|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Hai
Thiên Thừa
Phật Giáo
- --- o0o ---
- Bài Thứ 5
- Nhân Quả
-
A. Mở Ðề
-
Vũ trụ, vạn vật không phải
tuần hành, biến dịch một cách tự nhiên, vô lý, mà tuân theo một
cái luật chung. luật đó là luật Ngài nhân quả. Luật nào không phải
do một đấng nào, xẫ hội nà đặt ra, mà là một lụat thiên nhiên âm
thầm, lặng lẽ, nhưng đúng đẵn vô cùng.
- Người đời vì
không quan sát một cách kỹ càng, tường tân nên không thấy được
luật ấy. Do đó, họ đã hành động một cách bừu bãi, thiếu tinh thần
trách nhiệm đối với bản thân mình và với người chung quanh. Và
cùng chính vì thế mà họ đau khổ, lặn hụp mãi trong biển mê mờ, tội
lỗi.
- Trái lại, Ðức
Phật là vị hoàn toàn giác ngộ, đã phát huy ra cái luật nhân quả
đang chi phối, điều hành mọi sự vật trong vũ trụ nầy, nên Ngài đã
hành động một cách sáng suốt, lời lạc cho chính mình và chúng
sanh.
- Vậy chúng ta là
Phật tử, chúng ta cần phải hiểu biết cái luật nhân quả mà đấng từ
phu đó phát huy nó như thế nào, để rồi hành động đúng theo như lời
Ngài đã làm, hầu đem lại hạnh phúc chân thật, lâu bền cho mình và
cho người chung quanh.
-
B. Chánh Ðề
- I. Ðịnh Nghĩa:
- "Nhân" là
nguyên nhân, "Quả" là kết quả. Nhân là cái mầm. Quả là cái hạt,
cái trái do mầm ấy phát sinh. Nhân là năng lực phát động, Quả là
sự hình thành của năng lực phát động ấy. Nhân và Quả là hai trạng
thái tiếp nối nhau mà có. Nếu không có Nhân thì không có Quả; nếu
không có Quả thì không có Nhân. Những Ðặc Tính Của Luât Nhân Quả
- 1. Nhân thế nào
thì quả thế ấy:
- Nếu ta muốn có
quả cam thì ta phải ươm hạt giống cam; nếu ta muốn có hạt đậu thì
ta phải gieo giống đậu. Không bao giờ ta trồng cam mà lại được
đậu, hay trồng đậu mà lại được cam. Người học đàn thì biết đàn,
người học chữ thì biết chữ. nói một cách khác, nhân với quả bao
giờ cũng đồng một loại với nhau. Hễ nhân đổi thì quả cũng đổi.
- 2. Một nhân
không thể sanh ra quả:
- Sự vật trong vũ
trụ nầy đều là sự tổ hợp của nhiều nhân duyên. Cho nên không có
một nhân nào, có thể tự tác thành kết quả được, nếu không có sự
giúp đỡ của nhiều nhân khác. Nói rằng hạt lúa sanh ra cây lúa, là
nói một cách giản dị cho dễ hiểu, chứ thật ra hạt lúa không thể
sanh ra gì được cả, nếu để một mình nó giữa khoảng trống không,
thiếu không khí, ánh sáng đất nước, nhân công.
- Cho nên, khi ta
nghe bất cứ ai tuyên bố rằng: Ộmọi vật do một nhân sinh ra, hay
một nhân có thể sanh ra vạn vậtỢ; ta có thể chắc chắn rằng, người
ấy nói sai sự thật.
- 3. Trong nhân
có quả, trong quả có nhân:
- Chính trong
nhân hiện tại đã có hàm chứa cái quả vị lai; cũng chính trong cái
quả hiện tại, đã có hình bóng của nhân quá khứ. Một sự vật mà ta
gọi là nhân, là khi nó chưa biến chuyển, hình thành ra cái quả mà
ta mong muốn, chờ đợi. Một sự vật ta gọi là quả, là khi nó chưa
biến chuyển, hình thành ra trạng tháiũ mà ta mong đợi ước muốn.
Mỗi vật, vì thế, đều có thể gọi là nhân hay quả được: đối với quá
khứ, thì nó là quả, nhưng đối với tương lai thì nó là nhân. Nhân
và qủa tiếp nối nhau, đắp đổi nhau như những vòng trong sợi dây
chuyền.
