-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- Khóa Thứ
Năm
-
Lịch Sử Truyền
Bá Phật Giáo,
10 Tông Phái và Vũ Trụ Nhơn Sanh
- --- o0o ---
- Bài Thứ 3
- Lịch Sử Phật
Giáo Việt Nam
(Từ Lúc
Mới Du Nhập Ðến Hết Ðời Nhà Lý)
-
-
A.-Mở Ðề
- Trong thời
Pháp thuộc, vì vận mệnh chung cả nước nhà đang suy đồi, lại bị
văn hóa Tây phương và ngoại đạo lấn áp, nên Phật Giáo đối với
phần đông dân tộc Việt nam như là một tôn giáo hạ đẳng, phụ
thuộc, không có nghĩa lý gì.
- Nhưng vì nếu
có ai đi sâu vào lịch sử Phật Giáo Việt-Nam theo dõi bước đi của
sự truyền giáo qua các thời đại từ khi dân tộc Việt-Nam mới lập
quốc đến ngày nay, thì sẽ thấy Phật Giáo giữ một địa vị quan
trọng vô cùng trong công trình gây dựng văn hóa Việt-Nam. Có thể
nói một cách không quá rằng: Văn hóa Việt-Nam một phần lớn là
văn hóa Phật Giáo. Rút cái tánh chất Phật Giáo trong văn hóa
Việt-Nam ra thì văn hóa ấy thật là nghèo nàn, nông cạn. Chính
Thượng tọa Mật Thể, trong quyển '' Việt-Nam Phật Giáo sử lược''
đã nói rất đúng: ''nhờ tinh thần sáng suốt của thể đạo, với công
nghiệp bố giáo của các tổ sư Phật Giáo rất có công to trên lịch
sử văn hóa nước nhà''.
- Ngày nay, để
nhận chân đứng đắn cái vai trò quan trọng và sứ mệnh lịch sử của
Phật Giáo nước nhà, cũng như để thêm tinh tưởng và phấn khởi mà
tu học, để thừa tiếp cái tinh thần ''Bi-Trí-Dũng'' của đạo mà
truyền lại cho các thế hệ về sau, chúng ta, Phật tử Việt-Nam cần
phải biết rõ lịch sử Phật Giáo Việt-Nam.
-
B.-Chánh Ðề
- I.- Phật Giáo
Du Nhập Vào Việt Nam
- 1.- Con đường
du nhập.- Nước Việt-Nam ta nằm trên bán đảo Ấn Ðộ Chi na, giữa
hai nước rộng lớn, hai dân tộc đông đảo nhất thế giới, hai nền
văn minh sáng lạn của châu Á là Ấn Ðộ và Trung Hoa. Vì địa thế
của nước Việt-Nam nằm ở giữa con đường biển đi Ấn Ðộ đến Trung
Hoa , nên đã chịu ảnh hưởng nhiều của hai nền văn minh ấy .
- Riêng về Phật
Giáo , thì sư du nhập vào Việt-Nam củng do cả hai con đường:
đường biển từ phía Nam lên và đường bộ từ phía Bắc xuống. Trong
só bốn nhà truyền giáo đầu tiên đặt chân lên Việt-Nam, thì hết
ba nhà sư là người Ấn Ðộ, đi đường thủy sang Trung Hoa truyền
đạo và đã ghé tại Việt-Nam là các Ngài: Ma-Ha-Kỳ-Vực,
Khương-Tăng-Hội và Chi-Cương-Lương.
- Nhà truyền
giáo thứ tư là người Trung Hoa, Ngài Mâu-Bác, đã đi đường bộ từ
phía Bắc xuống. Ðó là điều chứng minh rằng Phật Giáo vào
Việt-Nam do cả đường thủy và đường bộ cả từ phía Nam lên và phía
Bắc xuống. Nhưng vì nước ta bị Trung Hoa đô hộ ngót một ngàn năm
và sau đó vẩn còn lệ thuộc vào văn hóa và chính trị nên về sau
con đường truyền giáo từ Trung Hoa sang là con đường chính
- 2.- Thời đại
du nhập đầu tiên. -Theo các sử gia đáng tin cậy, thì nhà thì nhà
truyền-giáo đầu tiên đến Việt nam ( lúc bấy giờ là đất
Giao-Châu) là Ngài Mâu-Bác, người quận Thương Ngô tức là Ngô
Châu ( Trung Hoa bây giờ ). Sau khi vua Hán Linh-Ðế mất (189)
nước Tàu thường loan lạc, Ngài theo mẹ qua ở Giao Châu và truyền
bá đạo Phật.
- Nhà truyền
giáo thứ hai đặt chân lên đất Giao-Châu là Ngài Khương-Tăng-Hội,
Ngài gốc Khương-Cư ( Soadiane, Ấn Ðộ ). Mục đích của Ngài là
sang Trung Hoa, nhưng ông thân của Ngài sang Giao-Châu buôn bán
nên Ngài cũng theo đường Giao-Châu để sang Trung Hoa. Trung Hoa
lúc ấy về đời Tam-Quốc, Ngài đến nước Ðông-Ngô và được
Ngô-Tôn-Quyền sùng mộ, xin quy-y với Ngài ( 229-252 ). Như thế
là Ngài Khương-Tăg-Hội ghé lại Giao-Châu vào khoảng đầu thế kỷ
thứ III, sau Tây lịch.
