-
-
|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
-
Mục Lục Khóa Thứ
bảy
-
Triết Lý Ðạo
Phật hay là
Ðại Cương Kinh Lăng Nghiêm
-
(tiếp theo)
-
--- o0o ---
-
- Bài Thứ
Bảy
-
-
Mục Lục
-
I. Phật dạy trì chú Lăng Nghiêm
-
II. A Nan cầu Phật nói lại thần chú
-
III. Phật phóng hào quang
nói thần chú
-
IV.
Công năng của thần chú
-
V. Các vị thiên thần phát nguyện bảo
hộ người trì chú
-
VI. Ông A Nan hỏi Phật tu hành phải
trải qua bao nhiêu địa vị mới được thành Phật
-
VII. Phật dạy ba món tiệm thứ
-
VIII. Hành giả phải trải qua 55 địa vị
mới đến qua Phật
-
IX. 50 món ma chướng (ngũ ấm ma)
-
X. Mười món ma về sắc ấm
-
XI.
Phật dạy trì chú Lăng Nghiêm
- - A Nan, người
tu hành phải gìn giữ bốn điều luật nghi cần yếu: dâm, sát, đạo,
vọng cho trong sạch, cũng như băng tuyết, nơi tâm không khởi vọng
niệm duyên theo ngoại cảnh, thì chúng ma kia không làm sao sanh
được (vì trong tâm vọng động, nên ngoại ma mới ứng)
- Nếu người nào
nghiệp chướng nặng nề, không thể trừ được, ông nên dạy họ chí tâm
trì chú Lăng nghiêm này, thì các nghiệp chướng đều tiêu diệt.
Bằng chứng là ông cùng với nàng Ma Ðăng Già, tình ân ái chồng vợ
đã khắn khít với nhau từ nhiều kiếp, đâu phải mới một đời này; nhờ
thần chú Lăng Nghiêm mà nàng Ma Ðăng Già nguồn tình khô cạn và
được thành A La Hán.
- Ma Ðăng Già là
kẻ dâm nữ, không có tâm tu hành còn được quả thánh, huống chi các
ông là bực Thinh Văn, có chí cầu đạo vô thượng, lại trì tụng chú
này, thì quyết định thành Phật rất dễ, cũng như thuận gió tung
bụi, chẳng có khó gì.
-
LƯỢC GIẢI
- Trong đoạn kinh
này Phật dạy phương pháp tu hành để thành Phật, tóm lại có ba
điều:
- 1.
Bất tùy phân biệt: Nghĩa là, khi đối cảnh không khởi vọng
tâm phân biệt, thì tham, sân, si chẳng sanh. Tham, sân, si không
sanh thì các nghiệp sát, đạo, dâm chẳng tạo. Nghiệp nhơn không
tạo thì quả báo chẳng có. Nói tóm lại là “xoay các tri giác trở
về chơn tâm”, không duyên theo trần cảnh thì vọng niệm không sanh;
vọng không sanh thì chơn tâm hiện bày.
- Tổ sư có dạy:
“Kiến sắc phi càn sắc, văn thinh bất thị thinh”; nghĩa là thấy sắc
không can hệ gì đến sắc, nghe tiếng cũng không dính líu gì đến
tiếng. Hay như câu: “Ngộ thinh ngộ sắc như thạch thượng tài hoa,
kiến lợi kiến danh như nhãn trung trước tiết”: Gặp sắc đẹp hay
nghe tiếng hay, như hoa trồng trên đá (không dính líu gì); thấy
tài lợi và danh vọng như bụi rớt trong con mắt. Nếu người đến
trình độ này rồi, thì dầu vào thanh lâu hay tửu điếm cũng đều là
đạo tràng thanh tịnh (dâm phòng tửu tứ vô phi thanh tịnh đạo
tràng).
- 2.
Trì giới: Phải giữ gìn giới luật, trong tâm ngoài thân đều
thanh tịnh như băng tuyết.
- 3.
Trì chú Lăng Nghiêm: Nếu người nào nghiệp chướng nặng nề,
thì phải trì tụng chú Lăng Nghiêm sẽ mau đặng thành đạo quả.
Trong ba pháp tu này, bực thượng căn, trung căn và hạ căn đều tu
được cả. Thật là lòng từ bi của Phật vô lượng, mưa pháp khắp
trùm, cỏ cây lớn nhỏ đều được thấm nhuần.
- *
-
II. A Nan cầu
Phật nói lại thần chú
- Ông A Nan đứng
dậy đảnh lễ Phật và kính cẩn bạch rằng: “Con từ khi xuất gia đến
nay, vì ỷ lại lòng thương yêu của Phật, chỉ lo học rộng nghe
nhiều, chẳng c huyên tu tập, nên chẳng chứng được đạo quả, thành
thử phải bị tà thuật của Phạm Thiên bắt; trong tâm con tuy thông
suốt mà năng lực không được tự do, nên con phải nhờ Ngài Văn Thù
đến cứu độ. Con tuy nhờ thần chú Lăng Nghiêm của Phật mới được
giải thoát, nhưng chính con chưa được nghe, cúi xin đức Thế Tôn từ
bi nói lại, khiến cho những người tu hành hiện tại và chúng sanh
luân hồi đời sau, nhờ thần chú này mà thân tâm được giải thoát”.
