|
PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Phật
Học Phổ Thông
- --- o0o ---
-
- Bài
thứ hai
- II. Chương Phổ Hiền
-
-
1. Ngài Phổ Hiền hỏi Phật
-
2. Phật Khen Ngài Phổ Hiền
-
3. Phật trả lời cho ngài Phổ Hiền
-
4. Phật dạy pháp tu để nhập “Viên
Giác”
-
5. Phật dạy pháp tu ly huyễn
-
6. Phật dạy “Giác ngộ” không có
tuần tự, “rời huyễn” chẳng cần phương tiện.
-
7. Phật nói bài kệ tóm lại nghĩa trên
-
II.
Chương Phổ Hiền
-
1.
Ngài Phổ Hiền hỏi Phật:
- Khi ấy Ngài Phổ
HIền Bồ tát, ở trong đại chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật
ba vòng rồi chắp tay đảnh lễ và quỳ thẳng bạch rằng:
- - Bạch Ðức Ðại
bi Thế Tôn, xin Ngài vì các vị Bồ Tát ở trong hội này và tất cả
chúng sanh đời sau tu Ðại thừa, từ bi chỉ dạy phương pháp tu hành
để vào cảnh giới Viên Giác thanh tịnh.
- Bạch Thế Tôn,
nếu chúng sanh biết các pháp đều như huyễn, thân và tâm này cũng
huyễn, thì cần gì phải tu? Tại sao còn dùng cái “huyễn” trợ lại
tu “pháp huyễn” làm gì?
- Lại nữa, nếu các pháp hư huyễn đều
diệt hết, thì thân tâm này cũng diệt; nếu thân tâm đều diệt thì
lấy ai tu hành mà gọi là “tu pháp như huyễn”?
- Bạch Thế Tôn,
nếu các chúng sanh không tu hành, vẫn ở mãi trong cảnh sanh tử
huyễn hóa mà chẳng tự biết, thì làm sao dẹp trừ các tâm vọng
tưởng, để giải thoát được sanh tử luân hồi?
- Xin Phât vì
chúng sanh đời sau, chỉ dạy phương tiện tu tập và thứ lớp tu hành
như thế nào, để cho chúng sanh khi nghe đến cảnh giới Viên Giác
thanh tịnh này, y theo đó tu hành, vĩnh viễn xa lìa được các vọng
huyễn.
- Ngài Phổ Hiền
Bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.
- Lược Giải
- Ðại ý đoạn này
là Ngài Phổ Hiền Bồ tát hỏi Phật:
- 1. Nếu tất cả
chúng sanh biết các pháp đều như huyễn thì cần gì phải tu, vì nó
là huyễn. Tại sao còn dùng cái huyễn (thân tâm) tu pháp như huyễn
làm gì?
- 2. Nếu chúng
sanh chấp là huyễn mà không tu, thì vẫn ở mãi trong sanh tử luân
hồi, làm sao được giải thoát?
- Xin Phật từ bi
chỉ dạy phương tiện tu hành và phải tu tuần tự như thế nào, mới
nhập được cảnh giới Viên Giác thanh tịnh?
-
2. Phật khen Ngài
Phổ Hiền
- Khi đó Ðức THế
Tôn khen Ngài Phổ HIền Bồ tát và dạy rằng:
- Này thiện nam, quý lắm! Ông vì vị
Bồ tát hiện tại và chúng sanh đời sau, hỏi về phương tiện và thứ
lớp tu tập pháp môn “như huyễn Tam muội”(1) của Bồ
Tát, khiến cho chúng sanh xa lìa các huyễn. Vậy các ông nên chăm
chú nghe, ta sẽ vì các ông khai thị.
- (1) Chữ “Tam
muội” Tàu dịch là “Ðịnh” hay “chánh thọ”. Vi nhiếp tâm chuyên chú
một chỗ, không co xao lãng, nên dọi là “Ðịnh” – Ngài Tôn Mật nói:
“Rõ thấu thân và tâm đều như huyễn, thầm hiệp với chơn như, như
thế gọi là “chánh thọ”.
- Nghĩa bóng bóng
của chữ “Tam muội”, là chỉ cho công việc làm đã quán thuần thục.
Nhưng người niệm Phật, có khi niệm mà có lục lại quên, còn bị các
vọng niệm xen tạp, như thế là chưa được tam muội. Bao giờ người
niệm Phật, chỉ ròng rặc một niệm Phật thôi (nhứt tâm bất loạn)
không có một niệm gì khác xen vào, đi đứng nằm gnồi, bất luận chỗ
nào hay lúc này, từ năm này cho đến tháng nọ, cũng vẫn nhớ niệm
Phật, như thế gọi là được “niệm Phật tam muội”.
- Khi đó, Ngài Phổ Hiền Bồ Tát và
đại chúng đều hoan hỷ, kín cẩn và chăm chú nghe lời Phật chỉ giáo.
