-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Nhất
Nhân Thừa Phật Giáo
- --- o0o ---
- Bài Thứ 10
- Bát Quan
Trai Giới
-
A. Mở Ðề
-
Ðức Phật Thích Ca nói pháp gần 50
năm, có đến 84.000 pháp môn, vô lượng diệu nghĩa. Mặc dù giáo
pháp nhiều như thế, nhưng không ngoài ba môn chính là "giới,
định, huệ".
-
Trong "giới, định, huệ", thì giới
là phần quan trọng, là phần căn bản. Nhờ giới, tâm mới định, tâm
có định, huệ mới phát sanh, huệ có phát sanh mới dứt trừ được vô
minh phiền não; vô minh phiền não có dứt trừ mới minh tam kiên
tánh và thành Phật. Nhưng giới cũng có nhiều thứ: có thứ cao,
thứ thấp, có thứ áp dụng cho hàng xuất gia, có thứ cho hàng tại
gia. Trong hàng xuất gia, thì Sa di chỉ giữ 10 giới, Tỳ kheo giữ
250 giới, Tỳ kheo ni đến 348 giới. Về phía tại gia thì có Tam
quy, Ngũ Giới, Bát quan trai giới, Bồ Tát giới, Tam quy Ngũ
Giới, thì chúng ta đã học rồi; Bồ Tát giới thì khó khăn hơn,
chúng ta sẽ học sau. Bây giờ đây, chúng tôi chỉ nói đến Bát quan
trai giới.
-
B. Chánh Ðề
-
I. Ðịnh Nghĩa
-
Bát quan trai giới là một phép tu
hành của người tại gia áp dụng trong một ngày một đêm (24 giời).
-
Chữ "Quan" là cửa, cửa ngăn chặn 8
điều tội lỗi. Chữ "Trai", tiếng Phạn là Posadha, nghĩa là khi đã
qua giờ ngọ (12 giờ trưa) không được ăn nữa. Vậy "Bát quan trai
giới" là sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong 24 tiếng
đồng hồ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội lỗi sau đây:
-
1. Không được sát sanh
-
2. Không được trộm cướp
-
3. Không được dâm dục
-
4. Không được nói dối
-
5. Không được uống rượu
-
6. Không được trang điểm, thoa dầu
thơm, múa hát và xem múa hát.
-
7. Không được nằm ngồi giường cao
rộng đẹp đẽ
-
8. Không được ăn quá giờ ngọ
-
II. Giải Rõ Tám Ðiều Ngăn Cấm Nói
Trên
-
1. Không được sát sanh.
-
a) Ý nghĩa vì sao không được sát
sanh:
-
Chúng sanh mặc dù hình dáng có khác
nhau, nhưng cùng có một điểm quan trọng giống nhau là tham sống,
sợ chết, biết đau khổ vui mừng. Không cần phải dẫn chứng cho xa
xôi, ngay trong sự quan sát hằng ngày, chúng ta cũng nhận thấy:
cá thấy người cá lội xa, chim thấy người chim bay cao, cũng như
người thấy cọp người lẩn trốn, vì đều sợ lâm nguy đến tính mạng
cả. Khi bị bắt, chim, cá hay người đều vùng vẫy để chốn thoát.
Và khi được thả ra, thoát chết, chao ôi! Còn gì sung sướng cho
bằng! Nhận thấy được sự tham sống sợ chết, nối vui mừng, đau xót
của muôn loại như thế, mà chúng ta còn đang tâm giết hại sanh
mạng, thì thật lạ nhẫn tâm, tàn ác vô cùng.
-
Từ trước đến nay, loài người đã
giết hại rất nhiều, bằng đủ phương tiện, nào làm lưới để bắt cá
dưới nước, dùng cung tên súng đạn để bắt cầm thú trên đất...và
nhất là dùng đủ mưu mô kế hoạch để giết hại chém giết lẫn nhau.
Về phía thiện, thì có nhiều người cũng thiện vô cùng; nhưng về
phía ác, thì cũng nhiều người ác vô cùng.
-
Chúng ta là Phật tử , nghĩa là
những người theo đạo Từ bi. Chúng ta cần phải cố gắng đừng sát
hại sinh vật và nhất là đừng sát hại người. Về sự sát hại người,
trong Ngũ Giới Phật đã tuyệt đối cấm chỉ, và chúng ta cũng đã
phát nguyện giữ giới ấy. Nhưng về sinh vật, vì một số Phật tử
còn ăn mặn, nên chưa tuyệt đối giữ được giới sát. Vậy ít ra
trong ngày thọ Bát quan trai, chúng ta hãy tuyệt đối giữ giới
ấy. Chúng ta không giết người, không trù tính mưu mô giết người,
đã đành ! Chúng ta cũng không nên động lòng trướcv sanh mạng của
tất cả mọi loài hữu hình. Hơn nữa, nếu thấy ai có ý giết hại
sinh vật, chúng ta phải khuyên lơn ngăn cản đừng cho người ta
thi hành ác ý ấy.
-
Ðược như thế là ta giữ được trọn
vẹn giới sát, mặc dù chỉ trong một ngày đêm, nhưng lợi ích sẽ
lớn lao vô cùng cho việc tu hành của chúng ta.
-
2. Không được trộm cướp.
-
Hai chữ trộm cướp ở đây có một ý
nghĩa vô cùng. Những vật thuộc quyền sở hữu của người ta, từ
vàng, bạc, châu báu, đất ruộng nhà cửa, cho đến đồ đạc, cây kim
sợi chỉ, cọng rau, người ta không cho mà mình lấy, là trộm cướp.
Lường thăng tráo đấu, đo thiếu lấy thừa, đi làm tr giờ, boc lột
công nhân, lấy của công, ăn hối lộ, được của người không trả
lại, đều là trộm cướp.
-
Người đời coi tiền của hơn tánh
mạng, trèo non, lặn suối, lo mưu này tính kế nọ để làm ra tiền
nuôi thân và gia đình, và để dành dụm phòng khi đau ốm, tai nạn.
