-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- PHẬT HỌC PHỒ THÔNG KHÓA VI
- TRIẾT LÝ
ĐẠO PHẬT
hay là
ĐẠI
CƯƠNG KINH LĂNG NGHIÊM
- BÀI THỨ NĂM
- I.- A-NAN NGHI: NẾU CÁI
"THẤY" LÀ MÌNH THÌ THÂN TÂM NÀY LÀ AI?[^]
-
- A-Nan thưa
Phật: -Bạch thế tôn! Nếu cái "thấy" này thật là "tâm" con,
thìthân tâm của con hiện nay đây là ai? Và nếu cái "thấy" thật
của con, thì nó phải hiện ở trước, khiến cho con thấy được nó.
- Lại nữa, thân
tâm, của con hiện nay đây, biết phân biệt được nó ( cái thấy ) ,
còn nó không biêts phân biệt được thân tâm con. Xin đức Thế Tôn
mở lòng đại bi chỉ dạy cho kẻ chưa ngộ này.
-
II.-CÁI THẤY (TÂM) RỜI TẤT CẢ HÌNH
TƯỚNG[^]
- Phật dạy
A-Nan: Ông nói"cái thấy phải ở trước mặt để ông thấy nó", nói
như vậy không phải, vì nếu cái "thấy" thật ở trước mặt ông, ông
thấy được nó, thì cái "thấy" đó ở chỗ nào phải có nhất định và
phải chỉ ra được .
- Nay ông ngồi
trong rừng Kỳ đà, xem các cảnh vật, đưa tay chỉ ra từng món: chỗ
im mát kia là rừng cây, cái sáng chiếu nọlà mặt nhựt, nơi ngăn
ngại này là vách, chỗ trống đó là hư không; cho đến cỏ cây hoa
lá, các vật lớn nhỏ tuy khác, song đều có hình tướng, có thẻ chỉ
ra được cả. Còn cái "thấy" nếu có ở trước mặt ông, thì ông nên
lấy tay chỉ chắc chắn, cái nào là cái "thấy". Nếu hư không là
cái "thấy" thì cá gì là hư không? còn nếu cảnh vật là cái
"thấy", thì cái gì là cảnh vật? Đối với các cảnh vật sum la vạn
tượng, ông nên chín chắn phân tích rõ ràng, rồi chỉ cho ta xem,
cái nào là cái "thấy"cũng như chỉ các vật, không có lầm lộn.
- A-Nan thưa:
Bạch Thế Tôn! Con mỡ tầm con mắt và đưa tay chỉ khắp tất cả, thì
đều là "vật" chớ không có cái nào là "thấy". Dù cho bực Bồ tát
cũng không thể phân tíchở nơi muôn vậtđể chỉ riêng cái "thấy" ra
được; huống chi chúng con là bậc sơ học thinh văn, làm sao chỉ
được .
- Phật dạy:
Phải lắm!
- LƯỢC GIẢI
- Tâm không
phải cái hình tướng, củng như vàng không phải là vòng, kiềng,
xoa, xuyến v.v ...
-
III. CÁI THẤY (TÂM) TỨC TẤT CẢ
PHÁP [^]
- Phật dạy
rằng: Này A-Nan ! Như lời ông nói: "trong ccác cảnh vật, không
thể chỉiêng cái "thấy" ra được "; vậy nay ông đứng trước cảnh
vật chỉ lại coi, cái nào không phải là cái "thấy"?
- A-Nan thưa:
Con hiện đang xem tất cả các cảnh vật, không biết cái nào không
phải cái "thấy". Nếu rừng cây kia không phải cái "thấy", thờ làm
sao thấy được rừng cây. Còn rừng cây là cái "thấy", thì sao gọi
là rừng cây. Lại nữa, hư không nếu không phải là cái "thấy", thì
làm sao thấy được hư không . còn nếu hư không tức là cái "thấy",
thì sao lại gọi là hư không. Con chín chắn suy nghĩ: cái nào
cũng là cái "thấy" cả.
- Phật dạy:
phải lắm!
- Khi đó đại
chúng nghe lời Phật nói như vậy, tất cả đều hoang mang lo sợ, vì
không biết nghĩa ấy thế nào.
- LƯỢC GIẢI
- Tâm đã sanh
ra các pháp , thì pháp nào cũng là tâm cả:
- Cũng như vàng
đã làm ra các đồ trang sức thì món nào cũng là vàng cả.