- Lược Giải
- Văn Thù và Phổ
Hiền là hai vị đại Bồ tát, ngài Văn Thù tiêu biểu cho đại trí.
Ngài Phổ Hiền tiêu biểu cho đại hạnh. Có Ðại trí (căn bản trí)
mới phá trừ được căn bản vô minh. Có Ðại hạnh mới hoàn thành được
công hạnh của Phật. Người tu hành lúc nào cũng phải đủ cả “Trí và
Hạnh”. Có “Trí” mới phá đưọc vô minh và thấu rõ chơn lý. Có
“hạnh” mới đạt được chơn lý, hoàn thành quả Phật.
- Ðoạn này Phật
khen ngài Phổ Hiền bồ tát, vì chúng sanh mà hỏi pháp tu “như huyễn
tam muội”
- Chúng ta quán
các vật đều hư huyễn; nhưng có khi lại thấy là thiệt, như thế chưa
đduợc “như huyễn Tam muội”. Bao giờ đi đứng nằm ngồi bất luận
gioiò phút nào hay nơi nào cũng đều thấy các pháp hoàn toàn hư
huyễn, như thế là chúng ta được pháp “Như huyễn tam muội”.
-
3. Phật trả lời
cho ngài Phổ Hiền
- - Này thiện
nam! tất cả các cảnh vật huyễn hóa (thế giới, chúng sanh) của
chúng sanh, đều sanh trong tâm Viên Giác mầu nhiệm của Như Lai.
CÁc pháp hư huyễn có diêẹt, mà tánh Viên Giác vẫn không diệt.
Cũng như đốm sanh trong hư không, các hoa đốm hư huyễn kia có hoại
diệt, mà tánh hư không chẳng hề hoại diệt.
- Lược Giải
- Hoa đốm là dụ
cảnh vật, hư không là dụ Viên Giác. Ðại ý đoạn này là nói các
pháp giả dối hư huyễn giữa này, đều sanh trong Viên Giác (chơn
tâm). Các pháp hư huyễn diệt mà tâm Viên Giác không diệt. Cũng
như cá choa đốm sanh trong hư không, các đốm có diệt mà hư không
không diệt.
-
4. Phật dạy Pháp
Tu để nhập Viên Giác
- Khi các huyễn
cảnh diệt rồi, thì cái huyễn tâm của hành giả cũng theo đó mà diệt
luôn. Ðến khi các huyễn (năng và sở) đều diệt hết, thì cái tâm
Viên Giác không vọng động tự hiện.
- Bởi đối với vọng huyễn mà nói
“Viên Giác” nên Viên Giác cũng trở thành vọng huyễn, vì còn ở
trong vòng đối đãi vậy. Ðến cảnh giới này, nếu nói “có viên Giác”
thì chưa rời vọng huyễn đã đành, mà nói là “không Viên Giác” thì
cũng chẳng rời được vọng huyễn.
- Thế nên, các vọng huyễn (có và
không) đều phải bị diệt hết rồi, mới gọi là Viên Giác.
- Lược Giải
- Ðoạn này lý lẽ
uyên thâm, có 5 từng:
- 1. Huyễn
cảnh diệt
- 2. Huyễn
tâm cũng diệt
- 3. Các
huyễn (năng, sở) diệt hết, tâm “Viên giác hiện bày.
- 4. Bởi đối
vọng huyễn mà gọi “viên giàc” nên Viên Giác cũng trở thành hư
huyễn. Vì còn ở trong vòng dối đãi phân biệt, nên chưa phải là
“Viên Giác”.
- 5. Nếu “chấp
có Viên Giác” thì ở trong vòng vọng huyễn mà “chấp không Viên
Giác” cũng còn ở trong vòng vọng huyễn. Các vọng huyễn: có, không
sanh, diệt, phải chẳng v..v.. đều phải diệt hết rồi, thế mới đúng
là “Viên Giác”.
- Ðại ý đoạn này
nói: “Tánh Viên Giác” (Chơn tâm) không thể dùng lời nói mà luận
bàn được, cũng không dùng ý nghĩ mà suy nghĩ được. Nếu vừa móng
tâm động niệm, nghĩ thánh nói phàm, cho thế này là vọng, thế kia
là chơn, như thế là hãy còn trogn vòng đối đãi, hễ còn đối đãi
phân biệt, thì đều là vọng huyễn cả: phải rời hết các vọng huyễn
mới đúng là “viên Giác”.
-
5. Phật dạy
Phương pháp ly huyễn
- Này Thiện Nam!
Tất cả các vị Bồ tát và chúng sanh đời sau, cần phải xa lìa các
việc như sau:
- 1. Xa lìa
các cảnh giới huyễn hóa hư vọng. Nhưng còn cái “Tâm biết xa lìa”
- 2. Cái “Tâm
biết xa lìa” đó cũng là huyễn, nên cũng xa lìa luôn.