- Vào khoảng
giữa thế kỷ thứ III đến cuối thế kỷ thứ III, đất Giao-Châu lại
đón tiếp hai nhà sư Ấn Ðộ nữa là Ngài Ma-Ha-Kỳ-Vực và
Chi-Cương-Lương, trên bước đường sang Trung Hoa truyền-giáo của
các Ngài, vào đời nhà Tần (265-306).
- Như thế, có thể nói rằng: Ðạo
Phật du nhập đầu tiên sang Việt-Nam trong khoảng cuối thế kỷ thứ
II đến thế kỷ thứ III, sau Tây lịch.
- 3.- Các môn
phái du nhập.- Trong thời kỳ đầu tiên du nhập Việt-Nam, đạo Phật
chỉ phớt qua trên đất nước, chưa có màu sắc riêng biệt và dân
chúng chỉ mới tiếp xúc với Ðạo- Phật trong phương tiện thờ cúng
lễ bái mà thôi.
- Phải đợi đến
vài ba năm sau, đạo Phật mới thâm nhập dần vào dân chúng và do
ảnh huởng của Phật Giáo Trung Hoa. Có một đều chúng ta ngạc
nhiên là, mặc dù Phật Giáo Trung Hoa gồm mười tôn phái, mà chỉ
có Thiền-Tôn là được truyền đi sang Việt-Nam trước nhất và mạnh
mẽ nhất. Tôn này được truyền vào Việt-Nam trước hết do Ngài
Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi (Vinitaruci) đưa sang (580). Ngài là đệ-tử được
truyền tâm-pháp của Tam-tổ Tăng-Xán, và chính là sơ-tổ Thiền-Tôn
ở Việt-Nam.
- Ðến đời Dường
(820) lại có Ngài Vô-ngôn-Thông ở Trung Hoa sang truyền giáo,
lập thành phái Thiền-Tôn thứ hai; kế đó là các phái Thảo-Ðường,
Tào-động, Lâm-tế v.v.. lần lượt truyền sang Việt-Nam.
- Tóm lại, đạo
Phật du nhập vào Việt-Nam, chỉ có Thiền-Tôn là gây ảnh hưởng
mạnh mẽ hơn cả.
- B.- Phật Giáo
Dưới Thời Hậu Lý Nam Ðế (571-602) Và Bắc Thuộc Lần Thứ Ba
(603-939)
- Từ khi Phật
Giáo truyền vào Việt-Nam cho đến thời Tiền Lý Nam-Ðế, kể cả trên
ba năm (189-548) nhưng vẫn còn nằm trong thời kỳ phôi-thai chưa
có gì đáng gọi là thạnh hành lắm. Ðến thời Hậu Lý Nam-Ðế
(571-602) và Bắc thuộc lần thứ III (603-939) Phật Giáo mới bắt
đầu bước vào thời thành đạt.
- 1.-Giai đoạn
thứ nhất.- Sự truyền bá Thiền-Tôn của Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi ở
Trung Hoa sang (580) đem Thiền-Tôn truyền bá vào, được người
Việt-Nam hết sức sùng mộ. Do đó, lần đầu tiên nước Việt-Nam được
biết đến ThiềnTôn và Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi chính là sơ-tổ phái
Thiền-Tôn ở Việt-Nam. Sau Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi có Ngài
Pháp-Hiển là đệ tử của Ngài Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi nối nghiệp thầy,
đem đạo Phật truyền sâu trong dân chúng.
- 2.-Giai đoạn
thứ hai.- Ảnh hưởng của ba đoàn truyền giáo:
- Ðến đây, Phật
Giáo Việt-Nam bắt đầu thịnh. Lúc bấy giờ nước ta đang lệ thuộc
nhà Tùy, vua Cao-Tổ nhà Tùy , nghe nước ta đạo Phật đang
phát-triển mạnh, nên vua ban cho các vị danh tăng ở nước ta năm
hòm lễ vật, và sắc lịnh cho xây tháp ở ở chùa Pháp-Vân, chùa
Trung-Khánh cùng các danh địa khác.
- Sau này Tùy
mất ngôi (618) nhà Ðường kế nghiệp, vua Ðường-Cao-Tổ củng có ban
cho An-Nam năm viên ngọc Xá-Lỵ và sắc dựng chùa xây tháp.
- Cũng trong
giai đoạn này, những nhà truyền giáo Trung Hoa và Ấn Ðộ, thường
mượn đường nước ta mà qua lạ. Trong khi đi ngang Việt-Nam các
Ngài thường ghé lại ít lâu để thuyết-pháp, do đó chung ta cũng
chịu được nhiều ảnh hưởng tốt. Trong số những doàn truyền giáo
ấy, đang kể nhất là ba đoàn sau đây:
- a) -Ðoàn thứ
nhất:Gồm có các Ngài Minh-Viễn pháp-sư, Huệ-Mạnh thiền-sư, và
Vô-Hành thiền-sư, đều là người Trung Hoa.
- b) -Ðoàn thứ
hai: Gồm các Ngài Ðàm-Nhuận pháp-sư, Trí-Hoàng pháp-sư, và
Tăng-Già-Bạt-Ma (Hai Ngài đều người Trung Hoa và Ngài sau người
Tây-Trúc).