- *
-
IV. PHẬT TRẤN TĨNH ĐẠI CHÚNG[^]
- Phật dạy
A-Nan và đại chúng hoang mang, sợ hãi, nên sanh tâm thương xót,
liền an ủi A-Nan và đại chúng rằng:
- Như-Lai nói
chơn thật, chẳng dối trá, không phải như chúng ngoại đạo
Mạc-già-lê, nói năng rối loạn không nhất định đâu. Các ông nên
bình tĩnh và chín chắn suy xét lại, chớ để cho Như Lai thêm lòng
thương xót.
-
V.- NGÀI VĂN THÙ ĐÚNG LÊN THƯA HỎI[^]
- Khi ấy Ngài
Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương tử thương cả bốn chúng, nên đứng dậy
lạy Phật , cung kính chắp tay và thưa rằng:
- - Bạch Thế
Tôn! Trong đại chúng đay chưa hiểu cái nghĩa: các cảnh vật là
cái "thấy" hay không phải cái "thấy"?
- Bạch Thế Tôn
!các cảnh vật hiện tiền đây, nếu là cái "thấy", thì phải chỉ ra
được; còn nếu không phải cái "thấy", thì đáng lẽ không thể thấy
được. Vì trong đại chúng không hiểu nghĩa này thế nào, cho nên
mới sợ hãi, hoang mang. Cúi xin đức Như Lai duỗi lòng từ bi chỉ
dạy cho biết: Các cảnh vật hiện tiền đây, cùng với cái "thấy"
này, nguyên là gì? Trong đây không có cái "phải" và cái "không
phải".
- LƯỢC GIẢI
- Đoạn này lý
thâm, nên ngài Văn -Thù mới đứng lên thưa hỏi: người học phải
suy xét nhiều mới hiểu được.
- Nói cảnh vật
và cái thấy, tức là chỉ cả vật chất với tinh thần đồng một thể
tánh chơn tâm. Vì chơn tâm thì không thể suy nghĩ và bàn luận
được, phải tự ngộ mà thôi, nên nói, "nghuyên nó là cái gì?" (vì
không thể nói ra được). Bởi nó rời đối đãi thị phi, nên nói
"trong đó không có cái phải và cái không phải".
- *
-
VI.- PHẬP DẠY: CÁI "THẤY" KHÔNG CÓ
"PHẢI" VÀ "KHÔNG PHẢI" (THỊ, PHI THỊ)[^]
- Phật kêu ngài
Văn -Thù và Đại chúng, dạy rằng:
- - Mười phương
các đức Phật và các vị Đại Bồ tát an trụ trong chơn tâm rồi,
thời không còn thấy thật có các cảnh vật là căn, trần, thức nữa.
Cái thấy cùng với cảnh vật bị thấy, nguyên là "chơn tâm". Đã là
chơn tâm, thì đâu còn có "phải" hay "không phải" nữa. Như ông là
Văn Thù, vậy có thể nói ông là "thật" Văn Thù hay "không thật"
Văn Thù được không?
- Văn -Thù
thưa: -Bạch Thế Tôn ! chính như thế đó, con là Văn -Thù rồi, thì
không thể nói "thật Văn -Thù" được; vì nếu nói "thật Văn -Thù",
thì phải nói ông Văn -Thù giả (thứ hai). Song con nay đã là
vtSong con nay đã là Văn -Thù rồi, thì không thể nói "thật" hay
"không thật" được.
- LƯỢC GIẢI
- Chơn tâm
không hai, nên không còn thị và phi đối đãi; không thể nói
"quấy" đã đành, mà nói "phải" cũng không trúng. Bởi vì nó ngoài
vòng đối đãi, cũng như ông Văn -Thù là Văn -Thù, không thể
nói:"thật" hay "không thật" được .
- Phật dạy: cái
thấy cùng với cảnh vật bị thấy cũng lại như vậy, đều là thể tánh
chơn tâm, vì vọng động mà có ra: thấy nghe và các cảnh vật. Nó
cũng như mặt trăng thứ hai, đâu có gì mà nói "phải" hay "không
phải". Nghĩa là chỉ có một mặt trăng chánh, (chơn tâm) trong đó
không có cái "phải" mặt trăng hay "không phải" mặt trăng.
- Nay ông thấy
có cái "thấy" và "cảnh vật bị thấy" đó là vọng tưởng; còn đối
với thể tánh chơn tâm, thì không còn nói phải hay không phải
được. Bởi thế nên chơn tâm nói ra ngoài cái phạm vi "chỉ bày" và
"không chỉ bày" cảu ông rồi.
