-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Hai
Thiên
Thừa Phật Giáo
- --- o0o ---
- Bài Thứ 10
- Tịnh Ðộ
-
A. Mở Ðề
- Trong vũ trụ
có vô lượng thế giới
- Như đức Phật
ngày xưa đã dạy và các nhà khoa học ngày nay đã xác nhận, trong
vũ trụ nầy có hằng hà sa số thế giới. Mỗi đem, chúng ta ngước
mặt lên dòm trời, bao nhiêu ngôi sao lấp lánh hay lu mờ xa tít,
hiện ra trước mắt ta đây là bao nhiêu thế giới. Ngay một dãy
ngân hà với những đám trắng lờ mờ như mây bạc đó, cũng đã chứa
đựng từng triệu thế giới rồi. Huống cho trong vũ trụ, đâu phải
chỉ một dãy ngân hà mà có mấy ngàn dãy như thế. Cái phần chúng
ta thấy được mỗi đem, mặc dù không thể đếm hết, chỉ mới là phần
trất nhỏ so với vũ trụ mênh mông mà ta không thể thấy được.
- Trong kinh
thường dạy: phương Ðông có vô số thế giới như cát sông hằng, mà
phương Tây, phương Nam, phương Bắc cũng như thế (kinh Di đà).
- Nhưng chỉ có
thế giới Cực lạc (Tịnh độ) là vui hơn cả
- Trong bao
nhiêu thế giới ấy, có thế giới ô uế, có thế giới thanh tịnh, có
thế giới đau khổ, có thế giới an vui, có thế giới mới thành
hình, có thế giới sắp tiêu diệt, có thế giới thiên về vật chất,
có thế giới trọng về tinh thần.
- Theo lời đức
Phật Thích Ca dạy, thì trong vô lượng thế giới ấy, chỉ có thế
giới Cực lạc hay Tịnh độ của đức Phật A Di_Ðà là vui hơn cả.
- Hôm nay chúng
tôi xin trình bày về thế giới Cực lạc ấy, theo như lời đức Phật
Thích Ca đã dạy.
-
B.Chánh Ðề
- I. Danh Hiệu
Và Cảnh Trí Cõi Cự Lạc Hay Tịnh Ðộ
- Một hôm nhìn
thấy Ðức Phật Thích Ca, dung mạo khác lạ, vô cùng hoan hỷ, Ngài
A Nan mới hỏi Phật:
- Hôm nay tại
sao dung mạo của Phật lại khác hơn ngày thường?
- Phật dạy
rằng:
- Ta cảm nhớ
đức Phật A Di Ðà, muốn nhắc đến nhân địa của Ngài, để chỉ dạy
cho chúng sanh pháp môn tu Tịnh độ.
- Ngày dạy
rằng: từ cõi Ta Bà nầy hướng về phía tây, hơn mười muôn ức cõi,
có một thế giới gọi là Cực lạc hay Tịnh độ. Ở nước đo có đức
Phật, hiệu là A Di Ðà, Ngài thường thuyết pháp. Cảnh giới ở nước
thanh tịnh ấy, vô cùng đẹp đẽ, sáng lạng vui tươi, phong cảnh cả
toàn xõi như là một vườn hoa vĩ đại với những hàng cây ngay
ngắn, những tường hoam những dây leo rũ xuống như màu gấm, như
lụa là; có những hồ nước chứa đầy những thứ nước có tám công
đức. Ðáy hồ lát bằng cát vàng; trong hồ có những hoa sen lớn
bằng bánh xe, đủ màu sắc, hương tỏa thơm ngát, và có hòa quang
đẹp đẽ: hễ hoa màu xanh, thì phát ra hòa quang xanh; hoa màu
trắng, thì phát ra hòa quang trắng; hoa màu hồng, thì phát ra
hòa quang hồng...Ðường sá cầu cống, đèn đài, điện các ở cõi Tịnh
độ đều làm bằng ngọc vàng châu báu, vô cùng quý giá.