- c ) -Ðoàn thứ
ba: Gồm sáu nhà sư Việt-Nam là các Ngài Vân-Kỳ thiền-sư,
Mộc-Xoa-Ðề-Bà, Khuy-Sung pháp-sư, Huệ-Diệm pháp-sư, Trí-Hành
thiền-sư bốn Ngài đầu người Giao-Châu, hai Ngài sau người
Ái-Châu (Thanh-Hóa, Nghệ-An bbay giờ). Các Ngài này đếu từ
Việt-Nam đi sang cầu pháp ở Tây-Trúc và tịch, phần nhiều rất
sớm, ở Ấn Ðộ hay Tích-lan.
- 3.- Giai đoạn
thứ ba.- Sự truyền bá của phái Vô-Ngôn-Thông:
- Vào năm 820,
nước ta lại được một vị cao-tăng thuộc phái Thiền-Tôn sang
truyền giáo và lập thành một phái Thiền-Tôn thứ hai là Ngài
Vô-Ngôn-Thông.
- Ngài họ
Trịnh, quê ở Quảng-Châu. Lúc nhỏ Ngài đã mộ đạo, xuất gia tu học
tại chùa Song-Lâm, đất Vũ-Châu (Triết-Giang). Tính Ngài điềm
đạm, ít nói nhưng sự lý gì củng hiểu, nên người thời ấy gọi Ngài
là Vô-Ngôn-Thông.
- Một hôm Ngài
đang ngồi lễ Phật, gặp một vị thiền-sư đến điểm-hóa cho Ngài và
đưa Ngài di tìm đúc Mã-Tổ mà tham học. Nhưng đến Giang-Tây, Ngài
nghe tin đức Mã-Tổ đã tịch rồi, nên Ngài đi đến xin tòng sư với
tổ Bạch-Tượng thiên-sư.
- Một hôm trong
buổi giảng, có vị học tăng hỏi Bạch-Tượng:
- Thế nào là
pháp-môn của phái Ðại-thừa?
- Tổ trả lời:
- Tâm địa nhược
thông, huệ nhật tự chiếu (nghĩa là:nếu tâm địa thông rồi thì mặt
trời huệ tự nhiên chiếu sáng).
- Nghe được mấy
câu ấy, Ngài Vô-Ngôn-Thông liền ngọ đạo. Ngài trở về Quảng-Châu,
trụ trì tại chùa An-Hòa. Ðến năm 820, Ngài qua Việt-Nam trú ở
chùa Kiến-Sơ, làng Phù-Ðổng (Bắc Ninh ) trọn ngày ngồi xây mặt
vào vách mà thiền định. Như thế đã mấy năm mà không ai biết; chỉ
có vị sư ở chùa ấy là Cảm-Thành thiền-sư biết Ngài là bậc
Cao-tăng đắc đạo trông phái Thiền-Tôn, nên hết lòng kính trọng
và thờ làm thầy. Ngài thị-tịch một cách rất an nhiên tự-tại, vào
năm 826 Tây lịch, sau khi truyền tâm ấn cho Ngài Cảm-Thành
thiền-sư
- Ngài
Cảm-Thành thiền-sư lại truyền tâm-ấn cho Ngài Thiện-Hội và gây
thành một truyền thống cho phái Vô-Ngôn-Thông (Chúng ta sẽ học
tiếp trong các dời vua sau).
- Tóm lại, trong khoảng thời gian
gần bốn trăm năm, từ đời Hậu Lý Nam-Ðế (571-602) cho đến hết
thời ký Bắc thuộc lần thứ ba (603-939), sự truyền giáo ở
Việt-Nam có thể chia làm ba giai đoạc: giai đoạn thứ nhất, do
công đức của phái Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi; giai đoạn thứ hai, do các
đoàn truyền giáo Trung Hoa vá Việt-Nam, và sự khuyến khích ủng
hộ của các đời vua Tùy và Ðường; giai đoạn thứ ba, do phái
Vô-Ngôn-Thông.
- III.- Phật
Giáo Dưới Thời Ðinh Và Tiền Lê (968-1009)
- 1.- Tình
trạng tổng quát của Phật Giáo trong hai đời Ðinh, Lê:
- Trong hai đời
vua nầy, đạo Phật được tiến phát rất nhiều. Có thể nói Ðạo Phật
trở thành độc tôn. Tất cả văn hóa, chính trị trong nước, một
phần lớn đều thuộc về tăng-sĩ, cho nên Ðạo Phật được phổ biến dễ
dàng trong quần chúng. Mặc dù Nho-giáo và Lão giáo đã truyền vào
từ lâu, nhưng không làm sao có uy thế được như Phật Giáo. Trong
triều chính thì Ngài Ngô-Châu-Lưu làm đến chức Khuông-Việt
thái-sư; trong giới tăng-sĩ thì Ngài Trương Ma-Ni làm Tăng-lục
đạo sĩ và pháp-sư Ðặng Huyền Quang làm Sùng-Chân uy-nghi.
