâm niệm
Phật, đi đứng nằm nồi,
túc nào cũng phải niệm Phật. Nhưng các Phật tử nên nhớ, khi
miệng tụng kinh, trì chú, niệm Phật, tay gõ mõ, đánh chuông, lần
chuỗi, thì tâm trí phải gột rửa hết bao ý nghĩ bất chính, những
ham muốn đê hèn, và đạc vào dấy hình ảnh của Ðấng Từ Bi.
Rồi phải noi gương Ngài, mở lòng thương rộng lớn, nghĩ đến nỗi
thống khổ của muôn loài và phát nguyện đem sức mình ra, ban vui
cứu khổ cho tất cả. Ðến khi thôi tụng niệm, trở lại tiếp xúc
việc đời, thì phải làm thế nào cho những hành động của mình cũng
được từ bi như tư tưởng và lời nói của mình vậy.
- Người tụng
kinh trì chú và niệm Phật, làm đúng như thế, thì chắc chắn sẽ
được chứng qủa Thánh không sai.
--o0o--
|
|