-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Tư
- Duyên Giác
và Bồ Tát Thừa Phật Giáo
- Bài Thứ 10
- Ngũ Minh
-
A. Mở Ðề
- Người Tây
phương thường chê đạo Phật là tiêu cực. Thật ra, giáo lý của đức
Phật như chúng ta đã học trong mấy khóa phổ thông và nhất là
trong khóa IV này, chứng tỏ một tinh thần vô cùng tích cực, lợi
tha, cứu thế. Nhưng trong thực tế, chúng ta pphải công nhận
rằng, phần đông các nhà hành đạo trong quá khứ; vì thiếu phương
tiện và khả năng chuyên môn nên chỉ hoằng pháp lợi sinh bằng
phương tiện nội điển, mà không đi sâu vào các ngành sinh hoạt
khác của xã hội. Do đó, Ðạo Phật bị thu hẹp phạm vi hoạt động và
mất rất nhiều ảnh hưởng trong đời sống đại đa số quần chúng.
- Nhất là trong
thế giới phức tạp ngaỳ nay, mà lòng người bị chi phối rất nhiều
vì những sinh hoạt kinh tế, chính trị văn hóa,...nếu người hành
đạo cứ giữ những lề lối cũ, không có những phương thức hoằng
pháp thich hợp với xã hội mới, không có những kiến thức và khả
năng thích hợp với các ngành hoạt động trong xã hội, thì đạo
Phật sẽ mất dần ảnh hưởng và không giữ được vai trò lãnh đạo của
mình nữa.
- Những ý nghĩ
trên đây không phải là những phát minh mới mẽ gì của chúng tôi,
mà chính hơn 2.500 năm trước, đức Phật đã nghĩ đếùn trong dạy
các Ðệ tử của Ngài phải học Ngũ minh, nếu muốn truyền giáo cho
có hiệu quả.
- Vậy Ngũ minh
là gì và có tầm quan trọng thế nào? Ðó chính là vấn đề mà chúng
ta sẽ đề cập dưới đây:
-
B. Chánh Ðề
- I. Ðịnh Nghĩa
- Ngũ minh là
gì? Ngũ minh là năm kiến thức người hoằng pháp cần phải có, phải
hiểu biết.
- Những kiến
thức ấy là những kiến thúc nào? Ðó là những kiến thức về nôi
minh, nhân minh, thanh minh, công xảo minh và y phương minh.
- IIGiải Rõ Về
Ngũ Minh
- 1. Nội minh.
Trước tiên, người hoằng pháp phải cần có Nội minh, nghĩa là phải
có kiến thức về nột điển Phật giáo.
- Muốn hoằng
pháp, nghĩa là muốn đem giáo pháp truyền bá trong quần chúng để
mọi người đeù hưởng sự lợi ích, thì trước tiên mình phải tự tìm
hiểu giáo lý của đạo Phật cả. Chúng ta đã biết rằng không hiểu
giáo lý, thì không ai có thể thực hành đúng theo Phật pháp
được.Những tình trạng lộn xộn, mê tín, lố lăng của Ðạo Phật Việt
Nam, sở dĩ có ra cũng vì người hành đạo thiếu sự am tường giáo
lý nội điển. Vì không biết rõ nội điển cho nên không biết chủ
trương chân chính của đạo Phật. Do đó, người ta mới đi sâu vào
những hành động sai lầm: vàng mã, đồng bóng, cúng sao cúng hạn,
dời mả, giết hại sing vật để tế Thần tế Thánh, cúng kiến ông bà.
- Muốn cho tình
trạng ấy chấm dứt, người hoằng pháp phải tự mình thông hiểu giáo
điển và truyền bá giáo lý cho tất cả tín đồ. Bao giờ cúng nên
nhớ rằng đạo Phật chủ trương hiểu rồi mới làm, mà không hiểu tức
là bị lạc đường lầm nẻo. Ðứng ra hướng dẫn tín đồ mà chưa hiểu
được nôi giáo, là một chuyện nguy hiểm vô chừng. Không ai có thể
tha thứ được cái thái độ "nhứt manh dẫn quần manh" ấy.
- Tăng giới
phải là bực thông hiểu giáo lý đã dành. Các bậc cư sĩ đứng ra
làm Phật sự, điều khiển những tổ chức Phật học cũng không thể
không hiểu giáo lý. Một tệ đoan mà chúng ta thấy cần pahỉ sửa
chữa gấp là phải làm thế nào cho những phần tử trong bộ máy của
các tổ chức Phật học phải là những người có học đạo.
- Chúng ta
không thể nào không lo sợ khi thấy những người thiếu học Phật,
đứng giữ địa vị tỏ chức và điều kiện trong một Hội Phật học hay
một cơ quan giáo dục như gia đình Phật tử chẳng hạn.
