-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Ba
Thinh
Văn Thừa Phật Giáo
- --- o0o ---
- Bài Thứ 1
- Khái Niệm
Tổng Quát Về
Tứ Diệu Ðế (Ariya Saccani)
-
A.Mở Ðề
- Nguyên Nhân
Và Hoàn cảnh Ðức Phật Thích Ca Giảng Về Pháp Tứ Diệu Ðế Lần Ðầu
Tiên
- Ðức Phật
Thích Ca, sau khi thành đạo dưới cội cây bồ đề, liền nghĩ đến
việc đem giáo lý của Ngài vừa chứng được, ra truyền bá cho chúng
sanh. Nhưng giáo lý của Ngài là giáo lý cao siêu, thâm diệu, còn
chúng sanh phần đông căn cơ còn thấp kém, khó có thể giác ngộ
nhanh chóng như Ngài được. Nhưng không lẽ vì giáo pháp của Ngài
thậm thâm vi diệu mà không giáo hóa chúng sanh? Ðể làm tròn
nhiệm vụ hóa độ của nGià Phật phương tiện nói pháp Tứ Diệu Ðế là
Tiệm giáo để cho chúng sanh dễ bề tu hành.
- Quan sát căn
cưo năm người bạn đồng tu với Ngài trước kia là nhóm ông Kiều
Trần Như, có thể khai ngộ được với pháp Tứ Diệu Ðế, đức Phật đi
đến Lộc Uyển là nơi họ đang tu hành đểnói pháp Tứ Diệu Ðế.
- Sau khi nghe
Phật thuyết pháp Tứ Diệu Ðế, thánh kiến mê lầm tan vỡ, trí huệ
siêu thoát xuất hiện, năm vị này được ngộ đạo, chứng nhập qủa vị
A La Hán. Ðó là năm vị đệ tử đầu tiên của đức Phật Thích Ca.
- từ đây về
sau, Tứ Diệu Ðế là giáo lý căn bản về Tiệm giáo (phương pháp tu
chứng từ từ) và đã giác phộ cho không biết bao nhiêu đẹ tử của
Phật.
- Ngày nay,
chúng tôi đem giáo pháp Tứ Diệu Ðế ra trình bày với quí vị độc
giải trong tập sách này, cũng không ngoài mục đích ấy.
-
B. Chánh Ðề
- I. Ðịnh
Nghĩa Về Tứ Diệu Ðế
- Tứ là bốn;
Diệu là hay đẹp, quý báu, hoàn toàn; Ðế là sự chắc chắn, rõ ràng
đúng đắn nhất. Chữ Phạn là Ariya Saccani.
- Tứ diệu đế là
bốn sự thật chắc chắn, quí báu, hoàn toàn nhất, không có một
giáo lý ngoại đạo nào có thể sánh kịp. Với bốn sự thật mà Ðức
Phật đã phát huy đây, người tu hành có thể từ địa vị tối tăm, mê
mờ, đi dần đến quả vị giác ngộ một cách chắc thật, không sai
chạy, như một ngọn đuốc thiêng có thể soi đưởng cho người bộ
hành đi trong đêm tối đến đích. Vì cái công dụng quí báu, mầu
nhiệm, vô cùng lợi ích như thế nên mới gọi là Diệu.
- Chữ Ðế còn có
nghĩa là một Sự Thật lớn nhất, cao nhất, bao trùm tất cảcác Sự
Thật khác, và muôn đời bất di bất dịch, chứ không phải là sự
thật hạn cuộc trong không gian và thời gian.
- Trong giáo lý
Tiểu thừa thì Tứ diệu đé là giáo lý căn bản.
- II. TỨ
Diệu Ðế Gồm Những Gì?
- Tứ diệu đế,
là: Khổ đếù, Tập đế, Diệt đế và Ðạo đế.
- 1. Khổ đế (
Dukkha). Khổ đế là chân lý chắc thật, trình bày rõ ràng cho
chúng ta thấy tất cả những nỗi đau trên thế gian này mà mỗi
chúng sinh đều phải chịu, như Sống là khổ, Ðau là khổ, Già là
khổ, Chết là khổ V.V..những nỗi khổ dẫy đầy trên thế gian, bao
vây chúng ta, chìm đắm chúng ta như nước biển. Do đó, Ðức Phật
thường ví cõi đời là một bể khổ mênh mông.