-
III.
Phật phóng hào quang nói thần chú
- Khi đó từ nơi
nhục kế (đảnh) của Phật, phóng ra hào quang trăm báu; trong hào
quan xuất hiện ra hoa sen báu ngàn cánh. Trong hoa sen có đức Hóa
Phật ngồi, trên đảnh Ngài phóng ra mười đạo hào quang sáng suốt
trăm báu. Trong mỗi đạo hào quang đều có thị hiện vô số thần kim
cang: vị bưng núi, vị cầm bảo tử v.v... đứng khắp cả hư không.
Ðại chúng trông thấy vừa mừng vừa sợ, đều cầu Phật thương xót chở
che và nhứt tâm chờ nghe Phật nói thần chú.
- Phật nói thần chú:
- (ÐỆ NHỨT)
- Nam mô tát đát
tha tô già đa da a la ha đế tam miệu tam bồ đà tỏa. Tát đát tha
Phật đà cu tri sắc ni sam. Nam mô tát bà bột đà bột địa, tát đa
bệ tệ. Nam mô tát đa nẩm tam miệu tam bồ đà cu tri nẩm. Ta xá ra
bà ca tăng già nẩm. Nam mô lô kê A la hán đa nẩm. Nam mô tô lô
đa ba na nẩm. Nam mô ta yết rị đà già di nẩm. Nam mô lô kê tam
miệu già đa nẩm. Tam miệu già ba ra để ba đa na nẩm. Nam mô đề
bà ly sắc nỏa. Nam mô tấty đà da tỳ đĩa da đà ra ly sắc nỏa. Xá
ba noa yết ra ha ta ha ta ra ma tha nẩm. Nam mô bạt ra ha ma ni.
Nam mô nhơn đà ra da. Nam mô bà già bà đế, lọ đà ra da. Ô ma bát
đế, ta hê dạ da. Nam mô bà già bà đế. Na ra dả noa da. Bàn giá
ma ha tam mộ đà ra. Nam mô tất yết rị đa da. Nam mô bà già bà
đế. Ma ha ca ra da. Ðịa rị bát lặc na già ra. Tỳ đà ra ba noa
ca ra da. A địa mục đế. Thi ma xá na nê bà tất nê. Ma đát rị
già noa. Nam mô tất yết rị đa da. Nam mô bà già bà đế. Ða tha
già đa cu ra da. Nam mô bát đầu ma cu ra da. Nam mô bạc xà ra cu
ra da. Nam mô ma ni cu ra da. Nam mô già xà cu ra da. Nam mô bà
già bà đế, đế rị trà du ra tây na, ba ra ha ra noa ra xà da, đa
tha già đa da. Nam mô bà già bà đế. Nam mô a di đa bà da đa tha
dà đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da. Nam mô bà già bà đế,
a sô bệ da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da.
Nam mô bà già bà đế, bệ sa xà da cu lô phệ trụ rị da, bác ra bà ra
xà da, đa tha già đa da. Nam mô bà già bà đế, tam bổ sư tỳ đa,
tát lân nại ra lặc xà da, đa tha già đa da, a ra ha đế, tam miệu
tam bồ đà da. Nam mô bà già bà đế, xá kê dã mẫu na duệ, đa tha
già đa đa, a ra ha đế, tam miệu tam bồ đà da. Nam mô bà già bà
đế, lặc đác na kê đô ra xà da, đa tha dà đa da, a ra ha đế, tam
miệu tam bồ đề da, đế biều nam mô tát yết rị da, ế đàm bà già bà
đa, tát đát tha dà đô sắc ni sam, tát đát đa bác đác lam. Nam mô
a bà ra thị đam, bác ra đế dương kỳ ra, tát ra bà bộ đa yết ra ha,
ni yết ra ha yết ca ra ha ni, bạc ra tỷ địa da sất đà nể, a ca ra
mật rị trụ, bác rị đát ra da nảnh yết rị, tát ra bà bàn đà na mục
xoa ni, tát ra bà đột sắc tra đột tất phạp, bát na nê phạt ra ni,
giả đô ra thất đế nẩm, yết ra ha ta ha tát ra nhả xà, tỷ đa băng
ta na yết rị, a sắc tra băng xá đế nẩm, na xoa sát đác ra nhả xà,
ba ra tát đà na yết rị, a sắc tra nẩm, ma ha yết ra ha nhả xà, tỳ
đa băng tát na yết rị, tát bà xá đô lô nể bà ra nhả xà, hô lam đột
tất phạp, nan giá na xá ni, tỷ sa xá tất đác ra, a kiết ni ô đà ca
ra nhã xà, a bác ra thị đa cu ra, ma ha bác ra chiến trì, ma ha
điệp đa, ma ha đế xà, ma ha thuế đa xa bà ra, ma ha bạt ra bàn đà
ra bà tất nể, a rị da đa ra, tỳ rị cu tri, thệ bà tỳ xà da, bạt xà
ra ma lễ để, tỳ xá lô đa, bột đằng võng ca, bạt xà ra chế hắt na a
giá, ma ra chế bà bác ra chất đa, bạt xà ra thiện trì, tỳ xá ra
giá, phiến đa xá bệ đề bà bổ thị đa, tô ma lô ba, ma ha thế đa, a
rị da đa ra, ma ha bà ra a bác ra, bạt xà ra thương yết ra chế bà,
bạc xà ra cu ma rị, cu lam đà rị, bạt xà ra hắc tát đa giá, tỳ địa
gia kiền giá na ma rị ca, khuất tô mẫu bà yết ra đa na, bệ lô giá
na cu rị đa, dạ ra thố sắc ni sam, tỳ chiết lam bà ma ni giá, bạt
xà ra ca na ca ba ra bà, lô xà na bạt xà ra đốn trỉ giá, thế đa
giá ca ma ra sát xa thi ba ra bà, ế đế di đế, mẫu đà ra yết noa,
ta bệ ra sám, quật phạm đô, ấn thố na mạ mạ tỏa.