Nếu rủi bị mất tiền của do mồ hôi nước mắt mà có, người ta vô
cùng đau khổ, tuyệt vọng có khi đến quyên sinh. Chúng ta cũng đã
có nhiều khi đau buồn vì mất của, thì xét người khác cũng vậy.
Chúng ta không muốn ai trộm cướp của mình, thì tất nhiên mình
cũng không nên trộm cướp của ai. Ðó là lẽ công bằng rất giản dị.
Huống chi chúng ta là Phật tử , nghĩa là những người quyết tâm
diẹt trừ tham dục, để được giải thoát, thì lẽ nào ta lại lấy của
phi nghĩa?
-
Trong cuộc đời tranh đấu hằng ngày
để sống, có nhiều khi chúng ta không giữ được một cách tuyệt đối
giới cấm này, chẳng hạn, chúng ta làm ít mà cố đòi lương cho
cao, bán hàng xấu với gía cao, mưu tính chước này kế nọ để được
lợi nhiều một cách thiếu chính đáng...Có khi chúng ta nhận thấy
như thế là bất chính, nhưng tự bào chữa rằng vì sự sống của gia
đình, thân thuộc mà phải làm như thế.
-
Nhưng trong ngày thọ Bát quan trai
giới, chúng ta hãy quyết không trộm cướp đã đành, mà cũng không
được để cho một ý nghĩ tham lợi móng lên trong tâm. Chúng ta
không trộm cướp, không nghĩ đến sự trộm cướp, mà thấy ai trộm
cuớp hay nẩy ra ý trộm cướp thì chúng ta cũng khuyên can họ,
ngăn ngừa không cho họ làm bậy. Không những không trộm cướp và
ngăn ngừa sự trộm cướp mà thôi, chúng ta còn bố thí cho những
người nghèo khổ, thiếu ăn thiếu mặc, tìm cách giúp đỡ những
người thân thuộc, trong cảnh túng thiếu.
-
Giữ được giới này một cách tuyệt
đối, thì dù thời gian ngắn ngủi trong 24 giờ đồng hồ, chúng ta
cũng đã gieo được những nhân lành tốt đẹp cho sự tu hành của
chúng ta.
-
3. Không được dâm dục.
- Dâm
dục là cái nghiệp nhơn sanh tử luân hồi, nên người xuất gia phải
đoạn hẳn. Phật dạy rằng: "Người muốn đoạn trừ sanh tử, chứng quả
Niết bàn mà không trừ hẳn dâm dục, thì không khác kẻ nấu cát sạn
mà muốn cho thành cơm, dù ra công đem nấu, trải qua năm ngàn
kiếp cũng không thành cơm được".
-
Vậy những Phật tử xuất gia, muốn
thành Phật quả thì phải trừ dâm dục.
-
Còn những Phật tử tại gia, chưa có
thể hoàn toàn đoàn trừ dâm dục được, thì Phật chỉ cấm tà dâm,
nghĩa là ngoài vợ chồng, không được lan chạ; và giữa vợ chồng,
cũng cần phải giữ chánh l, biết tiết dục để cho thân tâm được
trong sạch nhẹ nhàng.
-
Nhưng đây là nói về ngày thường của
Phật tử tại gia. Chứ đến ngày thọ Bát quan trai giới, thì tuyệt
đối phải giữ giới tịnh hạnh, không được hành động dâm dục đã
đành, nà cũng không được nhớ nghĩ đến những điều dâm dục.
-
Nếu triệt để giữ đúng giới này, thì
dù chỉ trong 24 giờ đồng hồ, lợi ích cũng rộng lớn vô cùng, vì
chúng ta đã có dịp để gieo nhơn tịnh hạnh là một nhơn rất quý
báu trong sự tu hành diệt dục.
-
4. Không được nói dối.
-
Nói dối là tâm nghĩ miệng nói trái
nhau. Nói dối có 4 cách, mà chúng ta đã có học rồi trong bài Ngũ
Giới. Ðó là: nói không thật, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều,
nói lời hung ác.
-
Chúng ta đã thấy, hằng ngày trong
đời, tai hại của sự nói dối. Tai hại lớn nhất là làm mất lòng
tin cậy nhau. Trong một gia đình mà không tin nhau, thì gia đình
sẽ tan nát; trong một xã hội mà không tin nhau, thì xã hội sẽ
điêu tàn.
-
Trong đời sống hằng ngày chúng ta
chưa có thể hoàn toàn giữ giới này được, thì trong ngày thọ Bát
quan trai giới, chúng ta hãy triệt để thực hành giới cấâm này.
Chúng ta không nói sai, không nói thêu dệt, không nói hai chiều,
không nói lời hung ác đã đành; chúng ta lại còn khuyên răn những
người chung quanh giữ đúng giới không nói láo ấy !
- Nếu
thực hành triệt để giới cấm này, thì dù chỉ trong một ngày đêm,
chúng ta cũng đã gieo được một hột nhơn quý báu rất hiếm có
trong đời này là: lòng chân thật.
-
5. Không được uống rượu.
-
Rượu làm say mê, tối tăm trí não
người uống. Nó còn nguy hiểm hơn cả thuốc độc, vì thuốc độc uống
vào chết ngay, song chỉ giết chết một đời người thôi; chớ rượu
làm cho người cuồng tâm, mất trí, gây nên nhièu tội lỗi, chết đi
sanh lại, luân hồi nhiều kiếp trong tối tăm si ám.
-
Bởi thế, trong Kinh, Phật dạy: "Thà
uống nước đồng sôi cho tan mất thân này, chứ không nên uống
rượu".
-
Chúng ta là Phật tử , nghĩa là
những người đang trau dồi Trí tuệ để được sáng suốt như Phật,
chúng ta không được uống rượu. Chúng ta không uống rượu đã đành,
mà cũng không khuyên mời người uống rượu. Tự mình uống rượu tội
còn nhẹ, chớ khuyên mời người khác uống, tội lại nặng hơn.