- Sau khi nhà
Ðinh mất ngôi, Lê-Ðại-Hành lên kế vị, chóng lại quân nhà Tống
(980) và được thăng lợi. Trong giai đoạn này, các vị tăng-sĩ lại
được biệt đãi hơn; vua Lê-Ðại-Hành thường triệu thỉnh các vị
Tăng-thống vào triều để bàn hỏi việc nước và khuyến khích việc
truyền bá Phật-pháp.
- Ðều đáng chú
ý trong giai đoạn này là, sau khi đã hòa với nhà Tống, vua
Ðại-Hành sai sứ sang triều cống nhà Tống và xin thỉnh bộ "Cữu
kinh" và "Ðại tạng kinh" đem về truyền bá. Ðây là lần đầu tiên
nước tăng-sĩ công khai sang thỉnh kinh ở Trung Hoa về.
- Một điều đáng ghi nhớ nữa là
trong giai đoạn này, trong giới tăng-sĩ có hai vị cao-tăng xuất
chúng đã làm vẽ vang cho nước nhà một thời. Ðó là Ngài
Khuông-Việt thái-sư và Ngài Ðổ-Thuận thiền-sư.
- 2.-Khuôn việt
thái-sư:- Ngài họ Ngô pháp hiệu là Chân-Lưu, quê ở làng Cát-Lỵ,
trụ trì chùa Phật-Ðà. Thuở nhỏ Ngài theo học Nho, lớn lên thọ
giới ở Vân-phong thiền-sư ở chùa Khai-Quốc. Từ đó Ngài chuyên
đọc kinh điển nhà Phật, hiểu được mọi lẽ cốt yếu của Thiền-Tôn,
tiếng tăm lừng lẫy trong nước. Năm Ngài 40 tuổi, vua Ðinh- tiên-
hoàng vời vào hỏi đạo, Ngài ứng đối tinh tường, vua rất mến phục
và phong làm Tăng-Thống. Năm sau vua lại phong Ngài làm
Khuông-Việt thái-sư (Khuông Việt là người có công giúp đở sửa
sang người Việt).
- Ðến đời vua
Lê-Ðại-Hành, Ngài càng được kính trọng hơn nữa. Bao nhiêu việc
quan, việc nước, vua thường triệu Ngài đến hỏi. Ngài ở triều
được ít lâu rồi lấy cớ già yếu xin cáo vê, dựng một ngôi chùa ở
núi Du-hý. Ơí đó, Ngài mở trường dạy hạc, học trò đến rất đông.
- Ngày rằm
tháng hai, niên hiệu Thuận-Thiên thứ hai đời nhà Lý, Ngài gọi
Ða-Bảo thiền-sư là đệ tử thân tín của Ngài đến, truyền tâm pháp
qua bài kệ sau đây, rồi chắp tay an-nhiên thị-tịch.
- Nguyên văn
- Mộc trung
nguyên hữu hoa,
- Nguyên hỏa
phục hoàn sinh,
- Nhược vị một
vô hỏa,
- Toản toại hà
do sinh?
- Dịch nghĩa:
- Trong cây vốn
có lữa, Tia lữa mới sáng lòa, Nếu bảo cây khôngcó lữa, Cọ sát
sao lại ra?
- Ngài thọ được
81 tuổi, và là người thứ tư được truyền tâm pháp của phái
Vô-Ngôn-Thông.
- 3.-Ðỗ-Thuận
Thiền-sư:
- Ngài dòng họ
Ðỗ, không rõ nguyên quán ở đâu, xuất-gia từ thuở nhỏ, thọ-giới
với Long-Thọ Phù-Trì thiền-sư. Khi nhà Tiên Lê mới thành nghiệp,
Ngài thường được vời vào triều để bàn luận chính trị và
ngoại-giao. Vua Ðại-Hành thường gọi là Ðỗ pháp-sư, chứ không dám
gọi chính tên. Ngài làm thơ rất hay, và thường được cử ra để đối
đáp với các sứ-giả Trung Hoa.
- Niên hiệu
Hưng-Thống thư hai nhà Tiền-Lê, Ngài thị-tịch, thọ được 76 tuổi.
Ngài có làm quyển "Bồ Tát hiệu sám-hối văn", nay truyền lại.
Ngài là đời pháp truyền-thống thứ mười của phái
Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi.
- 4.- Nhận xét
chung về Phật Giáo trong giai đoạn này:
- Phật Giáo đời
Ðinh-Tiên-Hoàng và Tiền-Lê, sở dĩ được ưu đãi và giữ địa vị
độc-tôn, vì những lý do sau đây: các vị tăng-sĩ phần nhiều là
nhưng xvị bác học thâm Nho. Chữ Nho mặc dù trước đó đã được đem
dạy ở đất Việt, nhưng vì chưa có khoa thi cử, nên ít người theo
học. Chỉ có các vị thiền-sư, vì cần nghiên cứu Phật Giáo qua
kinh điển bằng chữ Hán, nên phỉ học nho nhiều. Những vị sư lúc
bấy giờ, vừa túc Nho, vừa hiểu đạo lý mà vừa có đức hạnh, thì lẽ
dĩ nhiên trong triều được vua trọng vọng, ngoài dân chúng được
kính nể. Ðạo Phật được thạnh hành trong giai đọan này cũng không
có gì đáng ngạc nhiên.
- IV.- Phật
Giáo Dưới Thời Nhà Lý (1010-1225).