- Cho nên người
có hoằng pháp có bổ phận phải am tường nội điển. Phải tìm hiểu
giáo lý hàm chứa trong ba tạng: Kinh, Luật, Luận. Giáo lý cao
siêu trong ba tạng phân làm ba hệ thống rõ ràng:
- a) Hệ thống
Bát nhã: Giáo lý chân không chủ trương rằng vạn pháp là không
thực, để hiển lý tánh chân không.
- b) Hệ thống
Pháp tướng: Giáo lý Duy thức chủ trương vạn pháp không thực tánh
và có là do thức biến hiện ra ngàn sai muôn khác.
- c) Hệ thống
Pháp tánh: Giáo lý pháp tánh là dẫn tướng qui tánh, chủ trương
đạt đến chơn như, các pháp đều do chơn như duyên khởi mà có.
- Về mỗi hệ
thống giáo lý, có vô số pháp môn để chúng sinh thực hành và đạt
đến quả vị giác ngộ. Người hoằng pháp cần thông hiểu các hệ
thống giáo lý và các pháp môn phương tiện để có thể xem ra ứng
tiếp với xã hội cho hợp tời và hợp cơ. Tóm lại, sự hiểu biết về
nội điển là điều quan hệ vào bậâc nhất.
- 2. Nhân minh.
Am tường giáo lý chưa đủ. Muốn trình bày giáo lý ấy một cách rỏ
ràng, khúc chiết, muốn lập thuyết vững vàng, người hoằng pháp
cần phải dựa trên một phương pháp luận lý; phương pháp luận lý
ấy gọi là nhân minh.
- Nhân minh là gì? Là một môn luận
lý học của Phật Giáo, chủ trương chứng minh lập thuyết bằng
"Nhân", nghĩa là bằng cách suy cứu đến lý do.
- Bộ sách vĩ
đại làm căn bản cho Nhân minh học là Nhân minh đai sớ. Ở đây,
chúng ta tìm hiểu qua đại cương để hiểu thế nào là Nhân minh mà
thôi.
- Một lập luânk
đầy đủ theo Nhân minh phải có ba phần: Tôn, Nhân, Dụ, gọi là tam
chi tác pháp. Tôn là chủ trương của mình. Nhân là lý do thành
lập chủ trương ấy. Dụ là những sự kiện đem ra để chứng minh (có
thuận và nghịch). Ví dụ:
- Tôn: Ông
Nguyễn Văn A phải chết.
- Nhân: Vì ông
Nguyễn Văn A đã có kúc bị sanh ra.
- Dụ: Phàm cái
gì đó sinh tất phải có chết, như Không Tử, Trần Trọng Kim
v.v...(đông dụ). Trái lại, phàm cái gì không có sanh tất không
có chết, như hư không (dị dụ) v.v..
- Ðồng dụ là
những thí dụ đồng loại (có sinh có diệt). Di dụ là những thí dụ
khác loại (không sinh thì không chết).
- Ta thêm một
ví dụ khác:
- Tôn: Trò B sẽ
bị phạt
- Nhân: Vì trò
B học bài không thuộc.
- Dụ: Phàm, ai
không thuộc bài thì đều bị phạt cả, như trò C, trò ÐƯ"C (đồng
dụ). Phàm, ai thuộc bài thì đều không bị phạt như trò Mít, trò
Ổi.
- Ta nhận thấy
môn luận lý nhân minh có hơi giống với luận lý học hình thức
(syllogisme) của phương tây, và lại đầy đủ tinh vi hơn luận lý
học này, vì nó có đủ tính cách diễn dịch và qui nạp.
- Ba phần chính
của môn luận thức nhân minh, phải có liên lạc mật thiết với
nhau. Nhân bao giờ cũng quan hệ đến Tôn, phải triệt để có tính
cách của đồng dụvà tuyệt đối không có tính cách của di dụ. Còn
dụ bao giờ cũng phải dính líu đến Tôn và Nhân. Mỗi phần Tôn,
Nhân, Dụ muốn đứng vững được, cần phải tránh nhiều lỗi. (Xem
quyển PHPT khóa IX).
- Học nhân minh
có mục đích là biết phán đoán chân ngụy, thuyết phục ngoại đạo
và đọc được các bộ luận về pháp tướng học, bởi vì các Tổ ngày
xưa theo lối lập luận này trong khi viết các bộ luận kia.
- 3. Thanh
minh. Ðây là môn học về ngữ môn văn tự, về âm thanh và về văn
học. Sự truyền giáo cũng đã rất cần đến môn học này. Xưa các vị
Tổ sư muốn đem giáo pháp truyền bá ở các nước, đã phải thông
hiểu về các thứ sinh ngữ,đã phải có tài phiên dịch và trước tác.
Nhiều bộ sách đạo lý lưu truyền đến tận nay mà cũng phải nhận là
có những giọng văn sáng sủa lưu loát, chính là nhờ ở căn bản về
thanh minh rất rộng rãi vậy.