- Chim chóc ở
đây là những thứ chim báu, như bạch hạc, khổng tước, anh vỏ, xá
lợi, ca lăng, tần già v.v...những thứ chim này, ngày đem sáu
thời, hót ra những thứ tiếng pháp vi diệu, hòa lẫn trong những
điệu nhạc thiêng, làn cho ai nghe đến, cũng phải liền phát tâm
hoan hỷ niệm Phật. Các loài chim do đức Phật A Di Ðà biến hóa ra
để thuyết [háp cho chúng sinh nghe. Chẳng những chim biết nói
pháp, mà cho đến nước chảy, gió thổi cây reo đều là những lời
thuyết pháp vi diệu, ai nghe cũng đều phát tâm niệm Phật, niệm
Pháp, niệm Tăng. Ở đấy, không bao giờ có bóng tối, vì nhờ hào
quang của Phật phát ra, sáng chói luôn luôn. Cảnh giới trang
nghiêm, huy hoàng, xinh đẹp như thế là do sức đại nguyện của đức
Phật A Di Ðà, các bậc Bồ Tát và Thánh chúng, toàn là bậc Thượng
thiện gây nên.
- Trong hoàn
cảnh thuận tiện, vui tươi như thế nên tất cả mọi người ở đấy, ai
cũng tinh tấn tu hành và dễ được thành đạo nghiệp.
- II. Những
Ðiều Kiện Ðể Vãng Sanh Về Cõi Tịnh Ðộ
- Muốn được
sanh về cõi Tịnh độ, trước tiên cần phải đủ ba điều kiện sau
đây:
- 1. Ðức tin
chắc chắn:
- Trong kinh
Hoa Nghiêm có nói: "Tin là mẹ các công đức. Tin có thể thành tựu
quả bồ đề". Lòng tin có ba khía cạnh:
- a) Tin Phật
là đáng sáng suốt từ bi cứu khổ mọi loài. Vì muốn cứu độ chúng
sanh mau hết khổ sanh tử, nên Ngài mới chỉ bày cảnh Tịnh độ của
Phật A Di Ðà là một cảnh có thật.
- b) Tin giáo
pháp của Phật nói ra là đúng đắn chơn thật, dạy chúng ta phải
nhất tâm niệm Phật, cầu vãnh sanh về cảnh giới của Phật A Di Ðà.
Chúng ta tin chắc theo giáo pháp của Ngài mà tu hành thì sẽ được
thành công.
- c) Tin ở nơi
sức mạnh của mình. nếu ta thật tâm tin chắc: ta là Phật sẽ
thành, nhất tâm trì niệm danh hiệu Phật, quyết chắc sẽ được vãnh
sanh cõi Tịnh độ.
- 2. Lập nguyện
vững vàng:
- Nguyện là ý
muốn tốt đẹp. lập nguyện vững vàng nghĩa là thiết tha mong muốn,
lập chí nguyện không thối chuyển, quyết sinh về Cực lạc, dù có
gặp bao trở ngại gian lao, khổ sở. Phải có tấm lòng thiết tha,
không giờ phút nào xao lãng ý muốn được về gần Phật A Di Ðà, như
con đi xa thiết tha được về gặp mẹ.
- Trong mọi
công việc lớn lao, chí nguyện là quan trọng. Không có chí
nguyện, thì không có gì thành tựu được cả. một nhà văn đã viết
rất đúng: "Ðường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó
vì lòng người ngại núi e sông". Người có chi nguyện, như thuyền
có lái, như ngựa có cương. Từ việc đời cho đến việc đạo, muốn
thành công, điều cần yếu là lập chí nguyện cho vững vàng.
- 3. Thực hành
theo đúng chí nguyện:
- Ðã so chí
nguyện rồi, phải thực hành theo đúng chí nguyện. Thực hành ở đây
là luôn luôn trì niệm danh hiệu Phật A Di Ðà, niệm luôn luôn
trong khi đi đứng, nằmd ngồi, cho đến "nhất tâm bất loạn".