- 2. tập đế
(Sameda Dukkha). Tạp đế là chân lý chắc thật, trình bày nuyên
nhân của bể khổ trần gian, là lý do vì đâu có những nỗi khổi ấy.
Khổ đế như là bản kê hiện trạng của chứng bệnh; còn Tập đế như
là bản nói rõ nguyên nhân của chứng bệnh, lý do vì sao có bệnh.
- 3. Diệt dế
(Nirodha Dukkha). Diệt đế là chân lý chắc thật, trình bày rõ
ràng hoàn cảnh quả vị an lành, tốt đẹp mà chúng sanh sẽ đạt đến
khi đã diệt trừ được những nỗi khổ và những nguyên nhân của đau
khổ. Diệt đế như là một bản cam đoan của lương y nói rõ sau khi
người bệnh klành thì sẽ ăn ngon, ngủ yên như thế nào, thân thể
sẽ tráng kiện, tâm hồn khoan khoái như thế nào.
- 4. Ðạo đế
(Nirodha Gamadukkha). Ðạo đế là những phương pháp đúng đắn, chắc
thật để diệt trưd đau khổ. Ðó là chân lý chỉ rõ con đường quyết
định đi đến cảnh giới Niết Bàn. Nói một cách giản dị, đó là
những phương pháp tu hành để diệt khổt và được vui.
- Ðạo đế cũng như cái toa thuốc mà
vị lương y đã kê ra để người bịnh mua vf\àd những lời chỉ dẫn mà
bịnh nhân cần phải y theo để lành bệnh.
- III. Bố
Cục Kỳ Diệu Của Tứ Diệu Ðế
- Tứ diệu đế đã
được Ðức Phật sắp đặt theo một thứ tự rất khôn khéo, hợp lý, hợp
tình. Ngày nay các nhà nghiên cứu Phật học Âu Tây, mỗi khi nói
đến Tứ Diệu Ðế, ngoài cái nghĩa lý sâu xa, nhận xét xác đáng,
còn tóm tắt tán thán cái kiến trúc, cái bố cục, cái thứ lớp của
toàn bộ pháp môn ấy.
- Trước tiên,
đức Phật chỉ cho chúng sanh thấy cái thảm cảnh hiện tại cỉa cõi
đời. Cái thảm cảnh bi đát nầy có nằm ngay trước mắt ta, bên tai
ta, ngay trong chính mỗi chúng ta; những sự thật có thể thấy,
nghe, ngửi, nếm, rờ được, chứ không phải những sự thật xa lạ ở
đâu đâu. Ðã là một chúng sanh, ai không có sanh, ai không đau
ốm, ai không già, ai không chết v.v...? Và những trạng thái ấy
đều mang theo tánh chất khổ cả. Ðã có thân, tất phải khổ. Ðó là
một chân lý rõ ràng, giản dị, không ai là không nhận thấy, nếu
có một chút ít nhận xét.
- Khi chỉ cho
mọi người thấy cái khổ ở trước mắt, ở chung quanh và chính trong
mỗi chúng ta rồi, đức Phật mới đi qua giai đoạn thứ hai, là chỉ
cho chúng sanh thấy nguồn gốc, lý do của những nỗi khổ ấy. Ngài
đã từ hiện tại đi dần về quá khứ, đã từ bề mặt đi dần xuống bề
sâu, đã từ cái dễ thấy đến cái khó thấy. Như thế là lý luận của
Ngài đã đặt căn bản lên thực tại, lên những điều có thể chứng
nghiệm được, chứ không phải xa lạ, viễn vong, mơ hồ.