- 1.- Dưới đời
Lý-Thái-Tổ:
- a.-Vua
Lý-Thái-Tổ và tình hình Phật Giáo dưới đời nầy (1010-1028).
- Vua Lý- Thái
Tổ tên húy là Lý-Công-Uẩn ,con nuôi của sư Lý -Khánh- Vân ở chùa
cổ pháp, thọ giáo với Ngài Vạn Hạnh- Thiền- Sư .Sau khi vua Lê
Ngọa-Triều mất, Ngài mới lên ngôi kế vị,lây hiệu Thuận -Thiên
đóng đô ở Thăng Long(Hà Nội). Lý-Thái -Tổ là một Phật tư thuần
thành, nên sau khi lên ngôi, Ngài hết sức chú trọng đến sự
truyền -bá Phật Giáo.Ngài đã dưng rất nhiều ngôi chùavà độ rất
nhiều tăng chúng .Ðáng chú ý hơn cả là năm 1019, Ngài sai sứ
thần sang Trung Hoathỉnh kinh đem về để tại kinh viện Ðại-Hưng.
- Triều đại này
có thể nói là triều đại mà Phật Giáo được thịnh đạt nhất. Các vị
thiền sư lúc bấy giờ như Ngài Vạn-Hạnh, Ða-Bảo, Sùng- Phạm
thiền- sư đều là những bậc danh tăng mà nhà vua rầt tín trọng.
Cho nên sự truyền giáo của các Ngài rất dễ dàng có hiệu
quả.Những vị danh tăng này đều ở hai pháiTỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi và Vô-
Ngôn-Thông cả.
- b)Vạn- Hạnh
Thiền-Sư:
- Ngài họ
nguyễn, không rõ tên húy là gì, người làng Cổ-Pháp. Gia -đình
Ngài đời đời thờ Phật, Ngài thông minh xuất chúng từ thuở nhỏ,
học hết tam giáo và tinh thông về giáo lý nhà Phật. Năm 20 tuổi
Ngài xuất- gia, theo học với Ngài Thiền-Ông đạo giả, tức là vị
thư hai được truyền tâm phap của phái Tỳ -Ni- Ða-Lưu -Chi . Ngài
chuyên tập phap "Tỏng-trì -tam-ma -địa". Người đời thường xem
câu nói của Ngài như những câu sấm. Trong thời vua Ðại-Hành còn
sống, Ngài được vời vào triều hỏi việc quan.
- Năm
Thuận-Thiên thứ IX (1018) Ngài không đau ốm gì mà tịch. Thi hài
Ngài được triều đình và các đệ tử của Ngài hỏa táng và thờ ở
trong tháp. Trước khi tịch Ngài có làm bài kệ như sau:
- Nguyên văn:
- Thân như điện ảnh hữu tòan vô.
- Vạn một xuân vinh thu tựu khô.
- Nhậm vận thịnh suy vô bổ úy.
- Thịnh suy nhưlộ thảo đầu phô.
- Dịch nghĩa: Thân như bông chớp
chiều tà.
- Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng
rời.
Sá chi suy thịnh việc đời.
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.
- 2.- Dưới đời
Lý Thái Tôn (1028-1054):
- a.-Tình hình
Phật Giáo dưới đời vua này:
- Lý Thái Tôn
nối ngôi Thái Tổ, lấy niên hiệu Thiên Thành. Ngài cũng là người
rất sùng mộ đạo Phật. Sau khi đánh dẹp giặc chiêm ở đất Hòang
Châu (nghệ An) về, Thái Tôn sắc lập 95 ngôi chùa cử lễ khánh
thành, hạ chiếu miễn thuế cho dân trong nước một năm. Ðến năm
1034, Thái Tôn đổi niên hiệu là Thông Thụy, lúc bấy giờ nước
Việt-Nam được nhà Tống ban Ðại tạng kinh và tự sai sứ thỉnh qua
nước ta. Hành động ấy gây một ảnh hưởng khả quan cho Phật Giáo
nước nhà, và một vinh dự cho triều đình nhà Lý lúc bấy giờ.
- Từ lúc nhận
lãnh Ðại tạng kinh của nhà Tống, vua Thái Tôn thường đến nghe
kinh và hỏi đạo với Ngài Thiền Lão thiền sư và tự xưng là đệ tử.
Về sau vua được Ngài Thiền Lão truyền tâm pháp là người thứ bảy
trong đời truyền thống của phái Vô Ngôn Thông.
- Dưới đời này
có nhiều vị cao tăng rất có công trong sự truyền bá chính pháp,
như ngài Huệ Linh thiền sư, Ðịnh Lương trưởng lão, Thiền Lão
thiền sư v.v.. .
- b.-Huệ Linh
thiền sư:
- Ngài họ Lâm,
tên tục là khu, quê ở Ðông phù liệt , nguyên là con cháu Lâm Phú
ở Trà Sơn (Hà Ðông bây giờ). Ngài có tướng mạo hôi ngô, ăn nói
lưu loát, từ nhỏ đã nổi tiếng văn hay chữ tốt. Những khi họ nho
còn thừa thời giờ, ngài lại nghiên cứu kinh Phật. Gần 70 tuổi
Ngài theo học đạo với Ngài Ðinh Huệ thiền-sư . từ đó sự tu học
của Ngài càng ngày càng tiến. Khi được sư phụ truyền tâm pháp
cho, Ngài mới đi hành hóa khắp chốn tùng lâm, rồi đến núi Bồ đề.