- (ÐỆ NHỊ)
- Ô hồng rị sắc yết noa, bác lặc xá
tất đa, tát đát tha già đô sắc ni sam. Hổ hồng đo lô ung chim bà
na. Hổ hồng đô lô ung tất đam bà na. Hổ hồng đô lô ung ba ra sắc
địa da tam bác xá noa yết ra. Hổ hồng đô lô ung, tát bà dược xoa
hắc ra sát ta, yết ra ha nhã xà, tỳ đằng băng tát na yết ra. Hổ
hồng đô lô ung, gỉa đô ra thi để nẩm yết ra ha ta ha tát ra nẩm,
tỳ đằng băng tát na ra. Hổ hồng đô lô ung, ra xoa, bà già phạm
tát đát tha già đô sắc ni sam, ba ra điểm xà kiết rị, ma ha ta ha
tát ra, bột thọ ta ha tát ra thất rị sa, cu tri ta ha tát nê đế
lệ, a tệ đề thị bà rị đa, tra tra anh ca ma ha bạt xà lô đà ra, đế
rị bồ đà na, man trà ra, ô hồng, ta tất đế bạc bà đô, mạ mạ, ấn
thố na mạ mạ tỏa.
- (ÐỆ TAM)
- Ra xà bà dạ, chủ ra bạt dạ, a kỳ
ni bà dạ, ô đà ca bà dạ, tỳ xa bà dạ, xá tất đa r bà dạ, bà ra
chước yết ra bà dạ, đột sắc xoa bà dạ, a xá nể bà dạ, a ca ra mật
rị trụ bà dạ, đà ra ni bộ di kiếm ba già ba đà bà dạ, ô ra ca bà
đa bà dạ, lặc xà đàng trà bà dạ, na già bà dạ, tỳ điều đát bà dạ,
tô ba ra noa bà dạ, dược xoa yết ra ha, ra xoa tư yết ra ha, tất
rị đa yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, ca tra bổ
đơn na yết ra ha, tất kiền độ yết ra ha, a bá tất ma ra yết ra ha,
ô đàn ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra ha, hê rị bà đế yết ra ha, xả
đa ha rị nẩm, yết bà ha rị nẩm, lô địa ra ha rị nẩm, man ta ha rị
nẩm, mê đà ha rị nẩm, man ta ha rị nẩm, mê đà ha rị nẩm, ma xà ha
rị nẩm, xà đa ha rị nữ, thị tỳ đa ha rị nẩm, tỳ đa ha rị nẩm, bà
đa ha rị nẩm, a du giá ha rị nữ, chất đa ha rị nữ, đế sam tát bệ
sam, tát bà yết ra ha nẩm, tỳ đa dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di,
ba rị bạt ra giả ca hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ
di, trà diễn ni hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di,
ma ha bát du bác đát dạ, lô đà ra hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà
dạ di, kê ra dạ di, na ra dạ noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ
di, kê ra dạ di, đát đỏa già lô trà tây hất rị đởm, tỳ đà dạ xà
sân đà dạ di, kê ra dạ di, ma ha ca ra ma đát rị già noa hất rị
đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dị di, kê ra dạ di, xà dạ yết ra, ma đột
yết ra, tát bà ra tha ta đạt na hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ
di, kê ra dạ di, giả đốt ra bà kỳ nễ hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân
đà dạ di, kê ra dạ di, tỳ rị dương hất rị tri, nan đà kê sa ra đà
noa bác đế, sách hê dạ hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra
dạ di, na yết na xá ra bà noa hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ
di, kê ra dạ di, a la hán hất rị đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê
ra dạ di, tỳ đa ra già hất rị đờm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra
dạ di, bạt xà ra ba nể, cu hê dạ, cu hệ dạ ca địa bát đế hất rị
đởm, tỳ đà dạ xà sân đà dạ di, kê ra dạ di, ra xoa võng bà già
phạm, ấn thố na mạ mạ tỏa.
