-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Hai
Thiên
Thừa Phật Giáo
- --- o0o ---
- Bài Thứ 3
- Vô Thường
-
A. Mở Ðề
- Lòng tham lam
của con người ôm ấp bám víu mãi mãi vào sự vật
- Chúng ta, đã
là chúng sinh, thì ít nhiều đều có tham vọng. Lòng tham vọng ấy
bám víu chặt chẽ vào sự vật mà chúng ta đã cấu tạo, nắm bắt
được. Chúng ta chỉ buông thả chúng ra, sau khi trút hơi thở cuối
cùng. Nói cho đúng, không phải đến phút cuối cùng chúng ta mới
chịu buông thả mọi vật; chúng ta vẫn cứ muốn nắm giữ chúng mãi,
nhưng chính chúng đã rời bỏ chúng ta mà đi. Chúng ta đã bất lực,
không còn đủ hơi sức để nắm giữ chúng nữa, nên đành buông xuôi
tay để chúng tuông đi, chứ nếu còn hơi sức, chúng ta vẫn còn
muốn nắm lại và giam giữ một cách tuyệt vọng những gì đã nắm
được. Suốt đời, chúng ta vẫn lặp đi lặp lại mãi cái cử chỉ nắm
bắt, giữ gìn ấy. Và suốt đời biết bao nhiêu lần chúng ta đã đau
khổ, thất vọng, vì mọi sự vật ở đời không bao giờ chiều theo ý
muốn của chúng ta mà chịu ở yên một chỗ. Mọi sự vật đều luôn
luôn biến chuyển, đổi thay, nay đây mai đó, như một anh chàng
lãng tử, như một dòng sông, như một đám mây, như một vó ngựa !
Thời gian trôi qua như thế nào, thì mọi vật cũng trôi qua như
thế ấy. Noió theo danh từ nhà Phật , thì sự biến chuyển, đổi
thay ấy là luật Vô thường.
-
B. Chánh Ðề
- 1. Ðịnh Nghĩa
- Vô thường là
thế nào? Hãy nghe đức Phật dạy: "Tất cả những gì trong thế gian
đã là biến đổi, hư hoại, đều là Vô thường". Vậy Vô thường nghĩa
là không thường, không mãi mãi ở yên trong một trạng thái nhất
định; luôn luôn thay hình đổi dạng; đi từ trạng thái hình thành
đến biến đi rồi tan rã...Ðạo Phật gọi những giai đoạn thay đổi
của một vật là: thành, trụ, hoại, không (hay sanh, trụ, dị,
diệt). Như một làn sóng, khi mới nhô lên gọi là thành (hay sanh)
khi nhô lên cao nhất thì gọi là trụ; khi hạ dần xuống thì gọi là
hoại (hay dị), khi tan rã thì gọi là không (hay diệt). Tất cả sự
vật trong vũ trụ, từ nhỏ như hạt cát, đến lớn như trăng sao, đều
phải tuân theo bốn giai đoạn ấy cả, nên gọi là Vô thường.
- Ðể có một ý niệm rõ ràng hơn về
sự Vô thường, chúng ta hãy quan sát, suy nghiệm ngay cái thân
chúng ta, cái tâm chúng ta và cái hoàn cảnh chúng ta đang sống,
thì sẽ biết.
- II. Thân Vô
Thường
- "Thân tôi
mạnh khỏe luôn, trẻ đẹp mãi, và đời tôi là cả một bài thơ.."Ấy
là quan niệm nông nỗi của một số nam nữ thanh niên, quá yêu
chuộng thân thể họ trẻ mãi, hay nếu có già, thì cũng còn lâu
lắm, không ngờ rằng nó già, nó chết, từng giây từng phút. Câu
thơ sau đây của người xưa thật đã nói lên được sự thay đổi mau
chóng của thân ta:
- "Quân bất kiến cao đường minh
cảnh bi bạch phát ! Triêu như thanh ti, mộ như tuyết?"