Mỗi lần Ngài ngồi nhầp định ít nhất cũng năm bảy ngày. Người đời
bấy giờ thường gọi Ngài là ông "Phật sống". Nhà vua cho người đi
thỉnh Ngài nhiều phen, Ngài mới chịu về triều. Sau khi đàm đạo
vua rất kính phục và phong Ngài làm chức Nội cung phụ tăng và
truyền sắc ở chùa Vạn Tuệ gần thành Thăng Long. Một hôm trong
đại nội có thuết việc chay đãi các tăng sĩ, vua hỏi:
- - Ðối với tâm
nguyện của Phật, các học giả thường cãi nhau. Trẫm muốn các bậc
thượng đức ở đây, bày tỏ chỗ sỡ đắc, để Trẫm được biết sự học
vấn của các Ngài như thế nào?
- Huệ Linh Thiền sư liền ứng khẩu
bài kệ sau đây:
- Nguyên văn:
- Pháp bổn như vô Pháp
Phi hữu diệc phi không
Nhược nhơn tri thử pháp
Chúng sinh giữ Phật đồng
Tịch tịch Lăng Già nguyệt
Không không độ hải châu
Tri không không giác hữu
Tam muội nhậm thông châu.
- Dịch nghĩa:
- Pháp vốn như không pháp
Chẳng có cũng chẳng không
Nếu hiểu được pháp ấy
Chúng sinh Phật vẫn đồng
Trăng Lăng Già phẳng lặng
Thuyền Bát Nhã chơn không
Biết không rồi biết có
Tam muội mặc dung thông.
- Nghe bài kệ ,
vua rất lấy làm mến phục. Thời ấy các vị vương công trong triều
và sĩ thứ nhiều người đến hỏi đạo lý và đều tôn Ngài là thầy.
- Sang đời
thánh Tôn, Ngài được phong làm Tạ Nhai Tăng đô thống đến năm Gia
Khánh thứ năm (1063) Ngài tịch. Ngài có soạn mấy cuốn: "pháp sự
trai nghi, đạo tràng khánh tân văn" nhưng đều thất truyền.
- c.-Thiền-lảo
thiền-sư:
- Ngài trụ trì
tại chùa Trùng-Minh huyện Tiên-du, đệ-tử của Ða Báo thiền-sư.
Sau khi học đã đắc đạo, Ngài về ngôi chùa vùng Từ-Sơn, danh
tiếng lừng lẩy, học trò đông đến nghìn người. Chổ ở của Ngài
thành Ðại-Tồng-Lâm.
- Trong khoảng
niên hiệu Thông-Thụy (1034-1038) vua Lý-Thái-Tôn nhơn một hôm
đến thăm và hỏi Ngài:
- Hòa Thượng tới ở chùa này bao
lâu?
- Vị thiền-sư đọc hai câu rằng:
- Nguyên văn:
- Ðản tri kim nhật nguyệt
Thùy thức cựu xuân thu
- Dịch nghĩa:
- Sống ngày nay biết ngày nay
Còn xuân thu trước, ai hay làm gì?
- Vua lại hỏi: Ngày thường
Hòa-Thượng thường làm việc gì?
- Ngài lại đọc:
- Nguyên văn:
- Túy trúc huỳnh hoa phi ngoại cảnh
Bạch vân Minh nguyệt lộ toàn chân
- Dịch nghĩa:
- Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác
Trăng trong, mây bạc hiện toàn chân.
- Sau khi về cung, vua định sai sứ
rước Ngài vào triều để thỉnh làm cố vấn. Sứ giả đến nơi thì Ngài
đã tịch rồi.
- 3.-Dưới đời Lý-Thánh-Tôn
(1054-1075)
- a).- Tình hình Phật Giáotrong đời
này:
- Thánh-Tôn lên
ngôi, đổi quốc hiệu là Ðại Việt và lấy niên hiệu là
Long-Thụy-Thái-Bình. Ngài là một ông vua rất sùng mộ Ðạo Phật.
Năm Long-Thụy thứ năm (1059), Ngài xuống sắc lịnh dựng chùa xây
tháp và đúc quả chuông trọng lượng 12.000 cân đồng, tại làng Bảo
Thiên thuộc tỉnh Hà Nội. Quả chuông ấy hiện nay vẫn còn.
- Trong thời
đại này, phái Thảo Ðường xuất hiện ở Việt-Nam, do Ngài
Thảo-Ðường, đệ tử Ngài Tuyết-Ðậu Minh-Giáp bên Tầu truyền sang.
Vua Lý-Thánh-Tôn thọ giáo với Ngài, sau được truyền trong pháp
làm đệ tử đầu tiên của Ngài Thảo-Ðường. Phái Thảo-Ðường tức là
phái Thiền-Tôn là phái thứ ba ở nước ta vậy.
- Lý-Thánh-Tôn
là một tăng-sĩ được quyền truyền tâm pháp thì chắc chắn Ðạo Phật
lúc bấy giờ rất được phát đạt và có ảnh hưởng lớn lao trong dân
chúng lắm.