-
Song, trong lúc đau ốm, nếu lương y
bảo pahỉ có rượu hòa với thuốc uống mới lành bệnh, thì chúng ta
cũng được tạm dùng, Khi đó rượu trở thành một vị thuốc, chứ
không phải là một vị làm cho trí não ta cuồng loạn nữa.
-
Ðấy là nói về ngày thường, chứ
trong ngày thọ "Bát quan trai giới", chúng ta phải trừ tuyệt
rượu, không được uống đã đành, mà còn khuyên răn người khác đứng
uống nữa.
- 6.
Không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và đi xem múa hát.
-
Năm giác quan: tai, mắt, mũi, lưỡi,
thân là năm cửa ngõ, có thể mở đường cho chúng ta đến cảnh giới
Niết Bàn, hay vào địa ngục. Nếu chúng ta biết mở năm cánh cửa ấy
về nẻo thanh tịnh, nghe những lời hay lẽ phải, thấy những điều
thiện, điều lành, ngửi những mùi thơm tinh khiết, đạo vị, thì
con đường đến Niết Bàn, giải thoát không xa. Trái lại, nếu chúng
ta hướng những cánh cửa giác quan ấy vào cõi ô trọc, mở rộng
chúng cho tội lỗi ùa vào, nào nghe tiếng du dương luyến ái của
dục vọng, thấy cảnh trụy lạc, dâm ô, ngửi mùi vị say nồng, kích
thích dục lạc, thì con đường địa ngục đã sẵn sàng mở rộng để đón
chờ chúng ta.
-
Phật cấm Phật tử trang điểm, tô sơn
trét phấn, xức ướp dầu thơm, múa hat lả lơi, quyến rũ, hay cấm
đi xem những cảnh múa hát ấy, là vì muốn cho chúng ta khỏi đọa
vào địa ngục.
-
Nhưng trong đời sống hằng ngày của
người Phật tử tại gia, vì còn tiếp xúc với đời sống xã hội, nên
phải ăn mặc tề chỉnh trang nghiêm, đôi khi cũng phải đi dự những
buổi hòa nhạc, hay múa hát, min là những thứ âm nhạc, những điệu
múa hát ấy có tánh cách trong sạch, xây dựng và hướng thiện.
Nhưng trong hiện tại, các thứ nghệ thuật: kịch nhạc, ca, vũ, cải
lương, chiếu bóng..phần nhiều có tánh cách trụy lạc, thoái hóa,
chúng ta nên đề phòng, đừng quá d dãi mà sa vào vòng tội lỗi.
-
Trên đây là nói trong ngày thường,
chứ ngày thọ giới Bát quan trai, chúng ta nhất định không được
trang điểm, xức ướp dầu thơm, múa hát hay đi xem múa hát. Hơn
nữa, chúng ta phải cố gắng diệt trừ những âm hưởng, bóng dáng
của những thứ nghệ thuật không lành mạnh, trong đầu óc chúng ta.
-
Ðưọc như thế, thì tuy thời gian chỉ
ngắn ngủi có 24 giờ, ảnh hưởng tốt đẹp của nó vô cùng quý báu
cho sự tu hành của chúng ta.
-
7. Không được nằm ngồi giường cao
đẹp, rộng lớn.
- Ðiều răn cấm này cũng như điều răn cấm thứ sáu, có mục đích ngăn
ngừa thân xác ta, không cho buông lung theo những cảm giác mơn
trớn khoái lạc của giường cao nệm tốt, chăn ấm màn êm. Vì những
cảm giác này có thể kích thích lòng ham muốn bất chính của xác
thân, tạo điều kiện cho chúng ta gây tội lỗi, nên Phật ché ra
giới cấm này. Xưa Ngài Ngộ Ðạt Quốc sư là một bực cao đức, được
vua Ý Tôn và vua Hy Tôn hết sức ưu đãi. Vua Ý Tôn cúng cho Ngài
một bảo tọa bằng trầm hương rất quý báu. Từ khi được bảo tọa ấy,
Ngộ Ðạt Quốc Sư mống niêm danh lợi, thành ra thất đức, phải chịu
nhiều tai vạ và đau khổ.
-
Vì hiểu rõ cái tai hại của giường
cao chiếu rộng, chăn ấm nệm êm, nên xưa Ngài Hiếp Tôn Giả từ khi
xuất gia, lưng không nằm chiếu; Ngài Cao Phong Diệu thiền sư lập
nguyện: ba năm không nằm giường chõng; đức Phật Thích Ca , trong
khi xuất gia tìm đạo, đã gối cỏ nằm sương, từ năm này sang năm
khác...
-
Noi gương người xưa, các vị xuất
gia chỉ nằm trên một cái giường nhỏ hẹp, vừa ngủ, chứ không bao
giờ dùng giường rộng nệm cao. Kẻ tại gia cũng nên tập dần đức
tánh giản dị đạm bạc ấy. Nếu chưa làm được trong ngày thường,
thì ngày thọ giới Bát quan trai, cũng phải triệt để thi hành
giới thứ bảy này.
-
8. Không được ăn quá giờ ngọ.
-
Trong luật Phật dạy: "Chư thiên ăn
sớm mai, Phật ăn giờ ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, ngạ quỷ ăn
tối, chư Tăng học theo Phật, phải ăn đúng giờ ngọ".
- Ăn
đúng giờ ngọ, được năm điều lợi sau đây:
- Ít mống tâm sai quấy
-
Ít buồn ngủ
-
Dễ được nhất tâm
-
Ít hạ phong
-
Thân được yên ổn và ít sanh bệnh.
-
Trừ một vài trường hợp như khi đau
ốm, luật cũng châm chước cho được ăn cơm cháo sau giờ ngọ, nhưng
khi ăn phải sanh lòng hổ thẹn.
-
Vì những lợi ích thiết thực nói
trên, nên người xuất gia cần phải thực hành. Còn Phật tử tại
gia, khi tu Bát quan trai giới cũng phải giữ đúng giới này.
-
C Kết Luận
-
1. Lợi ích của Bát quan trai giới
rất lớn lao.