- Trong Phật
giáo, chỉ có Thiền tông chủ trương không chú trọng mấy về văn
tự. Các tôn phái khác đều cần đến thanh minh; Người tu học cần
phải có kiến thức về văn học mới có thể học hiểu giáo lý tu tập;
nn môn học này. Xưa các vị Tổ sư muốn đem giáo pháp truyền bá ở
các nước, đã phải thông hiểu về các thứ sinh ngữ,đã phải có tài
phiên dịch và trước tác. Nhiều bộ sách đạo lý lưu truyền đến tận
nay mà cũng phải nhận là có những giọng văn sáng sủa lưu loát,
chính là nhờ ở căn bản về thanh minh rất rộng rãi vậy.
- Trong Phật giáo, chỉ có Thiền
tông chủ trương không chú trọng mấy về văn tự. Các tôn phái khác
đều cần đến thanh minh; Người tu học cần phải có kiến thức về
văn học mới có thể học hiểu giáo lý tu tập; người truyền giáo
phải có kiến thức về văn học để phiên dịch, trước tác với các
nước Phật Giáo trên hoàn cầu.
- Hiện nay,
người Phật tử Việt Nam rất cần đến thanh minh: Phật Giáo Việt
Nam đang đòi hỏi một kho kinh điển bằng tiếng Việt làm tài liệu
học tập và truyền bá. Như thế các nhà hữu tâm của Phật Giáo phải
lưu ý đến việc học tập văn chương và ngoại ngữ để có thể kiến
thiết một nền Phật học bằng quốc văn.
- 4. Công xảo
minh. Ðây là môn học về công nghệ và kỹ thuật:
- Trong công cuộc hành đạo, người
tín đồ của Phật Giáo nhận thấy cần có đủ điều kiện kinh tế, mới
có thể lập ra những cơ quan tu học cho Tăng giới, cho cư sĩ, mới
có thể thành được những tổ chức cứu tế, giúp đỡ cho người nghèo
đói tật nguyền, thể hiện lòng từ bi bác ái. Công nghệ và kỹ
thuật mỗi ngày mỗi thêm tiến bộ, người Phật tử cần phải học tập
để óc những phương tiện hành đạo rộng rãi trong phạm vi xã hôi
nhân sinh.
- Công nghệ và kỹ thuật, nếu chỉ
là lợi khí cho sự kinh doanh vụ lợi ích kỷ, thì không đáng cho
ta phải bận tâm. Công nghệ và kỹ thuật ấy tiến bộ chừng nào, thì
gây đau khổ cho loài người chừng ấy, bởi vì chúng sẽ biến ra lợi
khí tranh giành, cướp đoạt và bóc lột. Kỹ thuật tiến bộ của máy
móc, của bom đạn đã là một sự đe dọa ghê ghớm.
- Người Phật tử
học lấy công nghệ và kỹ thuật rồi đem công nghệ và kỹ thuật
phụng sự nhân loại, thể theo lòng vị tha và bác ái muốn cho muốn
loài có hạnh phúc chân thực, tránh những tai hạo do dục vọng gây
nên.
- 5. Y phương
minh. Ðây là môn học về các phương pháp chữa bệnh. Các đức Phật
là những nàh lương y, trị cả tâm bệnh và cả thân bệnh cho chúng
sinh, đức Dược Sư Lưu Ly là một gướng sáng. Thế gian này đầy dẫy
những bệnh nhân đau khổ về vật chất lẫn tinh thần. Những phương
thuốc chữa bệnh tinh thần đã đành rằng rất cần thiết, nhưng
những phương thuốc chữa bệnh về vật chất cũng không phải là
không quan trọng. Người Phật tử nếu có được những thời giờ rảnh
rang nên học chuyên môn về thuốc, để có thực hành một công tác
xã hội rất thích hợp với lòng từ bi: đó là sự chữa bệnh. Các bác
sic các lương y, nếu là Phật tử thì đã có trong tay một phương
tiện hành đạo rất quan trọng. Ðem sự an ủi đến cho người bệnh,
nâng đỡ họ trong cơn ốm đau, cử chỉ đó thực có thể tiêu biểu
được một phần nào tinh thần cứu thế tích cực của đạo Phật.
- Chúng ta hy
vọng rằng sau này Phật Giáo sẽ có được những bệnh viện do Phật
tử chăm Ngài on, và mỗi một gnôi chùa địa phương, có thể có một
cơ quan cấp cứu tương trợ cho đồng bào trong những lúc nguy biến
ngặt nghèo.
-
C. Kết Luận:
- Trong thời
đại hiện tại, xã hội đòi hỏi một phương thức hoằng pháp rộng rãi
hơn. Chúng ta không có thể áp dụng những phương tiện nhỏ hẹp, mà
cần phải mở rộng phàm vi của hoằng pháp theo Ðại Thừa Phật Giáo;
người Phật tử cần phải y lời Phật dạy học Ngũ minh và mỗi người
sẽ là một chiến sĩ từ thiện xã hội, lo xây đắp cho nền Phật giáo
tương lai hưng thịnh và thực hiện được bảo cứu tế to rộng của
đức Bổn sư.
--o0o--
|
|