- b.-Phái
Thảo-Ðường:
- Năm 1069 vua
Lý-Thánh-Tôn đi đánh chiên thành, bắt được vua Chiêm-Thành là
Chế-Củ và nhiều dân, quân về làm tù binh. Những tù binh này, vua
ban cho các quan trong triều làm hầu hạ. Trong số các quan trong
triều, có một vị Tăng-Lục. Một hôm, vị Tăng ấy đi vắng, về bổng
thấy "Ngữ lục" của mình bị một tù nhân sửa chữa lại cả. Vị Tăng
Lục thất kinh, đem về tâu với vua. Vua cho đòi tên tù nhân ấy
hỏi, thì y ứng đối rất thông suốt, luận về kinh Phật rất sáng
đáng. Hỏi ra mới biết đó là một vị Thiền-sư người Trung Hoa,
theo thầy qua Chiêm-Thành, rồi bị bắt làm tù binh. Vị Thiền-sư
ấy tức là Ngài Thảo-Ðường.
- 3.- Dưới đời
Lý-Nhân-Tôn (1072-1127).
- a)- Tình hình
Phật Giáo trong thời kỳ này:
- Lý-Nhân-Tôn,
mặc dù khi lên ngôi Lý-Nhân-Tôn tuổi còn nhỏ mà rất thông minh,
anh dủng. Ngài rất hâm mộ Phật Giáo, cho nên ngoài công việc
triều chánh ra, Ngài còn để tâm lo truyền bá Phật-pháp. Ngài có
đặt một vị quan cao cấp trong nom hết thảy các chùa trong nước.
Ngài lại phong cho Khô Ðầu thiền-sư làm quốc sư để cố vấn việc
quốc chính, nhưng Ngài Khuong-Việt, dưới đời Ðinh và Tiền-Lê.
- Song song với
công việc chấn hưng Phật-pháp của vua, bà Hoàng-Hậu cũng là một
tính nữ đắc lực, đã xuất của riêng ra lập hơn trăm ngôi chùa
trong nước.
- Trong đời nầy, lại có nhiều bậc
thiền-sư lỗii lạc, trước thuật những sách vỡ làm vẽ vang cho
lịch sử Phật Giáo nước nhà như Ngài Viên-Chiếu Thiền-sư, Ngộ-Ấn
thiền-sư ...
- b.-
Viên-Chiếu Thiền-sư:
- Ngài họ Mai,
tên húy là trực, quê ở huyện Long-Ðàm, con anh bà Linh-Cảm Thái
Hậu (Vợ vua Thái-Tôn). Ngài thông minh từ thủa nhỏ. Mặc dù con
nhà quyền quý, Ngài từ giã gia đình, vào chùa Tiêu-Sơn, xin làm
đệ tử Ngài Ðịnh-Hương Thiền-sư, nghiên cứu thiền học. Ngài rất
am hiểu pháp "Tam quán " trong kinh Viên-Giác, tu đến đắc đạo và
được sư phụ truyền tâm ân.
- Sau Ngài về
Thăng Long, dựng một ngôi chùa ở mé tả kinh thành và trụ trì tại
đó. Người bbốn phương nghe tiếng xin theo học rất đông.
- Ngài có soạn
quyển:"Dược sư thập nhị văn", trong ấy bàn giãi về 12 điều đại
nguyện trong kinh dược sư. Vua Lý-Nhân-Tôn có đưa bản sách ấy
cho các sứ thần sang Tầu dâng vua Triết-Tôn nhà Tống. Vua Tống
giao sách ấy cho các vị thượng tọa ở chùa Tướng Quốc xem và có
chổ nào đáng sữa thì sữa lại. Các đại sư Tầu xem rồi vá tâu với
vua Tống rằng: "Ðây là đấng hóa thân đại sĩ ra đời ở phương Nam,
giảng giãi kinh nghĩa rất tinh vi, bọn phàm tăng chúng tôi đâu
dám thêm bớt một chữ nào nữa !".
- Vua Tống săc
cho sao lại một bản, còn bản chính thì trả lại cho vua tăng-sĩ
với nhiều khen tặng. Ngài Viên-Chiếu tịch năm Quãng-Hựu thứ sáu
(1090) thọ 92 tuổi.
- Sau đây là
bài thơ của Ngài còn truyền lại:
- Nguyên văn:
- Giốc hưởng tùy phong xuyên trúc
đáo
Sơn nham đáo nguyệt quá tường lai
Vũ trích nham hoa thần nữ lệ
Phong xao đính trúc Bá nha cầm.
- Dịch nghĩa:
- Theo gió tiếng còi luồng bại trúc
Kèm trăng trái núi quá đầu tường
Hoa núi mưa xa thần nữ khóc
Tre xanh gió thổi Bá-Nha đàn.
- 5.- Dưới đời Lý-Thần-Tôn
(1128-1138).
- Lý-Nhân-Tôn
không có con, lập con của hoàng đệ là Súng-Hiền-Hầu lên làm Thái
Tử, sau lên ngôi tức là Thần-Tôn. Năm Thiên Chương Bảo Tự thứ tư
(1136) vua mắc bệnh nặng, nhờ có Minh-Không Thiền-sư chữa khỏi,
nên vua phong cho thiền-sư làm quốc sư và sắc lập chùa Linh-Cảm.