-
Như chúng ta đã thấy ở các đoạn
trên, Bát quan trai giới là một phát tu vô cùng lợi ích cho Phật
tử tại gia. Trong thời gian tu hành ấy, thân, khẩu, ý của người
thọ giới được hoàn toàn thạnh tịnh, tuy chỉ có 24 giờ đồng hồ,
nhưng 24 giờ ấy còn quý báu hơn cả một đời của người không tu
hành. Tuy lượng rất ít, mà phẩm lại nhiều vô cùng. Nó chỉ là
giọt nước, nhưng là một giọt nước trong sạch hoàn toàn, cho nên
nó còn quý hơn cả một ao nước đục bùn nhơ, nó chỉ là một viên
ngọc nhỏ xíu, nhưng đó là viên ngọc Ma ni, nên nó còn quý hơn
trăm ngàn châu báu khác.
-
Chúng ta hãy phân tích một cách rõ
ràng những lợi ích mà chúng ta đã thuâ hoạch được trong 24 giờ
ấy mà xem.
-
Nhờ giới thứ Nhất, tâm ta không có
ác ý giết hại sanh vật, miệng ta không nhai nuốt những máu huyết
tanh hôi, thân ta không nặng nề vì thịt cá. Ðối với chung quanh,
ta không làm cho người và súc vật đau khỏ, mất thân mạng.
-
Nhờ giới thứ Hai, tâm ta không
động, ý ta không tham lam, thân ta không mang nặng những vật phi
nghĩa. Ðối với người chung quanh, ta không làm họ đau khổ vì mất
của cải m,à họ đã nâng niu, quý trọng.
-
Nhờ giới thứ Ba, tâm ta được thanh
tịnh, thân ta khỏi ô uế. Ðối với người bạn trăm năm, cùng những
người chung quanh, ta giữ đúng lề, làm choi họ kính trọng.
-
Nhờ giới thứ Tư, tâm ta không tà
vạy, lưỡi ta không dối trá, điêu ngoa. Ðối với người chung
quanh, ta giữ được chữ tín, làm mọi người khỏi lo sợ, nghi ngờ
vì ta.
-
Nhờ giới thứ Năm, tâm ta được minh
mẫn, miệng ta không nồng nặc hơi men, thân ta không loạn động.
Ðối với người chung quanh, ta không làm cho họ phải lo sợ, khổ
sở vì con ma men này hành hạ.
-
Nhờ giới thứ Sáu, tâm ta không
buông luông theo dục lạc ta không dung chứa những hình ảnh, mùi
vị, âm thanh tà tạp, dâm ô...Ðối với người chung quanh, ta không
làm cho họ phải tập nhim những cảm giác không trong sạch, không
thanh thoát.
- Nhờ
giới thứ Bảy, tâm ta không mống lên những niệm danh lợi, xa hoa;
thân ta không bị dục lạc lôi cuốn. Ðối với người chung quanh, ta
d gần gũi, thân cận, vì không bị cái cao sang, phù phiếm bên
ngoài ngăn cách.
-
Nhờ giới thứ Tám, tâm ta được định
tỉnh, sáng suốt, thân ta nhẹ nhàng, ít bệnh tật; đối với các
loài chung quanh, như người nghèo đoí, ngạ quỷ, súc sinh, ta
không gây ra sự thèm khát, vì sự lục lạo ăn uống về đêm.
-
Bao nhiêu sự lợi ích cho mình và
cho người mà chúng ta đã thâu thập được trong khoảng 24 giờ đồng
hồ, thử hỏi có một pháp tu hành của người tại gia nào quý báu
hơn thế nữa?
-
2. Bởi vậy Phật tử nên thực hành
Bát quan trai giới.
-
Phật tử tại gia mặc dù suốt ngày
suốt tháng bận bịu về sinh kế làm ăn, mỗi tháng cũng nên sắp xếp
việc nhà, vào chùa thọ Bát quan trai giới một vài lần. Nếu hoàn
cảnh thuận lợi, có thể thọ được nhiều lần lại càng tốt.
-
Nếu không đủ điều kiện đến chùa,
thì phương tiện của nhà tu cũng được, nhưng lợi ích không bằng
đến chùa.
-
Vậy xin khuyên các Phật tử tại gia,
nên cố gắng thực hành y như lời Phật dạy, tu theo hạnh giải
thoát, rồi khuyên nhiều người thật hành theo, để cùng nhau tiến
bước lên đường giải thoát, an vui.
- Hòa Thượng Thiện Hoa
- PHỤ BÀI SỐ 10
- NGHI THỨC
THỌ BÁT QUAN TRAI GIỚI
-
Theo phép thọ Bát quan trai giới,
người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới
thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ
lớp rất nhiều.
-
Ngoài trường hợp trên, nếu không có
thuận tiện để cầu thầy truyền cho, thì phương tiện tự mình đối
trước tượng Phật , theo phép như sau đây mà tự thọ.
-
Một điều cốt yếu, trước khi thọ
giới, giới tủ phải sắp đặt chuyện nhà có người thay thế, không
còn lo nghĩ việc gì ở thê gian cả, để cho tâm trí yên tịnh, như
thế thì 24 giờ thọ giới mới được nhiều lợi ích. Muốn được lợi
ích nhiều, giới tủ nên vào chùa thọ Bát quan trai giới tốt hơn.
-
Trước khi thọ giới, phải rửa
tay,rửa mặt, súc miệng sạch sẽ, mặc áo tràng tề chỉnh, đến trước
bàn thờ Phật , thắp ba cây hương rồi quì xuống, đọc bài cúng
hương:
-
BÀI CÚNG HƯƠNG
-
Nguyện thử diệu hương vân
-
Biến mãn thập phương giới
-
Cúng dường nhứ thiết Phật
-
Tôn Pháp chư Bồ Tát
-
Vô biên Thinh Văn chúng
-
Cập nhứt thiết Thánh Hiền
-
Duyên khởi quang minh đài
-
Xứng tánh tác Phật sự
-
Phổ huân như chúng sanh
-
Giai phát Bồ đề tâm
-
Vin ly chư vọng nghiệp
-
Viên thành Vô thượng đạo
-
(Xá 3 xá, tiếp đọc bài khẩn nguyện)
-
BÀI NGUYỆN
-
Tư thời Ðệ tử (tên họ gì)
pháp danh (pháp danh gì) kin nhựt qui đầu Tam Bảo, phát
nguyện thọ trì Bát quan trai giới, nhứt nhựt nhứt dạ. Duy nguyện
thập phương chư Phật , chư Ðại Bồ Tát, Hộ pháp thiện thần, từ bi
gia hộ Ðệ tử thân tâm thanh tịnh, Phật sự viên thành.