- Ðến giai đoạn
thứ ba, đức Phật nêu lên trình bày cho chúng ta thấy cái vui thú
của sự hết khổ. Giai đoạn nầy tương phản với giai đoạn thứ nhứt:
giai đoạn trên khổ sở như thế nào, thì giai đoạn nầy lại vui thú
như thế ấy. Cảnh giới vui thú mà Ngài trình bày cho chúng ta
thấy ở đây, cũng không có gì là mơ hồ, viễn vong, vì nếu đã có
cái khổ là cái vui. và khi đã thấy rõ được cái khổ như thế nào,
thì mới hăqng hái tìm cách thoát khổ và khao khát hướng đến cai
vui mà đức Phật đã giới thiệu.
- Ðến giai đoạn
thứ tư là giai đoạn Phật dạy những phương pháp để thực hiện cái
vui ấy. Ở đây chúng ta nên chú ý là đức Phật trình bày cảnh giới
giải thoát trước, rồi mới chỉ bày phương pháp tu hành sau. Ðó là
một lối trình bày rất khôn khéo, đúng tâm lý: trước khi bảo
người ta đi, thì phải nêu mục đích sẽ đến như thế nào, rồi để
người ta suy xét, lựa chọn có nên đi hay không. nếu người ta
nhận thấy mục đích ấy cao quý, đẹp đẽ, khi ấy người ta mới hăng
hái, nỗ lực không quản khó nhọc, để thực hiện cho được mục đích
ấy.
- Như thế,
chúng ta có thể phác họa lại cái bố cục của bức họa Tứ Diệu Ðế
như sau:
- Chúng ta đang đứng trước một bức
họa vĩ đại gồm có hai phần chính: Phần dưới là một bể thẳm mênh
mông, sóng gió tơi bời, trong ấy thuyền bè đang bị đắm chìm, với
vô số nạn nhân đang lặn hụp, kêu la, khóc lóc, chới với...(Khổ
đế).
- Trong cái
phần nầy của bức tranh, ta cũng thấy được những nguyên nhân gây
ra những thảm họa ấy: đó là những luồng gió dục vọng, tham, sân,
si.. những đám mây vô minh đen nghịt, che khuất cả mặt trời (Tập
đế).
- Nhìn đến phần
trên của bức họa, ta thấy quang cảnh dần dần sáng sủa, yên tĩnh;
ở đây, giông tố không đến được, không có những vực sâu, hố hiểm,
không có những nạn nhân đang rên siết, khóc than...đây là một
miền cao nguyên, cang flên cao, cảnh trí càng đẹp đẽ, yên vui.
Người ở đây trông có vẻ bình tĩnh, thảnh thơi, vui vẻ lắm; và
cũng như cảnh trí, những người càng ở tầng bậc cao thì lại càng
có dung mạo đẹp đẽ, cốt cách phương phi, giải thoát...(Diệt đế).
- trong phần
nầy, nếu chúng ta chú ý nhìn rõ, thì thấy từ một cảnh ở dưới lên
một cảnh trên, có những con đường đi với những cái bản đề tên
đường đi, rất hay như: tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, tứ như ý túc,.
Bát chánh đạo v.v...Trên những con đường ấy, có rất nhiều người
đang đi lên, và rất ít người đi xuống. và càng lên cao thì con
đường lại càng rộng rãi mát mẻ, tốt đẹp và những khách bộ hành
lại càng mang rất ít hành lý...(Ðạo đế).
- Bức họa ấy có
ghi mấy chữ ở phần dưới là: "Thế gian" và phần trên là "Xuất thế
gian".
- Ðây, bức họa
Tứ Diệu Ðế rõ ràng trình bày ra trước mắt chúng ta hai cảnh
giới: Thế gian và Xuất thế gian, tương phản như thế đó. Những ai
đã nhìn được bức họa ấy, tất đều có một thái độ là muốn xa lành
cảnh ở phần dưới và mong ước được sống trong cảnh giới trình bày
ở phần trên bức họa.