- (ÐỆ TỨ)
- Bà già phạm,
tát đát đa tát đát ra. Nam mô tý đô đế, a tất đa na ra lặc ca, ba
ra bà tất phổ tra, tỳ ca tát đát đa bác đế rị, thập phật ra thập
phật ra, đà ra đà ra, tần đà ra tần đà ra, sân đà sân đà. Hổ
hồng, hổ hồng, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra, phấn tra ta
ha, hê hê phấn, a mâu ca da phấn, a ba ra đề ha đa phấn, ba ra ba
ra đà phấn, a tố ra tỳ đà ra ba ca phấn, tát bà đề bệ tệ phấn, tát
bà na già tệ phấn, tát bà dược xoa tệ phấn, tát bà kiền thát bà tệ
phấn, tát bà bổ đơn na tệ phấn, ca tra bổ đơn na tệ phấn, tát bà
đột lang chỉ đế tệ phấn, tát bà thập bà lê tệ phấn, tát bà a bá
tất ma lê tệ phấn, tát bà xá ra bà noa tệ phấn, tát bà địa đế kê
tệ phấn, tát bà đát ma đà kệ tệ phấn, tát bà tỳ đà da ra thẹ giá
lê tệ phấn, xà dạ yết ra ma độ yết ra, tát bà dạ tha ta đà kê tệ
phấn, tỳ địa da giá lê tệ phấn, giả đô ra phược kỳ nể tệ phấn, bạt
xà ra cu ma rị, tỳ đà dạ ra thệ tệ phấn, ma ha ba ra đinh dương
xoa kỳ rị tệ phấn, bạt xà ra thương yết ra dạ, ba ra trượng kỳ ra
xà da phấn, ma ha ca ra dạ, ma ha mạt đát rị ca noa. Nam mô ta
yết rị đa dạ phấn, tỷ sắc noa tỳ duệ phấn, bột ra ha mâu ni duệ
phấn, a kỳ ni duệ phấn, ma ha yết rị duệ phấn, yết ra đàn tri duệ
phấn, miệc đát rị duệ phấn, lao đát rị duệ phấn, giá văn trà duệ
phấn, yết la ra đát rị duệ phấn, ca bát rị duệ phấn, a địa mục
chất đa ca thi ma xá na, bà tư nể duệ phấn, diễn kết chất, tát đỏa
bà tỏa, mạ mạ ấn thố na mạ mạ tỏa.
- (ÐỆ NGŨ)
- Ðột sắc tra
chất đa, a mạt đát rị chất đa, ô xà ha ra, già bà ha ra, già bà ha
ra, lô địa ra ha ra, bà ta ha ra, ma xà ha ra, xà đa ha ra, thi tỳ
đa ha ra, bạc lược dạ ha ra, kiền đà ha ra, bố sử ba ha ra, phả ra
ha ra, bà tỏa ha ra, bác ba chất đa, đột sắc tra chất đa, lao đà
ra cah61t đa, dược xoa yết ra ha, ra sắt ta yết ra ha, bế lệ đa
yết ra ha, tỳ xá giá yết ra ha, bộ đa yết ra ha, cưu bàn trà yết
ra ha, tất kiền đà yết ra ha, ô đát ma đà yết ra ha, xa dạ yết ra
ha, a bá tát ma ra yết ra ha, trạch kê cách trà kỳ ni yết ra ha,
rị Phât đế yết ra ha, xà di ca yết ra ha, xá cu ni yết ra ha, mộ
đà ra nan địa ca yết ra ha, a lam bà yết ra ha, kiền độ ma ni yết
ra ha, thập phạt ra yên ca hê ca, trị đế dược ca, đát lệ đế dược
ca, giả đột thác ca, ni đề thập phạt ra, tỳ sam ma thập phạt ra,
bạc để ca, tát bà thập phạt ra, thất lô kiết đế, mạt đà bệ đạt lô
chế kiếm, a ỷ lô kiềm, mục khê lô kiềm, yết rị đột lô kiềm, yết ra
ha yết lam, yết noa du lam, đản đa du lam, hất rị dạ du lam, mạt
mạ du lam, bạt rị thất bà du lam, tỷ lật sắc tra du lam, ô đà ra
du lam, yết tri du lam, bạt tất đế du lam, ô lô du lam, thường già
du lam, hắc tất đa du lam, bạt đà du lam, ta phòng án già bác ra
trượng già du lam, bộ đa tỷ đa trà trà kỳ ni thập bà ra, đà đột lô
ca kiến đốt lô kiết tri, bà lộ đa tỳ, tát bác lô ha lăng già, du
sa đát ra, ta na yết ra tỳ sa dụ ca, a kỳ ni ô đà ca, mạt ra bệ ra
kiến đa ra, a ca ra mật rị đốt đát liểm bộ ca, địa lật lặc tra, tỷ
rị sắc chất ca, tát bà na cu ra, tứ dẫn già tệ yết ra rị dược xoa
đác ra sô, mạt ra thị phệ đế sam ta bệ sam, tất đát đa bác đát ra,
ma ha bạc xà lô sắc ni sam, ma ha bác lặc trượng kỳ lam, dạ ba đột
đà xá du xà na, biện đát lệ noa, tỳ đà da bàn đàm ca lô di, đế thù
bàn đàm ca lô di, bát ra tỳ đà bàn đàm ca lô di đát điệt tha.