-
(Xá đứng dậy cắm hương xướng l)
-
Nhứt tâm đảnh l, tận hư không ,
biếm pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật , Tôn
Pháp, Hiền Thánh Tăng, Thường trú Tam Bảo (1 lạy).
-
Nhứt tâm đảnh l Ta Bà Giáo chủ,
Ðiều ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật , Ðương Lai Hạ Sanh Di Lặc
Tôn Phật , Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ
Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát.
(1 lạy).
-
Nhứt tâm đảnh l Lạc bang Giáo chủ,
Ðại từ, Ðại Bi tiếp dẫn Ðạo sư A Di Ðà Phật , Ðại bi Quán Thế Âm
Bồ Tát, Ðại Thế Chí Bố Tát, Ðại Nguyện Ðịa Vương Bồ Tát, Thanh
Tịnh Ðại Hải Chung Bồ Tát. (1 lạy)
-
(Ðứng dậy chắp tay tụng bài Ðại bi)
-
Nam mô Ðại bi hội thượng Phật Bồ
Tát. (3 lần).
-
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại Ðại bi
tâm đà la ni.
- Nam
mô hắc ra đác na đa ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế,
thước bà ra da, bồ đề tát đóa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha
ca lô ni ca da. Án tát bàn
ra phạt duệ, số đát na đác tả. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a
rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha
bàn đa sa mế, tất bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát
đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê,
lô ca đế, ca ra đế. di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát
bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông,
độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra,
địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra mục đế
lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt
sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê
rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ,
bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni
na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta
bà ha. Tất đà dủ nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì,
ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê gia ta bà
ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ
ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà
ra dạ ta bà ha. Ma bà lợi thắng kiết ra dạ ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ gia.
Nam mô a rị gia bà lô kiết đế, thướt bàn ra dạ ta bà ha. Án tát
diện đô mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha.
-
Nam mô thập phương thường trụ Tam
Bảo (3 lần).
-
(Quì xuống chắp tay đọc bài Sám hối
)
-
BÀI SÁM HỐI
-
-
Ðệ tử đã làm các nghiệp ác,
-
Ðều do vô thỉ Tham, Sân, Si,
-
Từ thân, miệng, ý mà sanh ra
-
Tất cả Ðệ tử xin sám hối.
-
(Ðọc 3 lần rồi đứng dậy)
-
Nam mô Cầu sám hối Bồ Tát Ma ha tát
-
(3 lần, lạy 3 lạy)
-
(Lạy xong quì xuống chắp tay đọc
bài
-
phát nguyện thọ Bát quan trai giới)
-
BÀI PHÁT NGUYỆN THỌ GIỚI
-
MỘT LÀ GIỮ GIỚI KHÔNG SÁT SANH
-
Ðệ tử thề trọn một ngày đêm nay,
nguyện giữ giới không sát hại các loài sanh vật. Tự mình không
sát hại, không bảo người sát hại, hoặc thấy người khác sát hại
cũng không sanh tâm vui mừng. (1 xá)
-
HAI LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG TR"M
CƯỚP
-
Ðệ tử thề trọn một ngày đêm nay,
nguyện giữ giới không trộm cướp của cải mọi người. Tự mình không
trộm cướp, không bảo người trộm cướp, hoặc thấy người khác trộm
cướp, cũng không sanh tâm vui mừng. (1 xá)
-
BA LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG DÂM DỤC
-
Ðệ tử thề trọn một ngày đêm nay,
nguyện giữ giới không phá phạm hạnh (không dâm dục). Tự
mình không phá phạm hạnh, không bảo người phá phạm hạnh, hoặc
thấy người khác phá phạm hạnh cũng không sanh tâm vui mừng.(1
xá)
-
BỐN LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG NÓI
DỐI
-
Ðệ tử thề trọn một ngày đêm nay,
nguyện giữ giới không nói dối. Tự mình không nói dối, không bảo
người nói dối, hoặc thấy người khác nói dối, cũng không sanh tâm
vui mừng. (1 xá)
-
NĂM LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG UỐNG
RƯ"U
-
Ðệ tử thề trọn một ngày đêm nay,
nguyện giữ giới không uống rượu. Tự mình không uống rượu, không
bảo người uống rượu, hoặc thấy người khác uống rượu, cũng không
sanh tâm vui mừng. (1 xá)
-
SÁU LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG TRANG
ÐIỂM VÀ CA HÁT
-
Ðệ tử thề trọn một ngày đêm nay,
nguyện giữ giới không đeo bông, xoa hương, ca xướng, múa hát. Tự
mình không trang điểm ca hát, không bảo người trang điểm ca hát,
hoặc thấy người khác trang điểm ca hát, cũng không sanh tâm vui
mừng. (1 xá)
-
BẢY LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG NẰM
NGỒI GIƯỜNG CAO TỐT
-
Ðệ tử thề trọn một ngày đêm nay,
nguyện giữ giới không nằm ngồi giường cao tốt. Tự mình không nằm
ngồi giường cao tốt, không bảo người nằm ngồi giường cao tốt,
hoặc thấy người khác nằm ngồi giường cao tốt, cũng không sanh
tâm vui mừng. (1 xá)
-
TÁM LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG ĂN PHI
THỜI
-
Ðệ tử thề trọn một ngày đêm nay,
nguyện giữ giới không ăn phi thời. Tự mình không ăn phi thời,
không bảo người ăn phi thời, hoặc thấy người khác ăn phi thời,
cũng không sanh tâm vui mừng. (1 xá)
-
(Ðứng dậy xướng ba lần)
-
Ma ha Bát nhã Ba la Mật đa Tâm
kinh.
- Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát nhã Ba la Mật đa thời, chiếu
khiến ngũ ẩn giai không , độ nhứt thiết khổ ách.
- Xá
Lợi Tử, Sắc bất dị không , không bất dị sắc, sắc tức thị không ,
không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị.
- Xá
Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diẹt, bất cấu,
bất tịnh, bất tăng, bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ,
tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý; vô sắc,
thinh, hương, vị xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức
giới; vô Vô minh, diệc vô Vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc
vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô
sở đắc cố. Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố Tâm vô quái
ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, vin ly điên đảo mộng
tưởng, cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật , y Bát nhã Ba la mật
đa cố đắc A Nậu Ða đa Tam miệu tam Bồ đề.
- Cố
tri bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú,
thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết
khổ, chơn thiệt bất hư:
- Cố
thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: "Yết đế
yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha".
-
VÃNG SANH THẦN CHÚ
-
Nam mô A di đa bà dạ, đa tha dà đa
dạ, đa điệc dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ,
a di rị đa tỳ can lan đế, a di rị đa tỳ can lan đa, dà di nị, dà
dà na, chỉ đa ca lệ, ta bà ha. (3 lần)
-
TIÊU TAI KIẾT TƯỜNG THẦN CHÚ
-
Nẳng mồ tam mãn đa mẫu đà nẩm. A
bát ra đề, hạ đa xá ta nản nẩm, đác điệc tha. Án khê khê, khê
hế, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát
ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta
phấn tra, ta phấn tra, phiến đề ca, thất rị duệ, ta bà ha. (3
lần)
-
HỒI HƯỚNG
-
Thọ giới công đức thù thắng hạnh,
-
Vô biên thẳng phước giai hồi hướng,
-
Phổ nguyện pháp giới chư chúng
sanh,
-
Tốc vãng Vô lượng quang Phật sát.
-
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền
não,
-
Nguyện đắc trí huệ chơn minh liu,
-
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ,
-
Thế thế thường hành Bồ Tát đạo.
-
Nguyện sanh Tây phương Tịnh độ
trung,
-
Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu,
-
Hoa khai kiến Phật ngộ vô sanh,
-
Bất thối Bồ Tát vi bạn lữ.
-
Nguyện dĩ thử công đức,
-
Phổ cập ư nhứt thiết,
-
Ngã đẳng giữ chúng sanh,
-
Giai cọng thành Phật đạo.
-
Tự quy y Phật , đương nguyện chúng
sanh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.( 1 lạy)
-
Tự quy y Pháp , đương nguyện chúng
sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy)
-
Tự quy y Tăng , đương nguyện chúng
sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy)
- (Xá 3 xá lui ra)
-
NGHI THỨC THỌ TRAI
-
Ngồi tề chỉnh , tay trái co ngón
giữa, ngón áp, con ba ngón dựng thẳng, để chén cơm lên; tay mặt
kiết ấn cam lồ (ngón cái bên tay phải đề lên ngón áp) để
dựa ngang phía trong miệng chén rồi xướng:
-
Cúng dường Thanh tịnh pháp thân Tỳ
Lô Giá Na Phật.
-
Viên mãn báo thân Lô Xá Na Phật.
-
Thiên bá ức hóa thân Thích Ca Mâu
Ni Phật.
-
Ðương lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật.
-
Thập phương tam thế nhứt thiết chư
Phật.
-
Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
-
Ðại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.
-
Ðại bi quán thế âm bồ tát.
-
Chư Tôn Bồ Tát Ma ha tát.
-
Ma ha Bát nhã ba la mật.
-
Tam đức, lục vị, cúng Phật cập Tăng
pháp giới hữu tình, phổ đồng cúng dường, nhược phạn thực thời,
đương nguyện chúng sanh thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn.
-
(Cúng dường rồi để bát xuống)
-
XUẤT SANH:
-
Lấy cái chén nhỏ múc chút nước, để
trong lòng bàn tay trái, gắp bảy hột cơm để trong chén; tay mặt
kiết ấn cam lồ, đặt trên chén cách một tấc, mặc niệm:
-
Pháp luật bất tư nghì,
-
Từ bi vô chướng ngại,
-
Thất liệp biến thập phương,
-
Phổ trí châu sa giới,
-
Án, độ lợi ích tóa ha. (7 lần)
-
Tay bắt ấn viết bóng hai chữ "Án
lam" rồi khảy móng tay trên chén ba lần, đưa thị giả đem ra
trước, để trên một cái bàn nhỏ, đọc kệ chú:
-
Ðại bàng kim sí điểu,
-
Khoáng đã quỉ thần chúng,
-
La sát quỉ tử mẫu,
-
Cam lồ tất sung mãn.
-
Án, mục lực lăng tóa ha. (7 lần)
-
BƯNG CHÉN CƠM
-
Hai tay, mỗi tay co hai ngón sau,
còn sáu ngón bưng chén cơm ngang trán, đọc thầm:
-
Chấp trì ứng khí đương nguyện chúng
sanh, thành tựu pháp thí thọ thiên nhơn cúng.
-
Án, chỉ rị, chỉ rị phạ nhựt ra hồng
phấn tra. (3 lần)
-
TAM ÐỀ
-
(Ăn ba miếng đầu tiên)
-
Miếng thứ nhất (niệm thầm):
-
Nguyện đoạn nhứt thiết ác.
-
Miếng thứ hai (niệm thầm)
-
Nguyện tu nhứt thiết thiện
-
Miếng thứ ba (niệm thầm)
-
Thệ độ nhứt thế chúng sanh
-
Trong khi ăn phải tưởng năm pháp
tướng này:
-
Nhứt kế công đa thiểu, lượng bỉ lai
xứ.
-
Nhị thổn kỷ đức hạnh toàn khuyết
ứng cúng.