- "Anh không
thấy cha già soi gương buồng tóc bạc !
- Sớm còn
như tơ xanh, tối đã trắng như tuyết"
- Khoa học đã
chứng minh rằng, trong thân thể ta, các tế bào thay đổi luôn, và
trong mỗi thời kỳ 7 năm, là các tế bào cũ hoàn toàn đổi mới. Sự
thay đổi ấy làm cho thân thể chóng lớn, chóng già và chóng chết.
Thân năm trước không phải thân năm nay, thân ban mai không phải
thân buổi chiều, mỗi phút giây trong thân ta đều có sanh và có
chết. Sau đây là một câu chuyện rất có ý nghĩa để chứng minh sự
Vô thường của thân xác:
- Một người bộ
hành lỡ đường vào trọ trong một ngôi nàh bỏ hoang. Ðêm đến, anh
ấy thấy một con quỷ tóc xanh, vác một cái thây ma mới chết vào,
định xé xác ra ăn. Bỗng một con quỷ khác, tóc đỏ, xô cửa bước
vào. Hai con quỷ tranh nhau cái xác chết, con nào cũng nói của
mình bắt được trước. Chúng sắp xăn tay áo đánh giết nhau, để
giành cái xác. Bỗng chúng nhìn thấy anh chàng bộ hành đang nằm
run sợ trong góc phòng; chúng vội vã kéo anh ta ra làm trọng
tài, hỏi xem trong hai chúng, ai là kẻ đáng làm chủ cái xác. Anh
bộ hành sợ hãi quá, nhưng cứ tình thật nói rằng: cái xác thuộc
về con quỷ tóc xanh vì chính anh ta thấy nó mang xác vào trước.
Con quỷ tóc xanh được xác, mừng rở cảm ơn rối tít anh bộ hành;
nhưng con quỷ tóc đỏ mất miếng mồi ngon, tức giận lôi đầu anh ta
ra quyết ăn tươi nuốt sống cho hả giận. Nó đè anh ta xuống, rứt
một cánh tay bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến...Con quỷ tóc xanh
thấy thương tình anh bộ hành và để tỏ lòng tri ân, rứt cánh tay
của cái xác chết lắp vào cho anh ta. Con quỷ tóc đỏ lại rứt cánh
tay kia của anh bộ hành ăn tiếp; và con quỷ tóc xanh chắp tay
của xác chết vào cho anh ta. Cứ như thế, hể con quỷ tóc đỏ rứt
một phần nào trong thân thể anh bộ hành để ăn, thì con quỷ tóc
xanh lại lấy một phần của thây ma điền vào cho thân anh ta...Sau
khi ăn hết cả thân thể của anh bộ hành, con qủy chùi miệng đầy
máu me, rồi bỏ ra đi. Con quỷ tóc xanh cũng đi theo.
- Anh bộ hành
bàng hoàng như vừa tỉnh một cơn ác mộng và cứ phân vân tự hỏi:
không biết cái thân hiện tại anh đang mang đó là của anh hay của
ai?
- Câu chuyện
trên chứng minh cho chúng ta thấy từ khi sanh cho đến khi chết,
thân ta đã không biết bao lần thay đổi; và cái xác khi người ta
dặt vào quan tài, thật không còn gì giống với cái thân khi mới
sơ sanh.
- Dòng nước hôm
qua của con sông Ðồng Nai chẳng hạn, ngó bề ngoài thì không khác
gì dòng nước hôm nay; nhưng nước hôm qua, bây giờ có lẽ đã hòa
với nước mặn ở ngoài Ðại dương và nước hôm nay chính là nước
khác ở nguồn mới chảy về đây. Thân người cũng vậy, "hằng chuyển
như bọc lưu" (chảy luôn như nước lũ).