- Tóm lại, điều
kiện tiên quyết để vãng sanh về thế giới Cực lạc của Phật A Di
Ðà, không có gì khó khăn, cũng không có gì bó buộc lắm, mà trái
lại, bất luận ai, sang hèn, giàu nghèo, trí thức hay thiếu học
đều có thể có được. Ðó là: Có đức tin mạnh mẽ, lập nguyện vững
vàng, thực hành theo đúng chí nguyện. Có đủ ba yếu tố Tín, hạnh,
Nguyện, là có thể oớc lên đường đi đến cõi Cực lạc. Cuộc hành
trình ấy có thể chậm có thể mau, có thể khó khăn có thể dễ dàng,
nhưng ai đã có đủ ba điều kiện ấy, thì thế nào cũng đến đích,
Ðức Phật A Di Ðà lúc nào cũng sẵng sàng chờ đợi để đón tiếp
chúng ta, như mẹ chờ con đi xa về. Nhưng nếu mẹ chờ con mà con
không nhớ mẹ, không muốn quay về, thì mặc dù có gần nhau đi nữa,
cũng chẳng khác gì hai người xây lựng lại với nhau mà đi, một
người đi về phương Nam, một người đi về phương Bác, càng đi càng
xa, không thể gặp nhau được nữa. Trái lại, nếu con nhơ mẹ, mọt
lòng muốn gặp mẹ, trong lúc mẹ cũng đang nhớ và chờ đợi con thì,
cũng như hai người hướng về nhau mà đi, mọt người ở phương Tây
đi về phương Ðông, một người ở phương Ðông đi về phương Tây, mặc
dù có cách xe muôn trùng, thế nào cũng sẽ gặp nhau.
- Ta tin có
Phật A Di Ðà, ta quyết tâm thực hiện chí nguyện ấy, thì mặc dù
cõi Cực lạc cách xa mười muôn ức cõi, khi lâm chung, ta cũng sẽ
được đức Phật A Di Ðà và Thánh chúng hiện ra để tiếp độ ta về
cõi ấy.
- III. Pháp Tu
Về Cực Lạc (Tịnh Ðộ)
- Phương pháp
tu về Cực lạc có nhiều lối, nhưng không ngoài các pháp niệm
Phật. Ðây lược kể bốn pháp niệm Phật:
- 1. Trì danh
niệm Phật:
- Trì danh niệm
Phật tức là giữ một lòng nhớ nghĩ danh hiệu Phật, là niệm "Nam
mô A Di Ðà Phật ". Khi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống cũng niệm.
Niệm từ buổi mai khi mới thưc dậy, cho đến buổi tối, trước khi
đi ngủ. Niệm suốt cả ngày không xen hở. Khi gần đi ngủ, ngồi xếp
bằng bán già hay kiết già, chắp tay mà nguyện rằng:
- "Con tin lời
của đức Phật A Di Ðà, giữ một lòng niệm danh hiệu Ngài, nguyện
đời nầy, bao nhiêu tội chướng thảy đều tiêu sạch, đến khi lâm
chung được Phật và các vị Bồ Tát, đến tiếp dẫn chúng con về Cực
lạc.
- 2. Tham cứu
niệm Phật:
- Pháp niệm
Phật tương tợ pháp trì danh, nhưng mà có khác nghĩa, làm môi
miệng không động, niệm không ra tiếng, mà trong tư tưởng có niệm
Phật.
- Khi niệm có
tiếng thì xét tiếng ấy từ đâu mà sanh ra. Ðến khi hết niệm không
nghe nữa, thì xét tiếng ấy coi nó đi vào chỗ nào. Xét cho biết
chỗ sinh ra, chỗ trở về là đã được một phần công phu khá cao
rồi, cứ giữ như thế mà niệm, đừng cho tán loạn, thì chắc có ngày
minh tâm kiến tánh.
- 3. Quán tưởng
niệm Phật:
- Là quán tưởng
hình dung đức Phật à ở trước mắt ta, mình cao một trượng sáu
thước, đứng trên hoa sen, và quán thân ta cũng ngồi trên hoa
sen, chắp tay hầu Phật. Phật thấy ta, ta thấy Phật. Quán như
thss lâu ngày, đi, đứng, nằm, ngồi, nhắm mắt, mở mắt đều thấy
Phật, tức là pháp quán đã thuần thục.
- 4. Thật tướng
niệm Phật:
- Thật tướng
niệm Phật là niệm Phật hợp với chân tâm. Vì tất cả các pháp đều
do tâm biến hiện, bởi tâm biến hiện, nên tướng nó đều là hư vọng
(phàm sở tướng, giai thị hư vọng), duy có chân tâm là chân thật,
không sinh, không diệt; không chứ, không lai, xưa nay thanh tịnh
bình đẳng như như, không hư vọng, không biến diệt, cho nên mới
gọi là thật tướng.