- LƯỢC GIẢI
- Suy nghĩ
không tơi nói năng không nhấm. Đại ý đoạn này nói: chỉ có một
chơn tâm, không thể nói phải hay không phải, nó vượt ra ngoài sự
đối đãi và nói năng phân biệt.
- Vì vọng động
mà sanh ra các vật chất (cảnh) và tinh thần (tâm). Cũng như chỉ
có một mặt trăng chánh, không thể nói phải mặt trăng hay không
phải mặt trăng; vì lòa mà thấy in tuồng có mặt trăng thứ hai.
- *
-
VII.- A-NAN NGHI "CHƠN TÂM" ĐỔNG
VỚI THUYẾT "TỰ NHIÊN" CỦA NGOẠI ĐAO.[^]
- A-Nan thưa:
-Bạch Thế Tôn ! ngày trước Phật ở tại núi Lăng Già, có dạy cho
ông Đại Huệ Bồ Tát v.v...rằng: "các chúng ngoài đạo kia thường
chủ trương thuyết "tự nhiên sanh", còn ta thời nói "các pháp do
nhơn duyên sanh", nên không đồng vơd thuyết của các ngoại đạo
kia".
- Hôm nay nghe
lời Phật dạy, thì con hiểu cái "chơn tâm" này in như tự nhiên mà
có; chớ không phải "nhơn duyên sanh", vì nó rời tất cả các vọng
tưởng điên đảo, không sanh, không diệt. Cúi xin Phật từ bi chỉ
dạy cho con ngộ được chơn tâm thường trụ này, mà không lạc vào
thuyết "tự nhiên" của các tà đạo.
- LƯỢC GIẢI
- Cái chơn tâm
này, nó tuyệt đối đãi, ngoài thị và phi. Nếu còn chấp có, không
, thị và phi, nhơn duyên hay tự nhiên v.v...Đều không trúng cả.
Song chúng sanh vì cái mê chấp nhiều đời, cũng như cây chuối
nhiều bẹ, lột hết bẹ này, thì nó bày ra bẹ khác. Phật vừa bác
xong thị và phi, thì ông A-Nan liền chấp nhơn duyên và tự nhiên
v.v...than ôi! Lưới mê nhiều đời chồng chập, thật khó trong một
lúc vẫy vùng ra khỏi!
-
VIII.- PHẬT BÁC CÁI CHẤP "TÂM TỰ
NHIÊN MÀ CÓ"[^]
- Phật dạy
rằng: Ta đã dùng nhiều phương tiện và thành thật chỉ dạy cho
tường tất như thế, mà ông cũng chưa hiểu ngộ, lại còn mê muội
chấp là tự nhiên nữa.
- A-Nan nếu
thật tự nhiên, thì ông phải chỉ rõ cái "thấy" này, lấy gì làm
cái thể tự nhiên của nó? Lấy cái "sáng" làm tự nhiên hay lấy cái
"tối"làm thự nhiên? Lấy cái "trống không " làm tự nhiên hay lấy
cái "ngăn bít" v.v...làm tự nhiên?
- A-Nan, nếu
lấy cái "sáng" cho là tự nhiên cái thể của nó như vậy, thì khi
tối lại, đáng lẽ ông không thấy được tối. Cho đến lấy cái "tối"
v.v...làm thể tự nhiên của nó, thì khi sáng đến, cái thấy của
ông phải mất, làm sao thấy được cái sáng v.v...
-
IX.- A-NAN LẠI NGHI TÂM DO "NHƠN
DUYÊN SANH"[^]
- A-Nan thưa: Bạch Thế Tôn, cái
thấy này nếu không phải tự nhiên mà có, thì chắc do nhơn duyên
sanh. Con hiểu như vậy chẳng biết có phải không? xin đức Thế Tôn
từ bi chỉ dạy.
-
X.- PHẬT BÁC CÁI CHẤP "NHƠN DUYÊN
SANH"
- Phật bác
rằng: Ông nói "nhơn duyên sanh". Vậy nay ta hỏi ông: Cái thấy
này là nhơn duyên cái sáng mà có, hay nhơn duyên cái tối mà có?
Nhơn duyên cái trống không mà có, hay nhơn duyên cái ngăn bít
v.v...mà có?
- A-Nan, nếu
nhơn duyên cái sáng mà có, thì khi tối đến, ông phải không thấy
được cái tối; còn nhơn duyên cái tối, cái trống, cái bít
v.v...cũng vậy.