- Trong đời này
củng có nhiều vị danh tăng như Minh-Không-Huyền Sư, Thông-Biện
Thiền-sư, Bảo-Gíam Thiền-sư và đặc biệt có một sư ni, con gái
một vị hoàng thân, tức là bà Diệu-Nhân. Vị sư ni này thọ giới
với Chân-Không Thiền-sư, và là vị ni đầu tiên trong phái
Tỳ-Ni-Ða-Lưu-Chi. Ngoài ra, trong thời này cũng có nhiều vị cao
tăng trong phái Vô-Ngôn-Thông, Thảo-Ðường mở đạo tràng dạy đệ tử
hoặc đi hành hóa, dùng pháp thuật cứu giúp kẽ bệnh tật rất
nhiều.
- 6.- Dưới đời
các vị vua cuối đời nhà Lý: Lý-Anh-Tôn (1138-1175), Lý-Cao-Tôn
(1176-1210), Lý-Huệ-Tôn (1211-1225).
- a).-
Lý-Anh-Tôn và thời đại này:
- Thần Tôn mất,
thái tử Thiên-Tộ lên làm vua lấy đế hiệu là Anh-Tôn. Anh-Tôn là
đệ tử của Thiền-sư (phái Thảo-Ðường) và được truyền tâm pháp,
tức là vị đệ tử thứ tư nối truyền thống của phái Thảo-Ðường.
- Những vị
Thiền-sư có tiếng trong đời này là: Trí-Thuyền,Am-Trí, Bảo-Giám,
Viên-Thông Thiền-sư. Ngài Viên-Thông Thiền-sư được phong làm
quốc sư vào năm 1143, tịch năm 1151, thọ 72 tuổi. Ngài có trước
tác những bộ sách hiện còn lưu lại:
- - Chư Phật
tích dư sự (30 chương).
- - Hồng chung
văn bi ký Tăng già tạp lục (50 chương).
- - 1000 bài
thơ
- b.-Lý Cao Tôn
và thời đại này:
- Anh-Tôn mất,
Thái tử Long-Cán nối ngôi, hiệu là Cao-Tôn. Cao-Tôn lên ngôi mới
ba tuổi, công việc trong triều giao trong tay quan phụ chánh
Hồ-Hiến-Hành. Cao-Tôn lớn lên thụ giáo với Ngài Trương-Tam-Tạng
Thiền-sư trong phái Thảo-Ðường.
- Trong đời
này, tuy vua chúa, các bà cung phi và triều đình (như thái úy
Tô-Hiến-Thành, thái bảo Ngô-Hòa-Nghĩa) đều sụng mộ Ðạo Phật,
nhưng sự phát-triển không có gì đặc sắc đáng kể. Vận nước đang
xuống, và Phật Giáo củng xuôi theo đà.
- c) Lý-Huệ-Tôn
với thời đại này:- Thái tử Sam nối ngôi Cao-Tôn, tức là Huệ-Tôn.
Nhà Lý đến giai đoạn này, đã suy lắm. Trong triều thì nổi loạn,
vua không có thực quyền, ngoài dân gian cũng không được yên ổn.
Do đó, Phật Giáo cũng bị ảnh hưởng theo.
- Năm 1224, Huệ-Tôn chán ngán cái
đời làm vua, truyền ngôi cho con gái mới 7 tuổi là công chúa
Phật-Kim, tức Lý-Chiêu-Hòa, rồi xuất gia ở chùa Chân-giáo, tự
xưng là Huệ-Quang Ðại-Sư.
-
Lý-Chiêu-Hoàng truyền ngôi cho chồng là Trần-Cảnh. Nhà Lý chấm
dứt từ đấy !.
- 7.- Nhận xét
chung về Phật Giáo đời nhà Lý.
- Nếu ở Trung
Hoa, đời Ðường là đời Phật Giáo thịnh hành nhất, thì ở Việt-Nam
đời Lý là đời Phật Giáo được thịnh hành nhất.
- Trong hơn hai
trăm năm, Ðạo Phật giữ địa vị độc tôn về mọi phương diện: Ðạo
đức, văn học, chánh trị, ngoại giao. Tám đời vua nhà Lý đều sùng
một Ðạo Phật và có nhiều vị đã xuất gia đắc đạo. Các vị Tăng
trong đời vua ấy là những cao Tăng, Ðại đức, thông thái và giữ
nhiều địa vị quan trọng trong triều đình. Không những thế, các
Ngài còn là những là thi sĩ lỗi lạc, những nhà ngoại giao tài
tình và những nhà mô phạm uyên bác. Các Ngài đã tận tụy đem cái
sơ học, sở đắc của mình nhập thế cứu đời, gây uy tín rất lớn cho
Ðạo Phật. Chính các Ngài đã gián tiếp cải chính một cách hùng
hồn bằng những hành động của mình rằng: Ðạo Phật không phải là
yêm thế, nhu nhược mà chính là tích cực, dỗng mểnh cứu đời và đã
góp công rất lớn trong công cuộc dựng nước và an dân. Ðọc lịch
sử Phật Giáo nước nhà đến đọan này, chúng tăng-sĩ thật vô cùng
phấn khởi và càng thêm tin tưởng vào sứ mệnh cứu đời của Phật
Giáo.
--o0o--
|
|