- 4. Sự phát
triển nhanh và chậm từ nhân đến quả:
- Sự biến chuyển
từ nhân đến quả, có khi nhanh khi chậm, chứ không phải bao giờ
cũng diễn tiến trong một thời gian đồng nhất: Có những nhân và xảy
ra kế tiếp nhau, liền nhau, nhân vừa phát khởi thì quả đã xuất
hiện, như khi vừa đánh xuống mặt trống (nhân) thì tiếng trống liền
phát hiện ra (quả); hay khi hai luồng điện âm và dương vừa gặp
nhau, thì ánh sáng liền bừng lên. Có khi nhân đã gây rồi, nhưng
quả đợi một thời gian, quả mới hình thành, như từ khi gieo hạt
giống, cho đến khi gặt lúa, cần phải có một thời gian ít nhất là
bốn tháng. Có khi từ nhân đến quả cách nhau từng chục năm, như đứa
trẻ mới cắp sách đi học đến ngày thành tài, phải qua một thời gian
ít nhất là mười năm.
Có khi cần đến một vài trăm năm, hay nhiều hơn nữa quả mới xuất
hiện. Chẳng hạn như từ ý niệm giành độc lập của một quốc gia, đến
khi thực hiện được nền độc lập ấy, cần phải qua bao thế kỷ. Vì lý
do mau chậm, trong sự phát hiện cái quả, chúng ta không nên nóng
nẩy hấp tấp, mà cho rằng cái luật nhơn quả không hoàn toàn đúng,
khi thấy có những cái nhân chưa phát sinh ra quả. Phân Tích Hành
Tướng Của Nhân Quả Trong Thực Tế Như các đoạn trên đã nói, nhân
quả chi phối tất cả vũ trụ vạn hữu, không có một vật gì, sự gì,
động vật hay thực vật, vật chất hay tinh thần, thóat ra ngoài luật
nhân quả được. Ở đây, để có một quan niệm rõ ràng hơn về luật nhân
quả, chúng ta hãy tùan tự phân tích hành tướng của nhân quả trong
mọi sự vật:
- 1. Nhân quả có
trong những vật vô tri vô giác:
- Nước bị lửa đốt
thì nóng, bị gió thổi thì thành sóng, bị lạnh thì đông lại. Nắng
lâu ngày thì đại hạn, mưa nhiều thì lụt, gió nhiều thì sanh bão.
- 2. Nhân quả
trong loài thực vật:
- Hạt cam thì
sanh ra cây cam, cây cam thì sanh trái cam. Hạt ớt thì sanh ra cây
ớt, cây ớt thì sanh ra trái ớt. Nói một cách tổng quát, giống ngọt
thì sanh trái ngọt, giống chua thì sanh trái chua, giống nào thì
sanh quả ấy.
- 3. Nhân quả
trong các loài động vật:
- Loài chim sanh
ra trứng, nên chúng ta gọi trứng là nhân, chờ khi ấp nở thành con
là quả; con chim ấy trở lại làm nhân, sinh ra trứng là quả. Loài
thú sanh con, con ấy là quả. Con thú lớn lên, trở lại làm nhân
sanh con là quả.
- 4. Nhân quả nơi
con người:
- Về phương diện
thể chất:
- Thân tứ đại là
do bẩm thụ huyết của cha mẹ, và do hoàn cảnh nuôi dưỡng. Vậy cha
mẹ và hoàn cảnh là nhân, người con trưởng thành là quả, và cứ tiếp
nối như thế mãi, nhân sanh quả, quả sanh nhân, không bao giờ dứt.
- Về phương diện
tinh thần:
- Những tư tưởng
và hành vi trong quá khứ, tạo cho ta những tánh tình tốt hay xấu,
một nếp sống trong hiện tại: tư tưởng và hành động quá khứ là
nhân, tánh tình nếp sống tinh thần trong hiện tại là quả. Tánh
tình và nếp sống này là nhân, để tạo ra những tư tưởng và hành
động trong tương lai là quả.
- Ðể nhận rõ cái
phần tinh thần quan trọng nầy, chúng ta hãy dành riêng ra một mục,
để đặt biệt chú ý đến hành tướng của nó dưới đây.
- IV. Nhân Quả Về
Phương Diện Tinh Thần
- 1. Nhân quả của
tư tưởng và hành vi không tốt:
- Tham:
- Thấy tiền của
người, nổi lòng tham lam sanh ra trộm cắp, hoặc giết hại người là
nhân; bị chủ đánh đập hoặc đâm chém, phải tàn tật, hay bị nhà chức
trách bắt giam trong khám đường, chịu những điều tra tấn, đau khổ
là quả.
- Sân:
- Người quá nóng
giận, đánh dập vợ con, phá hoại nhà cửa, chém giết người không gớm
tay là nhân; khi hết giận đau đớn, nhìn thấy vợ con bịnh hoạn, nhà
cửa tiêu tan, luật pháp trừng trị, phải chịu nhiều điều khổ cực là
quả.
- Si mê:
- Người say mê
sắc dục, liễu ngõ hoa tường, không có biết sự hay dở, phải trái là
nhân; làm cho gia đình lủn củn, thân thể suy nhược, trí huệ u ám
là quả.