-
XI.- PHẬT DẠY: CHƠN TÂM KHÔNG THỂ
SUY NGHĨ VÀ LUẬN BÀN ĐƯỢC.[^]
- Phật dạy:
A-Nan! Oâng phải biết: Cái thấy (tâm) này không phải "nhơn",
không phải "duyên", không phải "tự nhiên", và cũng không phỉa
"không tự nhiên", không cái "phi", không cái "bất phi", không
cái "thị", không cái "phi thị", nó rời tất cả tướng, mã chính là
tất cả pháp. Như thế thời ông làm sao để tâm suy nghĩ cho tới,
dùng lời nói luận bàn cho kịp và gọi nó bằng thứ gì được. (ly
ngôn thuyết tướng, ly tâm duyên tướng, ly danh tự tướng).
- Nếu ông để
tâm suy nghĩ và dùng lời nói luận bàn, thì cũng như người quơ
tay chụp bắt hư không; chỉ thên mệt nhọc, chớ làm sao mà chụp
bắt hư không cho được.
- LƯỢC GIẢI
- Đến chỗ cao
siêu tuyệt diệu, thì không còn suy nghĩ, luận bàn được; nếu còn
suy nghĩ luận band được thì không phải là cao siêu tuyệt diệu.
- Bởi thế nên
Đức Thích Ca đóng cửa thất tại nước Ma-Kiệt, ông Duy-Ma-Cật ngậm
miệng tại thành Tỳ-Da, tổ Đạt-Ma ngồi tại chùa Thiếu Lâm, day
mặt vô vách chín năm, không nói một lời, đều vì cái lý cao siêu,
không thể luận bàn được.
- *
-
XII.- A-NAN TRỞ LẠI NGHI "NHƠN
DUYÊN SANH"[^]
- A-Nan thưa
Phật: Bạch Thế Tôn! Cái "thấy" này nếu không phải "nhơn" không
phải "duyên", tại sao đức Thế Tôn thường cùng với các thầy
Tỳ-kheo nói: "cái thấy phải đủ bốn duyên mới sanh"; như nhơn hư
không, ánh sáng, tâm và con mắt mới sanh. Vậy nghĩa này thế nào?
- Phật dạy
rằng: Này A-Nan, ta nói thuyết nhơn duyên, là đứng về phần sự
tướng (hiện tượng), chỉ các pháp trong thế gian mà nói, chớ
không phải chỉ cho lý tánh tuyệt đối (bản thể) vậy.
- LƯỢC GIẢI
- Về phương
diện pháp tướng (mượn danh từ triết học nói cho dễ hiểu, gọi là
phần hiện tượng) nói về "thức", thì Phật nói có căn, trần, thức
và nhơn duyên v.v...Còn đứng về phương diện pháp tánh (mượn danh
từ triết học nói cho dễ hiểu, gọi là phần bản thể) thì không còn
danh tướng, nói năng khiếu gọi hay suy nghĩ được.
- Bởi thế nên
trong kinh, Phật nói: "Đạo ta cao siêu không thể suy nghĩ và
luận bàn được". Kinh này là nói về phần lý tánh tuyệt đối.
- *
-
XIII.- PHẬT GẠN HỎI LẠI CÁI "THẤY"
ĐỄ CHÆ RÕ CHƠN TÂM
[^]
- Phật hỏi: Này
A-Nan ! bậy giờ ta hỏi ông: người đời thường nói "tôi thấy". Vậy
thế nào là "thấy" và thế nào là không "thấy"?
- A-Nan thưa:
Người đời nhơn có ánh sáng mới thấy được cái vật, thì gọi là
"thấy"; còn không có ánh sáng, chẳng thấy các vật, thì bảo rằng
"không thấy"
- Phật dạy: Nếu
không có ánh sáng mà bảo là không thấy, thì khi tối đến đáng lẽ
ông cũng không thấy được cái "tối"? Còn như ông thấy được cái
"tối", thì khi đó chẳng qua không có ánh sáng mà thôi, chớ sao
lại nói "không thấy"?
- Lại nữa, nếu
khi tối ông không thấy được cái "sáng", mà ông cho cho là thấy,
thì khi sáng ông không thấy được cái "tối", đáng lẽ cũng phải
bảo là không thấy mới phải. Như vậy,thời "tối" vá "sáng" cả hai
đều phải bảo là "không thấy" hết.
- Bởi thế, ông
nên biết: "tối" và "sáng" hai món trần tướng nó tự thay đổi vơi
nhau, còn cái "thấy" của ông lúc nào cũng có. Vậy thì thấy "tối"
và "sáng" đều gọi là thấy cả, tại sao khi thấy tối, ông nói
"không thấy"?