- Nhưng khổ
thay ! Có phải nó thay một cái này để đổi lấy một cái khác,
giống y như cái trước đâu ! Một tế bào nầy mất di, một tế bào
khác thế lại, nhưng tế bào trước trẻ hơn tế bào sau; tế bào sau
già hơn tế bào vừa được kế tiếp...Và cứ như thế mà thân người đi
từ trẻ đến già, từ sống đến chết !
- Ðức Phật ,
lúc còn là một Thái Tử, đã than với bà Da Du trong cung vui, khi
nghĩ đến Vô thường của thân người.
- "...Chúng ta
sẽ già yếu và xấu xa. Thời gian sẽ phủ lên đầu chúng ta những
lớp tro bạc. Ôi! mắt trong của em rồi sẽ mờ đục ! Môi đỏ của em
rồi sẽ úa màu !...Ta nghe trong ta, trong em và trong cả mọi
người, mỗi ngày mỗi đổ vỡ, dưới sức tàn phá cảu búa thời gian,
tất cả những gì quý báu của đời người...chúng ta ôm giữ một cách
tuyệt vọng, những bảo vật ở trong ta, như ôm giữ một cái bóng,
như nắm bắt một làn hương !".
- Trí huệ thay
! Con người cao sang và đang trẻ đẹp, bên cạnh lại có vợ hiền
sớm hôm hầu hạ, thế mà vẫn đủ sáng suốt, để nhìn thấy luật đẹp
của đời người ! Những lời thống thiết ấy, chanửg những đã cảnh
tỉnh Công chúa Da Du, mà còn đánh thức những ai còn say đắm
trong cảnh đời giả tạm, cảnh sanh, già, bệnh, chết, là hiện thân
của luật Vô thường. Có thân thì phải chịu công lệ sanh già bệnh
chết, không thể tồn tại mãi được. Ðức Lão Tử cũng đã nhận thấy
thân là nguồn tội lỗi, là gốc khổ đau, nên đã thốt ra câu:
- "Ngô hữu đại
hoạn, vị ngô hữu thân,
- Ngô nhược vô
thân, hà hoạn chi hữu?"
- (Ta có cái
khốn khổ lớn, vì ta có thân,
- Nếu ta
không thân thì đâu khổ gì?)
- Thân là Vô
thường, thế mà lắm người vì muốn trao dồi, bồi bổ, cung phụng
xác thân đến nỗi gây biết bao tội ác ghê ghớm ! Vì muốn được
thích khẩu, bổ thân, mà lắm người đành tay giết hại nhứng con
vật yếu hèn và hành hình những con vật vô tội trước khi chết một
cách rùng rợn. Ðọc lịch sử, nghe Tần thỉ Hoàng ăn óc khỉ sống,
ta đã cảm thông được nỗi đau đớn những con vật bị giết, thế mà
người dự tiệc vẫn vui cười sung sướng, không đoái hoài đén tiếng
rên xiết, kêu la, vùng vẫy cảu chúng, thì thật là độc ác đến
chừng nào ! Lòng trắc ẩn của người ở đâu? Hỡi ôi ! Hung ác và
thâm hiểm thay, lòng dạ của con người !
- Vì tham lam
làm vẩn đục, tối tăm lương tri, nên con người không thấy rõ được
lý Vô thường của thân xác và mới nỡ tâm làm điều tán ác như thế
!
- III. Tâm Vô
Thường
- Thân đã Vô
thường, nhưng còn tâm niệm có thường không? Tâm niệm cũng âm
thầm dời đổi, lại có phần mau lẹ và vi tế hơn, nếu chúng ta
không nhìn sâu vào, ắt khó mà thấy được.
- Tâm niệm
chúng ta thay đổi trong từng phút giây, theo với ngoại cảnh:
chúng ta buồn đó rồi vui đó, thương đó rồi giận đó. Phút trước
ta nhớ chuyện nầy, phút sau ta nghĩ chuyện khác. Hôm qua ta tinh
tiến tu hành, hôm nay đã ưu phiền thổi chuyển. Thật đúng như đức
Phật đã nói:
- "Tâm người
như vượn chuyền cây,
- Như ngựa rông
nơi đồng nội.."