- Ba pháp niệm
Phật trước thuộc về Sự, có tánh cách tiệm tu và tiệm quán. Ðến
pháp thứ tư nầy, là thuộc về Lý tánh, cao siêu hơn cả. Niệm Phật
đến đây, mới hoàn toàn rốt ráo, mới ngộ tánh mình là Phật A Di
Ðà, tâm mình là cảnh Tịnh độ.
- Nhưng chúng
ta phải luôn luôn nhớ rằng: nhờ có Sự mới hiển ra Lý. Trớc hết
cũng do Trì danh niệm Phật, Quán tưởng niệm Phật v.v...nhờ lối
dụng công tu ba pháp trước, đến lúc thuần thục không còn thấy có
mình là người niệm Phật và Phật là một vị mình niệm, chỉ còn có
một chơn tánh vừa yên lặng, vừa chiếu soi không năng, không sở,
không bỉ, không thử, không hữu, không vô. Chỗ này chính như
trong Kinh tứ Thập Nhị Chương, Phật nói: "Niệm đến chỗ vô niệm";
hay trong kinh A Di Ðà nói: "Ðược nhứt tâm bất loạn".
- IV. Sự Quan
Hệ Của Niệm Phật Trong Lúc Lâm Chung
- Theo quan
niệm sai lầm của phần đông, thì khi ông bà cha mẹ chết, con cháu
phải khóc cho nhiều mới là có hiếu. Nhiều gia đình lại còn thuê
người đến "khóc mướn" để cho "rậm đám". Theo đạo Phật thì trái
lại, lúc ông bà cha mẹ chết, mà con cháu khóc lóc nhiều, làm ồn,
rối loạn tâm thần người sắp chết là con cháu bất hiếu. Thật thế,
phút quan trọng ấy cần để cho người sắp lâm chung được yên tĩnh,
đừng làm cho họ động tâm, cảm xúc quá mà khó lìa bỏ cõi đời.
- Một điều quan
trọng nữa là, khi gần lâm chung, biết rằngk thể sống được, các
trần duyên nên buông bỏ, đừng mến tiếc của cải, nhà cửa đẹp, con
cháu ngoan. Lòng quyến luyến ấy làm cho người sắp từ trần khó
vãnh sanh. Trong sách có ví dụng: như con cò bị con ngao kẹp
miệng lại, mặc dù có đủ cánh quạt mạnh, mà không thể bay lên
được.
- Nên nhớ rằng
trong các nghiệp nhân, cận tử nghiệp (nghiệp trước khi lâm
chung) là có một lực rất lớn trong sự đầu thai. Nếu còn tâm niệm
tham lam mến tiếc, thì bị luân hồi trở lại, để giữ gìn của cải,
và kết duyên làm tình nghĩa ái ân nữa, mãi mãi sanh tử luân hồi
không dứt.
- Vậy trong
phút lâm chung, người đương sự cần có tâm hồn thanh thoát, không
luyến tiếc đau khổ, mà trái lại, phải thiết tha cầu sinh Tịnh
độ. Còn những người thân thuộc thì phải tránh sự khóc lóc, níu
kéo người sắp từ trần và phải hộ niệm hết sức thành tâm, để vong
linh người lâm chung được nhẹ nhàng siêu thoát.
- V. Pháp Môn
Niệm Phật Dễ Tu Và Chắc CHắn Có Kết Quả
- Ðạo Phật có
muôn ngàn pháp môn, tựu trung có pháp môn niệm Phật là dễ tu hơn
cả. Các pháp môn khác như con mọt đục ống tre từng mắt mà lên,
còn pháp môn niệm Phật như con mọt đục ngay mình tre mà ra. hai
phương pháp đều đưa con mọt ra khỏi ống tre cả, nhưng phương
pháp sau kết quả mau chóng hơn phương pháp trước.
- Cổ nhơ dạy:
"Người tu Thiền mà không tu Tịnh độ (niệm Phật ) thì mười người
lầm hết chín. Người tu Tịnh độ mà không tham Thiền, muôn người
tu, muôn người được vãnh sanh (nếu nhất tâm). Niệm Phật có cả
tham Thiền, như cọp đã có sức mạnh, lại còn mọc thêm sứng".