- Án a na lệ, tỳ
xá đề bệ ra bạc xà ra đà rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bàn ni
phấn. Hổ hồng đô lô ung phấn, ta bà ha.
-
LƯỢC GIẢI
- Tổ Ðơn Hà nói:
Từ xưa đến nay không có ai dịch nghĩa thần chú. Vì có năm nguyên
nhân: 1. Lời bí mật của Phật, duy có Phật với Phật mới biết,
ngoài các vị thánh cũng không thể biết được. 2. Vì một chữ hoặc
một câu có hàm vô số nghĩa. 3. Hoặc tên của các vị quỷ thần, kêu
gọi các vị ấy liền đến để bảo hộ người tu. 4. Mặt ấn của chư
Phật, kẻ âm người dương đều phải tuân theo, cũng như ấn sắc của
nhà vua. 5. Người chí tâm tụng trì, sẽ được diệt trừ tội nặng và
mau chứng quả Thánh.
- Các nhà phiên
âm có khác, song hành giả chí tâm trì tụng một bổn nào cũng đều
được hiệu quả.
- *
-
IV. Công
năng của thần chú
- A Nan, mười
phương các đức Như Lai đều nhờ “tâm chú” này mà hàng phục các ma,
ngăn dẹp ngoại đạo, được thành quả Phật. Mười phương chư Phật đều
nhờ “tâm chú” này mà cứu độ tất cả chúng sanh khỏi các tai nạn khổ
não như thủy tai, hỏa tai, cơ cẩn v.v... và cứu độ chúng sanh ở
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, đều được giải thoát.
- Các ông là hàng
Thinh văn hữu học chưa khỏi luân hồi, phát tâm cầu quả A la hán,
nếu không trì chú này, mà muốn cho khỏi các ma chướng thì không
thể được.
- Sau khi ta diệt
độ, các chúng sanh đời sau, nếu có người trì tụng chú này, thì các
tai nạn: thủy tai, hỏa hoạn, thuốc độc, độc trùng, ác thú, yêu
tinh, qủy quái v.v... đều chẳng hại được.
- Nếu người phạm
tội ngũ nghịch, phá trai, phạm giới, khi chí tâm trì chú này, thì
các tội đều tiêu, cũng như nước nóng làm giá tan. Những người
không con, muốn cầu con, tụng chú này sẽ được con, cầu trường thọ
v.v... được trường thọ, mỗi mỗi đều như ý nguyện.
-
V.
Các vị thiên thần phát nguyện bảo
hộ người trì chú
- Khi Phật nói
thần chú này rồi, trong hội có vô số thần Kim cang, đồng lạy Phật
và phát lời thệ nguyện: -Chúng con xin sẽ thành tâm bảo hộ cho
người trì chú này.
- Lại có vô số các vị chư Thiên và
Thánh Thần đều đứng dậy lạy Phật và phát nguyện bảo hộ người trì
chú này, khiến cho họ khỏi các ma chướng và mau đặng thành đạo vô
thượng Bồ đề.
- Lại có vô số vị
Kim cang Tạng Bồ tát, đồng đứng trước Phật, phát lời thệ rằng:
- - Con tu hành
chẳng chịu vào Niết bàn, nguyện ở lại đời sau để theo bảo hộ người
tu hành, không cho các loài ác ma đến nhiễu hại, chúng nó phải ở
cách xa người tu ngoài mười do tuần. Nếu có loài ác ma nào lai
vãng đến người trì chú này, thì con dùng cây báo sử đánh nó nát
như bụi, để cho người tu hành được như nguyện.
-
VI. Ông A
Nan hỏi Phật tu hành phải trải qua
bao nhiêu địa vị mới được thành Phật
- A Nan đứng dậy
lạy Phật và thưa rằng: - Bạch Thế Tôn, người tu hành từ khi phát
tâm cho đến thành Phật, phải trải qua bao nhiêu địa vị, và thứ lớp
tu hành như thế nào? Xin Phật ừ bi chỉ dạy cho kẻ mê muội này.
- Phật khen không
A Nan và dạy rằng: - Ta sẽ vì ông và chúng sanh đời sau cầu quả
Ðại thừa, chỉ dạy con đường tu hành từ địa vị phàm phu, cho đến
khi vào đại Niết bàn, vậy các ông phải chăm chú nghe ta chỉ dạy:
- - A Nan, các
ông phải biết: Từ nơi chơn tâm thanh tịnh, rời các danh tướng,
không có thế giới và chúng sanh, vì vọng động nên có sanh, nhơ
sanh có diệt; sanh diệt cũng đều là vọng, diệt hết vọng gọi là
chơn, thế gọi là Vô thượng Bồ đề và đại Niết bàn là hai quả chuyển
y của Như Lai vậy.