- Nghi ngờ:
- Suốt đời cứ
nghi ngờ việc nầy việc khác, ai nói gì cũng không tin, ai làm gì
cũng không theo, đó là nhân; kết cuộc không làm nên được việc gì
cả, đến khi lâm chung, buông xuôi hai bàn tay trắng đó là quả.
- Kiêu mạn: Tự
cho mình là hơn cả, khinh bỉ mọi người, chà đạp lên nhân phẩm
người chung quanh, là nhân; bị người ghét bỏ, xa lánh, sống một
đời lẻ loi, cô độc là quả. Nghiện rượu trà: chung quanh tiện bạc
ăn nhậu cho ngỏa nguê là nhơn; đến lúc say sưa chén bát ngổn
ngang, ghế bàn nghiêng ngả nhiều khi gây ra chém giết nhau làm
những điều tội lỗi, phải bị phạt vạ và tù tội là quả.
- Say mê cờ bạc:
- Thấy tiền bạc
của người muốn hốt về mình, đắm đuối quanh năm, suốt tháng theo
con bài lá bạc, là nhân; đến lúc của hết nhà tiêu, nợ nần vây kéo,
thiếu trước hụt sau, thâm quỹ Ộthụt kétỢ là quả.
- 2. Nhân quả của
tư tưởng và hành vi tốt:
- Như trên chúng
ta đã thấy, những tư tưởng hành vi xấu xa tạo cho con người những
hậu quả đen tối, nhục nhã, khổ đau như thế nào, thì những tư tưởng
và hành vi đẹp đẽ tạo cho con người những hậu quả sáng lạng, vinh
quanh và an vui như thế ấy.
Người không có tánh tham bỏn sen, thì tất không bị của tiền trói
buộc, tâm trí được thảnh thơi. Người không nóng giận, tất được
sống cảnh hiền hòa, gia đình êm ấm; người không si mê theo sắc
dục, thì tất được gia đình kính nể, trí huệ sáng suốt, thân thể
tráng kiện; người không hay ngờ vực, có đức tin, thì hăng hái
trong công việc, được người chung quanh tin cậy, dễ thành tựu
trong đời; người không ngạo mạn thì được bạn bè quí chuộng, niềm
nở đón tiếp, tận tâm giúp đỡ khi mình gặp tai biến. Người không
rượu chè, cờ bạc thì không đến nỗi túng thiếu, bà con quan biết
kình nể, yêu vì...Những điều nầy, tưởng không cần phải nói nhiều,
quí đọc giả cũng chán biết. Hàng ngày quanh chúng ta, những cảnh
tượng nhân và quả ấy, diễn ta không ngớt, chỉ cần giở tờ báo hàng
ngày, đọc các mục tin tức là thấy ngay.
- Nói một cách
tổng quát, về phương diện tinh thần cũng như về vật chất, người ta
gieo thứ gì, thì gặp thứ ấy. Người Pháp có câu: ỘMỗi người là con
đẻ của công nghiệp mình.
- V. Lợi Ích Ðem
Lại Cho Chúng Ta Do Sự Hiểu Biết Và Ap Dụng Luật Nhân Quả.
- 1. Luật nhân
quả tránh cho ta những mê tín dị đoan, những tin tưởng sai lầm vào
thần quyền: Luật nhân quả cho chúng ta thấy được thực trạng của sự
vật, không có gì mơ hồ, bí hiểm. Nó vén tất cả những cái gì đen
tối, phĩnh phờ của mê tín dị đoan, đang bao trùm sự vật. Nó cũng
phủ nhận luôn cái thuyết chủ trương ỘVạn vật do một vị thần sinh
ra, và uy quyền thưởng phạt muôn loàiỢ. Do đó, người hiểu rõ luật
nhân quả sẽ không đặt sai lòng tin tưởng của mình, không cầu xin
một cách vô ích, không ỷ lại thần quyền, không lo sợ hoang mang.
- 2. Luật nhân
quả đem lại lòng tin tưởng vào chình con người: Khi đã biết cuộc
đời của mình do nghiệp nhân của mình tạo ra, mình là người thợ tự
xây dựng đời mình, mình là kẻ sáng tạo, mà không tin tưởng ở mình
thì còn tin tưởng ở ai nữa? Lòng tự tin ấy là một sức mạnh vô cùng
qúy báu, làm cho con người dám hoạt động, dám hy sinh hăng hái làm
điều tốt. Vì những hành động tốt đẹp ấy, họ biết sẽ là những cái
nhân quý báu, đem lại những kết quả đẹp đẽ.
- 3. Lật nhân quả
làm cho chúng ta không chán nản, không trách móc: Người hay chán
nản, hay trách móc là vì đã có thói quen ỷ lại ở kẻ khác, là vì
hướng ngoại. Nhưng khi đã biết mình là động lực chính, là nguyên
nhân chính của mọi sự thất bại hay thành công, thì còn chán nản
trách móc ai nữa? Ðã biết mình là quan trọng như thế, là chỉ còn
lo tự sửa mình, thôi gieo nhân xấu, để khỏi phải gặt quả xấu,
tránh tạo giống ác để khỏi mang cái ác.