Nghĩa là lối tu niệm Phật đã chắc chắn rồi, mà còn tham Thiền,
lại càng chắc chắn hơn nữa. Còn người không tu Thiền, mà cũng
không tư Tịnh độ, thì như nằm gường sắt nóng, và ôm trụ đồng;
nghĩa là không tu môn nào, cứ tạo điều ác, thì phải đọa vào địa
ngục, chịu hành phạt khổ sở. Một phen để mất thân người rồi, khó
mà trở lại người được.
- VI. Dẫn Chứng
- Pháp môn niệm
Phật, chắc chắn được kết quả mỹ mãn như ý muốn. Kinh Di Ðà, kinh
Thập Lục Quán, kinh Hoa Nghiêm, kinh Phương Ðẳng v.v...đều tán
thán pháp môn niệm Phật.
- Các vị Bồ Tát
cũng đều tu pháp môn niệm Phật. Như Ngài Văn Thù Bồ Tát, trong
bài kệ phát nguyện, có nói: "Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời,
tận trừ nhứt thế chư chướng ngại, diện kiến bỉ Phật A Di Ðà, tức
đắc vãnh sanh An lạc quốc". (Nghĩa là: Nguyện khi tôi lâm chung,
dứt trừ các điều ngăn ngại, thấy đức A Di Ðà trước mắt, liền
được vãnh sanh về cõi An lạc).
- Ngài Phổ
Hiền, Ngài Mã Minh, Ngài Long Thọ, Ngài Vô Trước, Ngài Thiên
Thân bên tướng tôn, Ngài trí Giả Ðại sư bên Thiên Thai tôn, Ngài
Hiền Thủ bên Hiền thủ tôn, và con nhiều vị Tổ sư khác cũng
chuyên niệm Phật cầu vãnh sanh Cực lạc.
- Pháp môn niệm
Phật có sự linh nghiệm rõ ràng. Như ở Trung Hoa, Ngài Huệ Viễn
lập hội Liên Xã, chuyên tu pháp môn niệm Phật, ba lần thấy Phật,
khi lâm chung, biết trước ngày giờ vãnh sanh. Tại Việt Nam, Ngài
Nhất Ðịnh chùa Từ Hiếu, Ngài tường Vân (ở Huế), Ngài Hòa Thượng
Tế Xuyến (ở Hà Nam) đều biết trước ba ngày thị tịch. Chằng những
các Ngài xuất gia, mà bên hàng cư sĩ như ông chủ Thời (Gia
Ðịnh), ông Phó Kinh ở Nam Ðịnh (Bắc Việt) v.v...cũng biết trước
ba ngày sẽ lâm chung.
- Pháp niệm
Phật còn có nhiều linh nghiệm lạ thường khác nữa, không thể kể
xiết được.
- VII. Lợi Ích
Của Niệm Phật Trong Ðời Sống Hiện Tiền
- Niệm Phật có
nhiều lợi ích, không những đời sau được vãnh sanh cỗi Phật, là
lợi ích chính, mà hiện tại cũng có nhiều lợi ích thiết thực.
- 1. Niệm Phật
sẽ trừ được niệm chúng sanh:
- Niệm chúng
sanh tức là nhớ nghĩ đến những điều xấu xa như tham, giạna, kiêu
căng...Do những điều nhớ nghĩa ấy mà lời nói hay việc làm đều
vương mang tội lỗi. Nếu ta niệm Phật, thì tâm trí không còn nhớ
nghĩ đến những điều xấu xa, miệng và thân không tạo ra nghiệp ác
nghĩa là ta diệt được niệm chúng sanh. Một giờ niệm Phật, là một
giờ bớt niệm chúng sanh; một ngày, một tháng, một năm, một đời
chuyên niệm Phật, làm một ngày, một tháng, một năm, một đời
tránh được niệm chúng sanh, tránh được điều ác, và làm được việc
lành.
- 2. Niệm Phật
sẽ trừ được tâm buồn phiền:
- Trong những
lúc buồn phiền đau khổ, như khi gặp cảnh con cái biẹt ly, vợ
chồng xa cách, nhà cửa tiêu tan v.v...nếu ta niệm Phật, thì buồn
phiền đau khổ sẽ tiêu tan. Vì sao vậy? Vì một khi ta nhớ nghĩa
đến Phật A Di Ðà, đến cảnh giới của Ngài, thì không còn bận tâm
nghĩ đến những nỗi niềm riêng của ta nữa. Niệm Phật đổi được
niệm phiền não là thế. Nếu niệm Phật tăng thì niệm phiền não
phải giảm. Cho nên Cổ đức có nói:
- "Một câu niệm
Phật giải oan khiên".