-
Tam phòng tâm ly quá, tham đẳng vi
tông.
-
Tứ chánh sự lương dược, vị liệu
hình khô.
-
Ngũ vị thành đạo nghiệp, phương thọ
thử thực.
-
TƯỚC DƯƠNG CHI
-
(Ăn cơm xong xỉa răng đọc chú này)
-
Tước đương chí thời, đương nguyện
chúng sanh thân tâm đều tịnh, phệ chư phiền não.
-
Án, a mộ dà di ma lệ, nhĩ phạ ca
ra, tăng du dad nể, bát đầu na, câu ma ra, nhĩ phạ ca ra tăng
thâu đà da, đà ra đà ra, tố di ma lệ, tá phạ ha (3 lần)
-
ẨM THỦY KỆ CHÚ
-
(Uống nước đọc chú nầy)
-
Phật quán nhứt bát thủy, bát vạn tứ
thiên trùng, nhược bất trì thử chú, như thực chúng sanh nhục.
-
Án phạ tất ba ra, ma ni tá ha.
(3 lần)
-
TRAI KỆ CHÚ
-
(Ăn cơm uống nước xong tụng chú
nầy)
-
Nam mô tát đa nẩm, tam miệu tam bồ
đà, câu chi nẩm, đát điệt tha. Án chiếc lệ, chủ lệ chuẩn đề ta
bà ha. (7 lần)
-
Sở vị bố thí giả, tất hoạch kỳ lợi
ích, nhược vị lạc bố thí, hậu tất đắc an lạc.
-
Phạn thực dĩ ngật, đương nguyện
chúng sanh, sở tác giai biện cụ chư Phật Pháp.
-
PHỤC NGUYỆN
-
Thân phi nhứt lũ, thường tư chức nữ
chi lao; nhựt thực tam xang, mỗi niệm nông phu chi khổ. Phổ
nguyện hiện tiền tứ húng phước huệ song tu, một hậu đắc Di Ðà
thọ ký; âm siêu dương thới, pháp giới chúng sanh tề thành Phật
đạo.
-
NAM MÔ A DI ÐÀ PHẬT
-
(Lược trích nghi thức thọ trai này
để cho các
-
Phật tử tại gia dùng, trong khi thọ
Bát quan trai)
-
NGHI THỨC XẢ BÁT QUAN TRAI GIỚI
-
Sau 24 giờ đồng hồ (đúng như giờ
ngọ giới), người thọ giới thỉnh Giới sư lên chùa ngồi một bên.
người thọ giới lạy giới sư một lạy rồi ngồi xuống cháp tay lạy
rằng:
-
"Ðại đức môỉt lòng nghĩ, con pháp
danh là...đã nguyện thọ Bát quan trai giới, giữ trọn một ngày
đêm. Bạch Ðại đức ! Nay con xdin xả giới".
-
(Bạch xong, lạy một lạy lui ra)
-
Nếu không có giới sư, tự mình làm l
xả giới thì nên theo nghi thức sau nầy.
-
Ðến trước Tam Bảo, thắp hương ngùi
xuống khẩn nguyện:
-
Pháp vương Vô thượng quan
-
Tam giới voo luân thất,
-
Thiên nhơn chi Ðạo sư,
-
Tứ sanh chi Từ phụ,
-
Ư nhứt niệm quy y,
-
Năng diệt tam kỳ nghiệp,
-
Xưng dương nhược tán thán,
-
Ước kiếp mạc năng tận
-
Tư thời đệ tử (tên họ gì) Pháp danh
(pháp danh gì) ư nhứt nhựt nhứt dạ, phát nguyệ thọ trì Bát Quan
trai giới, công huan dĩ mạn, ngụyen lực châu toàn,. Ngụyen thạp
phương chư Phật, chư đại Bồ tát, chư đại thiên thần, từ bi gia
hộ, đệ tử sanh sanh đắc phùng Phật pháp, đắc trị thiện duyên,
cập thiết nhất chúng sanh đồng thành Phật đạo.(1xá, đứng dậy)
-
Nam Mô Hộ giới tạng bồ tát Ma ha
tát
-
(xướng ba lần, lạy ba lạy)
-
(Ðứng dậy tụng Bát nhã)
-
Ma ha Bát nhãBa la mật đa tâm kinh.
-
Quán tự tại Bồ tát, hành thâm Bát
nhãBa la mật đa thời, chiếu kiến ngũ ẩn giai không, đọ nhất
thiết khổ ách.
-
Xá Lợi Tử ! Sắc bất dị không, không
bất dị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diẹn phục như thị.
-
xá Lợi Tử ! Thị chư pháp không
tướng, bất sanh bất diệt, bất cảu bất tịnh, bất tăng bất giảm,
thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn,
nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô
giãn giới, nãi chí vô ý thứcgiới; vô vô minh tận nãi chí vô lão
tử diệc vô lão tử tận vô Khổ, Tập, Diệt, Ðạo; vô Trí diệt vô
Ðắc, dĩ vô sỡ đắc cố. Bồ Ðề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật da cố
tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, vin ly điên
đảo mộng tưởng, cứu cách Niất Bàn. Tam thế chư y bát nhã ba la
mật đa cố, đắc a nậu Ða La tam miệu tam bồ đề. Cố tri Bát nhã Ba
la mật đa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú,
thị vô đẵng đẵngchú, năng trừ thiết nhất khổ, chơn thiệt bất hư;
cố thuyết Ba la mật đa chú.
-
Tức thuyết chú viết:
-
"Yết yết đế, Ba la yết đế,
-
Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát ba ha"
-
VÃNG SANH THẦN CHÚ
-
Nam mô A di đa bà dạ, đa tha đà tha
dạ, đa diệc dạ tha, a di rị đô bà tì, a di rị đa tất tam bà tì,
a di rị đa rì ca lan đế, a di rị da tì ca lan đa, dà di nị, dfà
dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha (3 lần)
-
TÁN PHẬT
-
A Di Ðà Phật thân kim sắc
-
Tướng hảo minh quang vô đẳng luân,
-
Bạch hào uyển chuyển ngũ tu Di,
-
Cám mục trừng danh tứ đại hải,
-
Quang trung hóa Phật vô số ức,
-
Hóa Bồ tát chúng diệc vô biên,
-
Tứ thập bát nguyện chúng sanh,
-
Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ ngạn.