- VI. Quyết Nghi
- 1. Có người
nghĩ rằng: Nhân quả là một luật tự nhiên rất đúng đắn công bằng,
sao có người cả đời hiền từ mà lại gặp lắm tai nạn khổ sở; trái
lại, những người hung ác, sao lại vẫn được an bình ?
- Ðáp: Những đọan
trên đã nói, thời gian tiến triển từ nhân đến quả, có khi nhanh
khi chậm, chứ không phải khi nào cũng đồng nhau. Có cái nhân từ
đời nay, đến đời sau mới hình thành quả v.v...
- Vậy nếu có
người trong đời hiện tại làm việc hung ác, mà được an lành, là do
kiếp trước họ tạo nhơn hiền từ. Còn cái nhơn hung ác, mới tạo
trong đời nay, thì tương lai hay qua đời sau, họ sẽ chịu quả báo.
Cũng như có người năm nay ăn chơi, không làm gì hết, mà vẫn no đủ,
là nhờ năm rồi họ có làm, có tiền của để dành vậy. Còn cái nhân ăn
chơi không làm năm nay, thì sang năm họ sẽ chịu quả đói rách.
- Còn người đời
nay hiền từ, làm các điều phước thiện, mà vẫn gặp tai nạn, khổ sở,
là do đời trước, họ tạo những nhơn không tốt. Cái nhơn hiền từ đời
nay, qua đời sau họ sẽ hưởng quả vui. Cũng như có người tuy năm
nay siêng năng làm ruộng, mà vẫn thiếu hụt, là vì nhân ăn chơi năm
vừa rồi. Cái nhân siêng năng năm nay, sang năm sau họ sẽ hưởng quả
sung túc. Do đó, Cổ nhân có nói:
- Thiện ác đáo
đầu chung hữu báo,
- Chỉ danh lai
tảo dữ lai trì
- (Việc lành hay
việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà thôi)
- 2. Có người
hỏi: Theo luật nhân quả thì làm nấy chịu: cha làm tội, con không
thể thay thế được; con làm tội, cha không thể thay thế được. Sao
thấy có những việc: cha làm con phải chịu liên can, con làm cha
phải chịu ảnh hưởng?
- Trả lời: Trong
kinh Phật dạy: Nhân quả nghiệp báo có hai thứ: Biệt nghiệp và Cộng
nghiệp.
- Bật nghiệp là
nghiệp báo riêng của mỗi chúng sanh, như mình có học nhiều thì
mình biết nhiều, mình ăn thì mình no, mình siêng năng thì mình dễ
thành công, mình nhác lười thì mình thất bại.
- Cộng nghịêp là
nghiệp chung cho nhiều chúng sinh; cùng sống trong mọt hoàn cảnh.
Như người Việt Nam, sống trên mảnh đất chữ S nầy trong giai đoạn
chiến tranh Việt Pháp vừa qua, thì dù giàu, dù nghèo, dù trí thức,
dù bình dân, đều chịu ảnh hưởng chung của chiến tranh; như sanh ở
một nước tiên tiến, thì mọi người đều tương đối được hưởng một dời
sống vật chất đầy đủ hơn ở một nước bán khai. Ðã sanh chung một
gia đình, một xứ sở hay một dân tộc, cố nhiên cái nghiệp quả phải
có liên quan với nhau. Sách có câu:
- Nhất nhơn tác
phước, thiên nhơn hưởng,
- Ðộc thọ khai
hoa, vạn thọ hương.
- (Một người làm
phước, ngàn người đều được ảnh hưởng; một cây trổ hoa, muôn cây
chung quanh đều được thơm lây).
-
C. Kết Luận:
- Chúng ta đã
biết giá trị của luật nhân quả, vậy chúng ta nên đem bài học nầy
ra áp dụng vào mọi công việc hằng ngày của chúng ta. Khi chúng ta
làm một việc gì, nói một lời gì, cũng nên nghĩ trước kết quả tốt
hay xấu của nó, chứ đừng làm liều, nói liều, rồi phải chịu hậu quả
đau khổ, nhục nhã trong tương lai. Nếu chúng ta làm được như thế,
thì chúng ta sẽ thấy tánh tình và hành vi của chúng ta, mỗi ngày
mỗi cải tiến, các việc sai quấy sẽ giảm bớt, các việc lành càng
thêm tăng trưởng. Và do sự gieo nhân toàn thiện đó, từ địa vị
người, chúng ta có thể tiến dần lên đến quả vị thánh hiền, siêu
nhân.
--o0o--
|
|