-
VII. Phật dạy ba
món tiệm thứ
- - A Nan, ông
nay muốn tu hành để thành Phật, thì phải tuần tự y theo ba món
tiệm thứ này, mới có thể diệt trừ được gốc rễ của loạn tưởng, cũng
như người muốn súc sạch cái bình để đựng đồ qý, thì trước hết phải
đổ độc ra, kế dùng tro chùi rửa, sau dùng nước nóng và chất thơm
rửa lại thiệt sạch, rồi mới có thể đựng vị cam lồ được.
- Ba món tiệm thứ là:
- 1.
Trừ các trợ duyên bên ngoài: Ăn, không nên ăn những
vật không hợp với người tu hành, như ăn thịt uống rượu và ngũ vị
tân v.v... Ngũ vị tân, ăn sống thì nó tăng trưởng tánh nóng giận,
ăn chín hay sanh tham dục, tụng kinh trì chú chẳng hiệu nghiệm,
Thánh thần không bảo hộ. Còn chỗ ở tu thì phải tìm chỗ nào cho
hợp với hoàn cảnh của người tu hành.
- 2.
Trừ các chánh nhơn bên trong: Cốt yếu là hành giả
phải nghiêm trì tịnh giới, không dâm, sát, đạo và vọng, gìn giữ
ngoài thân không phạm, trong tâm không động, thân và tâm đều thanh
tịnh như băng tuyết.
- 3.
Trừ các nghiệp hiện tiền: Khi tiếp xúc với trần
cảnh, không khởi vọng niệm phân biệt theo sáu trần, xoay các cảm
giác trở về bản tâm thanh tịnh. Do ngoài không duyên theo trần
cảnh, trong sáu căn không vọng động, đồng một thể thanh tịnh, nên
mười phương thế giới đều được thanh tịnh sáng suốt; cũng như trong
ngọc lưu ly có hàm chứa mặt trăng sáng. Hành giả lúc bấy giờ thân
tâm thơ thới, chứng đặng vô sanh pháp nhẫn, mười phương chư Phật
đều hiện trong tâm người ấy. Từ đây hành giả lần lần tăng tiến tu
hành, tiến lên các quả Thánh.
-
VIII.
Hành giả phải trải qua 55 địa vị
mới đến qua Phật
- A Nan, người
tu hành khi ái dục khô khan, sáu căn không còn chạy theo sáu trần
nhiễm trước, lúc bấy giờ chỉ có trí huệ khô khan, chưa thấm nhuần
nước pháp của Phật. Ðây là địa vị đầu tiên tên Càn huê địa (huệ
khô), lần lần tấn tu vào địa vị Thập tín (mười món tin):
- 1. Tín tâm trụ
- 2. Niệm tâm
trụ
- 3. Tinh tấn
tâm
- 4. Huệ tâm trụ
- 5. Ðịnh tâm
trụ
- 6. Bất thối
tâm
- 7. Hộ pháp tâm
- 8. Hồi hướng
tâm
- 9. Giới tâm
trụ
- 10. Nguyện tâm
trụ
-
- MÃN
ÐỊA VỊ THẬP TÍN ÐẾN THẬP TRỤ
- Phát tâm trụ
- Trị địa trụ
- Tu hành trụ
- Sanh quý trụ
- Phương tiện cụ
túc trụ
- Chánh tâm trụ
- Bất thối trụ
- Ðồng chơn trụ
- Pháp vương tử
trụ
- Quán đảnh trụ
- MÃN THẬP TRỤ
ÐẾN THẬP HẠNH
- 1.
Hoan hỷ hạnh
- 2.
Nhiêu ích hạnh
- 3.
Vô sân hận hạnh
- 4.
Vô tận hạnh
- 5.
Ly si loạn hạnh
- 6.
Thiện hiện hạnh
- 7.
Vô trước hạnh
- 8.
Tôn trọng hạnh
- 9.
Thiện pháp hạnh
- 10.
Chơn thật hạnh
- MÃN THẬP HẠNH
ÐẾN THẬP HỒI HƯỚNG
- 1.
Cứu độ nhứt thế chúng sanh, ly chúng sanh tướng hồi hướng
- 2.
Bất hoại hồi hướng
- 3.
Ðẳng nhứt thế Phật hồi hướng
- 4.
Chí nhứt thế xứ hồi hướng
- 5.
Vô tận công đức tạng hồi hướng
- 6.
Tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng
- 7.
Tùy thuận đẳng quán nhứt thế chúng sanh hồi hướng
- 8.
Chơn như tướng hồi hướng
- 9.
Vô phược giải thoát hồi hướng
- 10.
Pháp giới vô lượng hồi hướng
- MÃN THẬP HỒI
HƯỚNG ÐẾN TỨ GIA HẠNH
- 1.
Noãn địa
- 2.
Ðảnh địa
- 3.
Nhẫn địa
- 4.
Thế đệ nhứt địa
- MÃN TỨ GIA HẠNH
ÐẾN THẬP ÐỊA
- 1.
Hoa hy địa
- 2.
Ly cấu địa
- 3.
Phát quang địa
- 4.
Diệm huệ địa
- 5.
Nan thắng địa
- 6.
Hiện tiền địa
- 7.
Viễn thành địa
- 8.
Bất động địa
- 9.
Thiện huệ địa
- 10.