-
Nam Mô Tây Phương Cực Lạc Thế giưới
Ðại Từ Ðại Bi, tiếp dẫn Ðạo sư A Di Ðà Phật.
-
Nam Mô A Di Ðà Phật (108 lần)
-
Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát (10 lần)
-
Nam Mô Ðại thế chí Bồ tát (10 lần)
-
Nam Mô Thanh tịnh Ðại Hải Chúng Bồ
Tát (10 lần)
-
(Quỳ xuống chắp tay đọc bài Phổ
Hiển hạnh nguyện)
-
Ðệ tử chúng đẳng, tùy thuận tu tập,
-
Phổ Hiền Bồ Tát, thập chuẩn đại
nguyện:
-
Nhứt giả l kính chư Phật,
-
Nhị gỉa xứng tan Như Lai,
-
Tam giả quản tu cúng dường,
-
Tứ giả sám hối nghiệp chướng
-
Ngũ giả tùy hỷ công đức,
-
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân,
-
Thất giả thỉnh Phật trụ thế,
-
Bát giả thường tùy Phật học,
-
Cửu giả hằng thuận chúng sanh,
-
Thập giả phổ giai hồi hướng.
-
THẤT PHẬT DIỆT TỘI CHÔN NGÔN
-
Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế,
đà ra ni đế, ni ha ra đế, tùy lê nể đế, ma ha da đế, chơn lăng
càng đế ta bà ha. (3 lần)
-
Nguyện dĩ thử công đức
-
Trang nghiêm Phật Tịnh Ðộ,
-
Thượng báo tứ trọng ân,
-
Hạ tế tam đồ khổ,
-
Nhược hữu kiến văn giả,
-
Tất phát Bồ đề tâm,
-
Tận thử nhất báo thân,
-
Vãng sanh An Lạc sát.
-
(Ðứng dậy xướng lạy)
-
Ðệ tử đại vị nhứt thiết sư trưởng
ân, chí tâm đảnh l, Nam Mô tận hư không, biến pháp giới, quá,
hiêỉn, vị lai, thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng,
thường trú Tam Bảo. (1 lạy)
-
Ðệ tử đại vị nhất thiết Phụ mẫu ân,
chí tâm đảnh l, Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Ðiều Ngự Bổn Sư ThíchCa
MâuNi Phật, Long Hoa Giáo chủ Ðương Lai Hạ sangh Di Lạc Tôn
Phật, Ðại trí Văn thù Sư Lơị Bồ tát, Linh sơn hội thượng Phật Bồ
tát. (1 lạy)
- Ðệ tử
đại vị tam đồ thọ khổ; cập pháp giới nhứt thiết chúng sanh, chí
tâm đảnh l , Nam mô Tây phương Cực Lạc Thế Giới Ðại Từ Ðại Bi
tiếp dẫn Ðạo Sư A Di Ðà Phật, Ðại Bi Quán Thế Aâm Bồ Tát, Ðại
Thế Chí Bồ Tát, Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát. (1 lạy).
(xá 3 xá, lui)
KỶ LUẬT TU BÁT QUAN TRAI GIỚI TRONG 24 GIỜ
- 1.
Không được ra ngoài phạm vi đại giới
(trong vườn chùa, hoặc vườn nhà
mình)
2. Không nên tiếp khách và nói
chuyện lớn tiếng.
3. Bớt nói chuyện, không ăn trầu và
hút thuốc.
4. Oai nghi cử chỉ phải giữ gì cẩn
thận.
5. Phải giữ đúng giờ tu tập.
6. Không nên nghĩ đến việc nhà hoặc
việc thế tục.
7. Phải nhứt tâm niệm Phật.
-
Những ngày thọ Bát Quan Trai giới,
tùy theo hoàn cảnh của mỗi người, trong mỗi tháng thọ 1 ngày cho
đến sáu ngày: mồng 8, 14, 23, 29, 30 (tháng thiếu thì 28 và
29). Nếu người mắc làm việc thì thọ ngày chủ nhựt cũng được.
Nếu Phật tử mỗi lần phát nguyện tu trong 24 giờ, giữ trai giới
cho thanh tịnh thì công đức ấy về sau sẽ được quả Niết Bàn.
- CHƯƠNG TRÌNH TU BÁT QUAN TRAI
GIỚI
TRONG MỘT NGÀY MỘT ÐÊM (24 GIỜ)
-
-
BUỔI MAI : 6 giờ sáng Thọ giới
-
BUỔI MAI : 7 giờ Ăn điểm tâm
-
BUỔI MAI : 8 giờ Sám hối
-
BUỔI MAI : 9 giờ Xem Kinh
-
BUỔI MAI : 10 giờ Niệm Phật
-
BUỔI MAI : 12 giờ Thọ Trai
-
BUỔI MAI : 12 giờ 30 Kinh hành niệm
Phật
-
BUỔI CHIỀU : 1 giờ 30 Chỉ tịnh (nghỉ)
-
BUỔI CHIỀU : 3 giờ Tụng Kinh
-
BUỔI CHIỀU : 4 giờ Xem Kinh
-
BUỔI CHIỀU : 5 giờ Niệm Phật
-
BUỔI CHIỀU : 6 giờ Dùng nước
-
(sứa hoặc nước cháo)
-
BUỔI TỐI : 7 giờ Tịnh độ
-
BUỔI TỐI : 8 giờ Học
-
BUỔI TỐI : 10 giờ 15 Quán sổ túc
-
BUỔI TỐI : 10 giờ 40 Nghỉ
-
BUỔI TỐI : 4 giờ khuya Tịnh Niệm
(Niệm Phật )
-
BUỔI TỐI : 4 giờ 30 Công phu
-
BUỔI TỐI : 6 giờ Làm lễ xả giới
--o0o--
|
|