- Tóm lại, sáu
chữ Nam mô A Di Ðà Phật, có lợi ích rất nhiều và thiết thực là
làm tiêu tan được phiền não nghiệp chướng. Nếu người không tin
có nước Cực lạc, có Phật A Di Ðà mà niệm Phật, cũng vẫn có lợi
ích nhiều.
- VIII. Quyết
Nghi
- 1. Có người
hỏi rằng:
- Phật có vô
số, vì sao chỉ niệm Phật A Di Ðà? Trả lời:
- Tất cả chư
Phật đều đồng một thể tánh chơn như bình đẳng. Niệm Phật A Di Ðà
tức là niệm tất cả chư Phật. Ví như trong một căn phòng rộng,
quanh tường có treo trăm cái gương, ta chỉ đứng soi vào một tấm
gương, mà cả trăm tấm gương đều phản chiếu hình ảnh ta.
- 2. Lại có
người hỏi:
- Phật đã có
khắp nơi, thì cảnh Phật cũng có khắp nơi. Tại sao không niệm
Ðông phương Phật, Nam phương Phật, mà chỉ cầu về tây phương Cực
lạc?
- Trả lời:
- Ðúng là cõi
Phật ở đâu cũng có, muốn cầu về cõi nào cũng được, nhưng chúng
ta chỉ cầu về Tây phương Phật, vì hai lý do:
- a) cảnh Cực
lạc Tây phương là cảnh mà nhờ đức Phật Thích Ca giới thiệu,
chúng ta biết rõ hơn cả. Ðến một cảnh giới mà ta đã có ý niệm
bao giờ cũng hơn là đến một nơi ta còn xa lạ, không rõ biết gì
cả.
- b) Ta chuyên
tưởng niệm một cảnh giới nhất định, thì tâm sẽ được duy nhất.
Nếu hôm nay niệm cảnh giới này, hôm sau niệm cảnh giới khác, thì
tâm sẽ tán loạn, ý niệm không được tập trung. Cũng như nhiều ngả
thì dễ lạc. Bắn tên phải nhắm vào một đích nhất định, mới hy
cọng trúng. Tu pháp môn niệm Phật cốt nhất là được "nhất tâm bất
loạn".
-
C. Kết Luận
- Pháp môn niệm
Phật là một pháp môn dễ tu hành hơn cả. Niệm Phật không phải hao
công, nhọc sức, khó khăn. Người trí thức, kẻ đi buôn, người làm
ruộng, kẻ thợ thuyền, bất luận ở đâu và lúc nào, đều có thể niệm
được cả. Pháp môn niệm Phật đã dẽ tu mà lại có kết quả chắc
thật, viên mãn là vãnh sanh về tây phương Cực lạc.
- Song muốn có
kết quả, điều kiện tiên quyết là phải có: Tín, Hạnh, Nguyện đầy
đủ; phải có sự; lý viên dung, không nên chấp sự bỏ lý, hay chấp
lý bỏ sự. Cốt yếu là phải niệm đến nhất tâm bất loạn, cầu sanh
về Cực lạc, không còn khổ: sanh, già, bệnh, chết nữa.
- Chúng ta đã
trót sinh ra ở cõi đời nầy, ai lại không biết có thân là khổ, dù
có vui đi nữa, cũng chỉ vui trong chốc lát, mà cái khổ lại đeo
đuổi theo luôn, như hai bánh xe lăn theo sau chân con bò. Vậy
chúng ta nên chuyên cầu niệm Phật, để sớm được giải thoát. Sách
có cấu:
- "Mạc đãi lão
lai phương niệm Phật.
- Cô phần đa
thị thiếu niên nhơn".
- Nghĩa là: chớ
đợi đến già mới niệm Phật; trong nghĩa địa, thiếu cho mồ của
hàng thiếu niên. Vì vậy, trong giờ phút còn mạnh khỏe, chúng ta
phải chuyên cần niệm Phật. Biết vô thường còn kiên tâm chờ đợi
chúng ta cho đến ngày mai chăng?
--o0o--
|
|