- Tâm niệm ta
sanh diệt trong từnh sát na; và chính vì nó sinh diệt mau lẹ như
thế, nên ta có cảm tưởng như nó không thay đổi gì cả. Ðối với
một đứa trẻ con, nếu chúng ta bảo rằng những hình ảnh cử động in
như thật trên màn bạc, là do sự tiếp nối những tấm phim, ảnh
hiện lên rồi biến mất, để nhường chỗ cho những tấm ảnh khác,
trước ngọn đèn chiếu..nếu ta bảo như thế với một đứa bé, chắc nó
không tin, vì nó chưa hiểu được cái công dụng của tốc lực. Cũng
như thế đó, tâm ta được cấu tạo bởi từng niệm sanh diệt, như ng
vì chúng ta không nhận được sự biến chuyển mau lẹ của nó, nên ta
cứ tưởng là nó đơn thuần và bất biến. Cái ta phút trước phải đâu
là cái ta phút nầy? Và cái ta phút nầy đâu còn là cái ta phút
sau? Vậy cái ta nào là cái ta thật? Cái ta phút trước, cái ta
phút nầy hay cái ta phút sau? Một nhà thi sĩ dã hỏi một câu có
vẻ ngớ ngẩn nhưng nghĩ ký thật là vô cùng sâu sắc:
- "Ai bảo giùm:
ta có ta không?"
- Cái ta (hay
cái tâm cũng thế) Vô thường tạm bợ, giả tạo như thế, thế mà
người đời cứ cho nó là trung tâm điểm của vũ trụ, bám víu vào
nó, nhơn danh nó để tham lam, vơ vét tài sản, danh lợi ở chung
quanh, và dù có dẫm đạp lên hạnh phúc của kẻ khác, gây bao đau
thương cho người đồng loại, cũng mặc ! Thật mêm mờ lắm thay !
- IV. Hoàn Cảnh
Vô Thường
- Như trên
chúng ta đã thấy luật Vô thường ở khắp mọi nơi, chẳng những
thân, tâm là Vô thường, mà hoàn cảnh, sơn hà đại địa, cũng Vô
thường nữa.
- Sách thường
có câu:
- "Thương hải,
tang điền" (Bãi biển nương dâu)
- Câu ấy mới
nghe như là một hình ảnh bóng bẩy về văn chương; nhưng thật ra,
đó là một nhận xét rất đúng trong thực tế. Chúng ta, thường lầm
tưởng chỉ có sinh vật là biến đổi và mau già chết, chứ những vật
lớn lao như núi sông, đất cát, thì muôn đời cũng vẫn ở yên một
chỗ. Nhưng chúng ta đã lầm, sông núi cũng có cái già cái trẻl
đất cát cũng có khi lở khi bồi. Không có vật gì là vĩnh vin tồn
tại. Tục ngữ ta có nhiều câu nói lên được sự Vô thường của sự
vật một cách rất thâm thúy như: "Vật đổi, sao dời" hay "Không ai
giàu ba họ, không ai khó ba đời".
- Thật thế, một
đời của chúng ta đã chững kiến biết bao sự thăng trầm, vinh
nhục, lên voi xuống chó. Giàu nghèo, sang hèn tiếp tục din ra
trước mắt chúng ta như một bức tranh vân cẩu, như một khúc phim
trong rạp chiếu bóng. Bao nhiêu người, trước đây, nào dinh thự
nguy nga, ruộng vườn cò bay thẳng cánh, thế mà sau một cơn binh
lửa, sự nghiệp bỗng tan tành như mây khói ! Bao nhiêu người
quyền cao, chức trọng hống hách, nghinh ngang, thế mà một phút
sa cơ thất thế, bỗng trở thành những kẻ tha phương cầu thực, hay
vướng cảnh tù đày !