Pháp vân địa
- (Khi mãn Thập
địa đến địa vị Ðẳng giác, qua Ðẳng giác đến Diệu giác tức là
Phật. Trừ địa vị Càn huệ ra, thì từ địa vị Thập tín, Thập trụ,
Thập hạnh, Thập hồi hướng, Tứ gia hạnh, Thập địa và Ðẳng giác,
nghĩa là phải trải qua 55 địa vị này mới được quả Phật.
- Song trong khi
trải qua 55 địa vị này, phải gặp 50 món ma là những điều nguy hiểm
nhứt trên đường tu hành).
-
IX.
50 món ma chướng (ngũ ấm ma)
- Thuyết pháp gần
xong, đức Như Lai đứng dậy, tay vịn ghế thất bửu, kêu Ngài A Nan
và đại chúng dạy thêm rằng:
- - Các ông chưa
rõ trên đường tu hành, còn gặp nhiều cảnh ma rất là nguy hiểm.
Nếu các ông không biết trước, sanh tâm tà kiến thì đọa vào ác đạo,
cũng như người nhận lầm giặc làm con, thì bị hại chẳng ít. Vậy
các ông phải chăm chú nghe, ta sẽ chín chắn chỉ dạy cho.
- Này A Na, tất
cả chúng sanh cùng với người mười phương chư Phật, đồng một thể
chơn tâm thanh tịnh không hai. Bởi các ông bị vô minh vọng tưởng,
nên sanh ra mười phươong hư không và thế giới nhiều như vi trần,
nhưng mười phương hư không và hằng sa thế giới đó đều sanh ở trong
chơn tâm của các ông, chẳng khác nào một điềm mây nhỏ sanh trong
trời xanh. Nếu người ngộ được chơn tâm rồi thì mười phương hư
không và thế giới đều tiêu hết.
- Bởi các loài ma
kia thấy người tu hành sanh tâm lo sợ cho bà con quyến thuộc của
chúng sẽ tiêu diệt, nên chúng dùng đủ thần lực đến nhiễu hại người
tu. Chúng nó cũng đủ năm phép thần thông biến hóa chỉ chưa được
lậu tận thông.
- Mặc dầu chúng
đủ năm phép thần thông và sức mạnh, song vẫn còn ở trong vòng trần
lao; nếu các ông trong khi tu thiền tâm được thanh tịnh sáng suốt,
không vọng động, thì chúng ma kia không làm sao hại được. Cũng
như dao chặt xuống nước, gió thổi ánh sáng, hoàn toàn không dính
líu gì. Chúng ma kia phải lần lần tiêu diệt như băng bị nước nóng
chế vào và tối tăm bị ánh sáng phá trừ; chỉ lo một điều là các ông
cũng như chủ nhà, nếu chủ nhà mê muội rồi thì các ma chướng kia
như khách dễ bề nhiễu hại, rồi các ông trở làm con cái của ma, sau
thành người ma.
- Ma Ðăng Già là
thứ ma yếu hèn, nó chỉ làm ông phá một giới trong tám muôn giới mà
thôi, nhờ tâm ông thanh ti6nh nên chẳng bị trầm luân. Còn các
chúng ma này rất là nguy hiểm, nó phá tan giới thân huệ mạng làm
cho ông nhiều kiếp luân hồi. Chẳng khác nào như ông quan lớn bị
cách chức, gia tài sự sản bị tịch thâu, trở thành một người đân
trắng, không thể cầu cứu với ai được.
-
X.
Mười món ma về sắc ấm
-
1.
THÂN THỂ KHÔNG BỊ CHƯỚNG NGẠI
- Này A Nan,
người trong khi tu thiền do sức dụng công, nên tâm tánh được nhiệm
mầu sáng suốt, tự thấy thân thể mình trong giây phút qua lại tự
tại, không bị cái gì làm chướng ngại. Vì công dụng tu luyện, nên
tạm hiện ra các việc như vậy, không phải là chứng Thánh; nếu sanh
tâm nghĩ mình chứng Thánh, thì bị ma cám dỗ.
-
2.
LƯỢM BỎ TRÙNG ÐỘC TRONG THÂN
- A Nan, hành giả
trong lúc dụng công tu thiền, thoạt thấy thân thể mình trong suốt,
các loài trùng độc, sên bò qua lại, rồi lượm bỏ ra ngoài mà thân
không đau đớn. Vì dụng công tu luyện nên tạm hiện ra cảnh như
vậy, không phải chứng Thánh. Nếu nghĩ mình chứng Thánh thì bị ma
nó cám dỗ.
-
3.
NGHE TRONG HƯ KHÔNG CÓ TIẾNG NÓI
PHÁP
- Hành giả trong lúc tu
thiền, nghe trong hư không có tiếng thuyết pháp, hoặc nghe Thánh,
Hiền, Tiên, Phật trong mười phương thế giới đều nói ra nghĩa lý
nhiệm mầu. Ðây vì hành giả dụng công tu luyện nên tự tâm biến
hiện ra cảnh giới như vậy, không phải chứng Thánh, nếu nghĩ mình
chứng Thánh, thì bị ma ám ảnh.
-
4.