-
XIV.- PHẬT CHÆ THẤY CÁI KHÔNG PHẢI
VỌNG, SONG CHƯA PHẢI LÀ CHƠN TÂM
[^]
- (Đoạn này
nguyên ở trước, ay djch giả đem lại đây cho thuận nghĩa).
- Phật dạy A-Nan rằng: -Cái "thấy"
của ông đó, hông phải là vọng, song chưa phải là "chơn tâm". Nó
cũng như mặt trăng thứ hai (do lòa con mắt mà có) tuy không phải
bóng mặt trăng dưới nước, nhưng chưa phải là mặt trăng chánh.
- LƯỢC GIẢI
- Mặt trăng
chánh là dụ cho chơn tâm, mặt trăng thứ hai là dụ cho cái thấy,
nghe v.v...các giác quan về phần trực giác. Bóng mặt trăng là dụ
cho vọng tưởng phân biệt.
- Đại ý đọa này
nói cá "thấy" không phải vọng tâm, nhưng cũng chưa phải là chơn
tâm, nghãi là nó gần với chơn tâm mà thôi. Cũng như mặt trăng
thứ hai do lòa con mắt mà có; nó không phải bóng mặt trăng dưới
nước,nhưng cũng chưa phải là mặt trăng chánh.
- *
- Phật dạy:
A-Nan, ông phải biết: Khi ông thấy sáng, thì cái "thấy" của ông
không phải là cái "sáng"; khi ông thấy tối, cái "thấy" của ông
không phả là cái "tối"; khi ông thấy trống không, cái thấy của
ông không phải là cái "trống không"; khi ông thấy ngăn bít cái
"thấy" của ông không phải là cái "ngăn bít".
- LƯỢC GIẢI
- Nói cái
"thấy" chớ kỳ thực là chỉ chung cho cả cái "nghe, hay, biết".
Nói "sáng, tối,trống, bít" là chỉ chung cho các cảnh vật.
- Đại ý bài này
nó: Khi thấy các cảnh vật, thì cái "thấy" không phải là cảnh
vật.
- *
-
XV.-PHẬT CHỈ CHƠN TÂM LẦN THỨ SÁU.
[^]
- Phật dạy:-
Ông đã hiểu rõ bốn nghĩa này rồi; ông nên hiẻu thêm lên một từng
nữa: Khi "chơn tâm đã khởi ra cái "thấy" (cái giác quan ), thì
cái "thấy" không phải là "chơn tâm"; cái "thấy" còn cách biệt
với chơn tâm, (vì còn một lớp mê), cái "thấy" không thể bì kịp
với "Chơn tâm "" (đoạn này Phật mới chỉ chính xác cái chơn tâm)
- LƯỢC GIẢI
- Mượn danh từ
triết học nói cho dễ hiểu: khi bản thể (tâm) khởi ra hiện tượng
( các giác quan) thì hiện tượng không phải là bản thể, hiện
tượng còn cách biệt với bản thể, hiện tượng không thể bì kịp bản
thể. Cũng như khi nước đã biến thành sóng, thì sóng không phải
hoàn toàn là nước, sóng còn xa biệt với nước ( vì bị gió xao
động), sóng không thể bì kịp nước.
- Đành rằng
"tâm" cùng với cái "thấy" v.v...không hai, nhưng vì mê nên tâm
biến ra các giác quan thấy nghe hay biết. Lúc bấy giờ cái thấy
nghe ay biết, không phải là chơn tâm. Ngộ rồi thì cái thấy nghe
hay biết mới gọi là "chơn tâm". Song khi chưa ngộ thì không thể
nói cái thấy, nghe v.v...Các giác quan là chơn tâm được.
- Cũng như nước
với sóng không khác, nhưng vì gió động nên nước biến thành sóng;
lúc bấy giờ sóng không phải là nước, nươc cách biệt với sóng.
Đến khi hết gió xao động thì sóng trở lại thành nước. Nhưng khi
còn động thì không thể nói sóng đó là nước. * Như thế thời ông
làm sao lại nói là "nhơn duyên, tự nhiên, hòa hợp, và phi hòa
hợp"được . các ông là hàng Thinh văn, trí thức hẹp hòi, không
thông hiểu được thập tướng (chơn tâm). Ta đã chỉ dạy nhiều lần
rồi, vậy các ông nên khôn khéo suy nghĩ và cố gắng tiến lên tu
hành, cớ nên giải đãi trên con đường bồ đề.
--o0o--
|
|