- VI. Ðịa Vị
Quan Trọng Của Tứ Diệu Ðế Trong Toàn Bộ Giáo Lý Của đức Phật
Thích Ca
- Tứ Diệu Ðế là
giáo lý căn bản của đạo Phật, không phải riêng đối với Tiểu Thừa
mà chung cho cả Ðại Thừa nữa. Người tu hành muốn có một kết quả
chắc chắn, không thể bỏ qua Tứ Diệu Ðế được. Pháp môn nầy, tuy
tiến chậm, nhưng khi tiến được bước nào là chắc bước nấy. Pháp
môn nầy tuy không đưa thẳng người tu hành đến quả vị Phật, nhưng
với một sự tinh tấn và quyết tâm nó có thể dễ dàng đưa người tu
hành đến quả vị A La Hán. Rồi từ quả vị A La Hán, hành giả sẽ tu
thêm một pháp môn khác của Ðại Thừa, để tiến đến quả vị Phật.
Căn cơ nào, trìnhoộ nào cũng có thể tu theo pháp môn nầy được,
chứ không phải như một số pháp môn khác, phải cần có một trình
độ học thức cao và một trí tuệ trên mức trung bình mới có thể
theo được. Vì thế, nó là một pháp môn phổ thông cho cả hai phái
Tiểu Thừa lẫn Ðại Thừa, Nam tông và Bắc tông. Ngày nay pháp môn
này là pháp môn được phổ biến nhất trên thế giới. Các Phật tử Âu
Mỹ hầu hết đều tu theo pháp môn nầy là những tập sách nghiên cứu
về đạo Phật, của những nhà Phật học tây phương đều nói nhiều
nhất về Tứ Diệu Ðế.
-
C. Kết Luận
- Phật Tử Phải
Học và Thực Hành Pháp Tứ Diệu Ðế
- Một giáo lý
căn bản, quan trọng như Tứ Diệu Ðế, người Phật tử không thể
không hiểu được. Không hiểu biết về Tứ Diệu Ðế là không hiểu
biết gì về giáo lý đạo Phật cả. Người Phật tử, hơn ai cả, phải
thấu triệt cõi đời là khổ. Muón thế, không gì hơn là hãy lắng
nghe đức Phật dạy về Khổ đế, vì chỉ có Khổ đế mới nói lên một
cách tường tận đầy đủ, chính xác về mọi nỗi khổ đau của cõi đời.
- Thấy rõ được
mọi nỗi khổ đau rồi, ta cần tìm hiểu vì đâu có khổ, nguyên nhân
của khổ là đâu. Vì chỉ khi nhận thấy được nguồn gốc của nó, mới
có thể diệt trừ tận gốc nó được. Ðiều này, cũng không chỗ nào
nói rõ ràng, phân tích ràng mạch bằng Tập đế. Nhưng thấy được
mọi nỗi đau khổ của cõi đời và nguồn gốc của nó, không phải để
mà chán ngán, khóc lóc, rên siết. Nếu thế thì không có gì tiêu
cực bi quan bằng. Một sô sdư luận tưởng lầm đạo Phật là yểm thế
bi quan là vì họ đã dừng lại ở hai phần đầu của Tứ Diệu Ðế.
- Nhưng người
Phật tử không dừng lại đó. Ðã thấy đau khổ làm cho cuộc đời xấu
xa, đen tối, khổ đau, thì phải diệt trừ đau khổ. Hạnh phúc không
đâu xa, hạnh phúc hiện ra sau khi đã diệt trừ được đau khổ. Ðau
khổ lùi chứqng nào thì hạnh phúc đến chứng ấy, như bóng tối tan
đi đến đau thì ánh sáng thay vào đến đó. Muốn thấy ánh sáng của
Niết Bàn thì phải thực hiện những lời dạy của Phật trong Diệt
đế.
- Muốn thực
hiện Niết Bàn thì phải có đủ phương tiện. Những phương tiện nầy,
đức Phật đã cung cấp một cách đầy đủ trong trong Ðạo đế.
- Như thế, đức
Phật Thích Ca đã làm đầy đủ nhiệm vụ của kẻ dẫn đường cho chúng
ta đi từ cõi đời đen tối đến quả vị A La Hán. Ngài đã đặt vào
tay chúng ta một bản đồ chỉ dẫn rõ ràng về cuộc hành trình và
ban cho chúng ta đầy đủ phương tiện cần thiết trong chuyến đi vĩ
đại ấy.
- Chúng ta chỉ
còn lên đường và bước đi.
--o0o--
|
|