- Sự Vô thường
đã sờ sờ trước mắt, thế mà có biết bao nhiêu người vẫn chưa tỉnh
ngộ, cứ đeo đuổi bám víu vào những cái hào nhoáng nhất thời ấy.
Kẻ bán tước, người mua quan, kẻ tham danh người ham lợi...gây
biết bao trò cười cho khách bàng quan, và bày ra lắm cảnh nhọc
nhằn cho người trong cuộc.
- Thuở xưa, có
một ông vua, sau khi đi dạo khắp phố phường, thấy nhân dân giàu
có sung túc, mới sanh lòng tham lam, muốn sung công bớt tài sản
của họ, để bỏ vào kho. Nhà vua liền ra lệnh ai có của phải nạp
bớt cho triều đình.
- Lịnh truyền
ra, nhà nhà đều công phẫn, nhưng biết kêu ca với ai bây giờ?
Trong lúc ấy, có một người lái buôn, muốn thức tỉnh nhà vua, nên
đánh bạo đem hết tài sản về kinh đô, đến giữa trào, dâng lên vua
và tâu rằng:
- Hạ thần xin dâng hết tài sản cho
triều đình
- Vua ngạc
nhiên phán hỏi:
- Ta chỉ thâu
một phần thôi, sao ngươi lại dâng hết cả như thế?
- Tâu, vì hạ
thần nghĩ của này không phải của Hạ thần, mà là của 5 nhà: nước
trôi, lửa cháy, giặc cướp, sung công và vợ con phá tán. hạ thần
dù cố sức giữu gìn thế nào đi nữa, cũng không khỏi bị một trong
5 nhà ấy chiếm đoạt. Vì thế hạ thần xin dâng hết, không giữ làm
gì, để về sau khỏi khổ sở vì nó. Mong Hoàng thượng nhận hết cho,
hạ thần rất cảm tạ ơn sâu ấy.
- Sau khi nghe
lời tâu của người lái buôn, nhà vua ngẫm nghĩ hồi lâu, chợt tỉnh
ngộ, cat thẹn và thầm bảo: "Người nầy đến dạy khôn cho ta. Giang
sơn cẩm tú của ta, ta có giữu gìn được lâu dài không? Hay sẽ bị
năm nhà, mà người lái buôn vừa nói, đoạt mất? Giang sơn còn chưa
giữ được, huống hồ tài sản của nhân dân ! Người ấy là ân nhân
của ta, nếu không có người đem ánh sáng thức tỉnh ta, thì ta sẽ
làm một việc rất tàn ác".
- Suy nghĩ
xong, vua bèn hạ lệnh ngưng sung công, lại còn xuất tiền phát
cho dân nghèo nữa. Thật là một mẩu chuyện quý báu, để thức tỉnh
những ai đang còn chìm đắm trong vòng danh lợi, đang gây đau khổ
cho mình và những người chung quanh, vì chưa nhận chân được lẽ
vô thường của hoàn cảnh.
- V. Quyết Ðịnh
- Có người nghi
rằng: Ðạo Phật nói vô thường, phải chăng vô tình gieo vào lòng
mọi người những quan niệm chán đời thối chí? Vì sự vật đã vô
thường thì không nên làm gì cả, có siêng năng hoạt động kinh
doanh sự nghiệp rồi cũng không đi đến đâu cả. Tro bụi, người sẽ
trở thành tro bụi hay sao?
- Xin đáp: Vô
thường của đạo Phật là một phương pháp chỉ rõ mặt trái của đời,
để bài trừ những sự mê lầm, ngăn chặn người chạy theo vật dục,
nó chưa phải là thuyết tuyệt đối.