THẤY PHẬT HIỆN VÀ HOA SEN NỞ
- Người tu thiền định,
khi tâm thanh tịnh rồi, tự phát ra ánh sáng. Lúc bấy giờ thấy
mười phương đều hiện ra sắc vàng, tất cả các vật loại hóa thành
Phật cả. Lại thấy đức Phật Tỳ Lô Giá Na ngồi trên đài thiên
quang, các đức Phật ngồi xung quanh và có vô số hoa sen đồng thời
xuất hiện. Ðây do hành giả dụng công tu thiền, nên thấy có cảnh
tạm hiện ra như vậy, không phải là chứng Thánh; nếu nghĩ mình
chứng Thánh, thì bị ma cám dỗ.
-
5.
THẤY CÁC VẬT BÁU ÐẦY CẢ HƯ KHÔNG
- Người trong khi tu
thiền thấy mười phương hư không đều thành bảy báu, nào màu xanh,
sắc vàng, đỏ, trắng, hiện ra vô số, mà chẳng chướng ngại nhau.
Ðây do trong lúc tu thiền, vì hành giả dụng công đè nén vọng niệm
thái quá, nên nó biến hiện ra cảnh như vậy, không phải chứng
Thánh; nếu nghĩa mình chứng Thánh, thì bị ma cám dỗ.
-
6.
THẤY BAN ÐÊM NHƯ BAN NGÀY
- Người tu thiền định,
do tâm yên tịnh nên phát ra ánh sáng. Lúc bấy giờ mặc dù nửa đêm,
ở trong nhà tối mà vẫn thấy rõ hết cả mọi vật, không khác chi ban
ngày. Vì hành giả dụng công tu luyện nên tạm hiện ra cảnh như
vậy, không phải chứng Thánh; nếu cho mình chứng Thánh, thì bị ma
cám dỗ.
-
7.
THÂN THỂ KHÔNG BIẾT ÐAU
- Người tu thiền đến khi
tâm tánh được rỗng không, thì thân thể chẳng biết đau. Lúc bấy
giờ lửa đốt không cháy, dao chặt không đau. Ðây do sức dụng tâm
tu luyện của hành giả nên tạm được như vậy, không phải chứng
Thánh; nếu cho mình chứng Thánh, thì bị ma cám dỗ.
-
8.
THẤY CẢNH GIỚI PHẬT HIỆN KHẮP NƠI
- Người tu thiền định do
dụng công cùng tột, nên thấy mười phương núi sông toàn cả thế giới
đều biến thành cõi Phật, đủ cả bảy món báu chiếu sáng khắp giáp.
Lại thấy hằng sa chư Phật ở trong cung điện tốt đẹp hiện đầy cả hư
không. Trông lên trên thì thấy các cung trời, xem trở xuống lại
thấy hết các cõi địa ngục đều không có chướng ngại. Ðây do lúc tu
thiền, vì hành giả ngưng vọng tưởng lâu ngày, nên nó hóa hiện như
vậy, không phải chứng Thánh; nếu cho mình chứng Thánh, thì bị đọa
vào đường tà.
-
9.
BAN ÐÊM THẤY, NGHE ÐƯỢC PHƯƠNG XA
- Trong khi tu thiền, do
tâm tham cứu sâu xa, nên trong lúc giữa đêm thấy được nào là chợ
bu`a, đường sá, bà con họ hàng ở các phương xa, hoặc nghe được
tiếng nói. Ðây do hành giả kiềm thúc cái vọng tâm thái quá, nên
tạm hiện ra như vậy, không phải chứng Thánh; nếu cho mình chứng
Thánh, thì bị đọa vào đường tà.
-
10.
THÂN HÌNH BIẾN HÓA, NÓI PHÁP
THÔNG SUỐT
- Trong khi tu thiền, do
hành giả dụng tâm tham cứu cùng tột, nên thấy có các vị Thiện tri
thức, chỉ trong giây phút mà thân mình biến hóa nhiều cách. Ðây
do trong khi tu thiền vì hành giả sanh tâm chấp trước, nên bị ma
ám ảnh, làm cho người này thông suốt nghĩa mẩu, nói pháp vô ngại,
không phải chứng Thánh; nếu chẳng chấp trước thì cảnh ma này lần
lần tiêu; còn cho mình chứng Thánh thì bị đọa vào cảnh ma.
- TÓM LẠI
- Này A Nan! Mười cảnh
ma này, đều do trong lúc tu thiền, hành giả dụng tâm phá trừ sắc
ấm, nên nó biến hiện ra các cảnh như vậy. Nếu khi gặp những cảnh
ấy, mê lầm không biết, cho mình đã chứng Thánh thì bị ma nó ám
ảnh, rồi sanh đại vọng ngữ, nói mình thành đạo chứng quả v.v...
sau khi chết rồi đọa vào địa ngục vô gián. Vậy khi ta nhập diệt
rồi, các ông nên y lời ta dạy, đem những việc ma này giảng dạy cho
người tu hành đời sau, bảo hộ người tu hành đặng đạo quả, chớ để
cho họ bị thiên ma nhiễu hại.
--o0o--
|
|