- Ðức Phật cũng
như vị lương y tùy theo chứng bệnh mà cho thuốc. Với bịnh "chấp
thường còn không mất", thì dùng phương thuốc "vô thường" để đối
trị, khi lành bịnh thì Phật lại cho thứ thuốc bổ khác quí báu
hơn, là "thuyết chơn thường bất biến". Theo kinh Lăng Nghiêm,
Ngài A Nan cũng lầm như chúng ta, cho nên đức Phật bảo Ngài La
Hầu La đánh chuông để chỉ bày cho Ngài A Nan phân biệt cái "biến
đổi tiêu diệt", và cái "thường còn không thay đổi". Khi tiếng
chuông do Ngài La Hầu La đánh ngân lên, đức Phật hỏi Ngài A Nan
có nghe không?
- Ngài A Nan
đáp:
- Bạch Thế Tôn
! Nghe.
- Khi tiếng
chuông dứt, Phật lại hỏi:
- A Nan có nghe
chăng?
- Ngài A Nan
đáp:
- Bạch Thế Tôn
! Không còn nghe nữa. Ðức Phật lại bảo Ngài La Hầu La, đánh
tiếng chuông thứ hai, rồi Phật cũng hỏi như lần trước, và Ngài A
Nan cũng đáp có nghe.
- Ðức Phật quở:
- A Nan, sau
ông trả lời lẩn quẩn như thế?
- Ngài A Nan
ngạc nhiên; đáp:
- Chẳng những
một mình con mà mọi người ai cũng thừa nhận có tiếng thì có
nghe, tiếng dứt thì không còn nghe.
- Ðức Phật gạn
lại:
- "Ông và mọi
người đều cho có tiếng là có nghe, tiếng dứt, thì không có nghe
nữa; thế là "tánh nghe" theo tiếng mà mất, thì có lẽ không bao
giờ nghe nữa. Tại sao lúc tiếng thứ hai ngân lên, lại còn nghe
nữa ? Nếu nghe được tiếng thứ hai, thì nhất định biết không phải
tiếng dứt mà không nghe. Tiếng có lúc còn lúc mất, "tánh nghe"
vẫn thường không dời đổi. Vả lại, nếu tiếng dứt rồi mà tánh nghe
không còn, thì cái gì biết được sự không nghe ấy?"
- Cho biết,
Phật dạy "vô thường" để đối trị chấp thường còn của chúng sanh.
Ðến khi chúng sanh đã hiểu lẽ vô thường, thì Phật lại chỉ bày lẽ
chơn thường bất biến.
-
C. Kết Luận
- Vô thường là
một định luật chi phối tất cả sự vật, từ thân, tâm cho đến mọi
hoàn cảnh. Hiểu lý vô thường, chúng ta đã có một phương thuốc
thần diệu để trừ bệnh tham ái, mê mờ. Chúng ta đã đau khổ vì màu
sắc tốt xấu, vì tiếng dở hay, vì mùi vị ngọt bùi, cay đắng, vì
vật thích thân, vừa ý. Nay chúng ta uống thuốc "giáo lý vô
thường", để trừ bịnh tham ái và tiến tới sự an tịnh của tâm hồn.
- Biết được vô
thường, con người d giữ được bình tỉnh thản nhiên trước cảnh đổi
thay bất ngờ và có thể lạnh lùng trước cảnh ân ái chia ly. Biết
vô thường, con người dám hy sinh tài sản, sanh mạng để làm việc
nghĩa. Biết vô thường con người mới chán ngán với những thú vui
tạm bợ, giả trá, và sáng suốt đi tìm những cái vui chân thật
thường còn. Vì thật ra, cái vui chân thật thường còn, cái tánh
chân thường vẫn có, nhưng nó nằm bên trong cái lớp giả dối tạm
bợ; vô thường của cõi đời nầy, nên chúng ta không thể thấy được.
Khi chúng ta đã cương quyết gạt bỏ cái vỏ giả dối ấy, thì tất
nhiên cái giá trị chơn thật, cái hạnh phúc chơn chính, cái Phật
tánh sáng suốt, chắc thật muôn đời sẽ hiện ra.
--o0o--
|
|