- 3. Cái “xa
lìa” đó cũng là huyễn, nên cũng phải xa lìa
- 4. Cái “lìa
cái xa lìa” cũng là huyễn nên cũng phải xa lìa luôn
- 5. Phải
không còn cái gì để “xa lìa” nưa, như t hế mới gọi là trừ được các
huyễn.
- Tỷ như người
kéo lấy lửa, dùng hai miếng củi tre cọ xát nhau; cọ cho đến khi
lửa phát ra, trở lại cháy hai miếng tre; cháy đến lúc củi hết, lửa
tàn tro bay, bấy giờ chỉ còn đất trống.
- Dùng “cái
huyễn” tu các “pháp huyễn” cũng thế. Khi các huyễn diệt hết rồi,
không phải là dodạn diệt mà lúc bấy giờ tánh Viên Giác tự hiện
bày.
- Lược Giải
- Ðại ý đoạn này
nói: người tu hành trước hết phải lìa các huyễn cảnh, sau lìa
huyễn tâm; lìa cho đến không còn cái gì để lìa nữa, thế mới là lìa
được hết các huyễn. Lúc bấy giờ cái phi huyễn là “viên giác tánh”
hiện ra. Như t hế thì “Viên Giác tánh” không phải là đoạn diệt.
- Như người kéo
lửa (dụ cho tu như huyễn) ban đầu dùng hai miếng củi tre cọ nhau
(dụ cho tâm và cảnh), khi lửa phát ra trở lại cháy hết củi đến lúc
lửa tàn tro bay (tâm cảnh đều hết), bấy giờ chỉ còn đất trống (dụ
cho Viên Giác).
-
6. Phật dạy:
“Giác Ngộ” không có tuần tự, “rời huyễn” chẳng cần phương tiện
- - Này thiện
nam! Khi biết được các pháp hư huyễn, tức là lìa được các huyễn,
chớ không cần phải có phương tiện gì khác. Lìa được các huyễn tứ
clà “giác” cũng không có lớp lang tuần tự gì.
- Tất cả Bồ tát
và chúng sanh đời sau, y như thế mà tu hành, mới xa lìa được các
huyễn
- Lược Giải
- Phật dạy người
biết được các pháp là hư huyễn thì không còn cố chấp và tham luyến
các pháp nữa, tức là lìa được các huyễn rồi, chớ không có phương
pháp tu tập nào khác.
- Câu này giống
như câu trong Kinh Lăng Nghiêm: “Giác mê, mê diệt” (Giác ngộ được
cái mê, thì cái mê ấy hết) Cũng như người khi biết mình là chiêm
bao, thì không còn chiêm bao nữa.
- Lìa được các
vọng huyễn, tức thì “Vien Giác” hiện bày, thế nên không có lớp
lang từng bực. Dụ như khi ánh sáng đến, thì cái tối liền diệt; tối
vừa diệt thì sáng vừa hiện, không có lớp lang từ tự chi hết.
- Ðoạn trước Ngài
Phổ Hiền có hỏi thức lớp tu pháp môn như huyễn thế nào. Ðến đoạn
này Phật trả lời đã xong.
-
7. Phật Nói Bài
kệ Tóm lại các nghĩa
- Khi ấy Ðức Thế
Tôn muốn tóm lại nghĩa này, nên nói bài kekẹ rằng:
- Phổ Hiền! Ông
nên biết
- Các vô minh
huyễn hóa
- Của tất cả
chúng sanh,
- Từ vô thỉ đến
giờ,
- Ðều sanh
trong Viên Giác
- Củă các Ðức
Như Lai
- Cũng như các
hoa đốm
- Sanh trong
thái hư không
- Hoa đốm diệt
hết rồi,
- Hư không vẫn
trong tịnh,
- Các huyễn từ
“Giác” sanh,
- Huyễn diệt,
“Giác” viên mãn
- Viên Giác
không vọng động
- Các Bồ tát
hiện tại
- Và chúng sanh
đời sau
- Thường phải
xa lia huyễn.
- Xa lìa cho
hết huyễn
- Như lửa từ
cây sanh
- Trở lại cháy
hết cây;
- Lửa tàn tro
bay tận.
- “Giác ngộ”
không tuần tự
- “Phương tiện”
cũng không cần.
- Lược Giải
- Ðại ý bài kệ
này Phật dạy: Các vôminh vọng huyễn của chúng sanh từ vô thỉ đến
giờ, đều sanh trong tâm Viên Giác của Như Lai. Ðến khi các vô
minh vọng huyễn diệt rồi, thì tâm “Viên Giác” hiện ra, khôngc ó
tuần tựvà cũng không cần có phương tiện gì khác.
- Dụ như hoa
đốm sanht rong hư không, khi hoa đốm diệt hết thì hư không tự
trong tịnh. Và như lửa từ trong cây sanh, trở lại đốt cháy cây,
đến khi củi hết lửa tàn, khói tan tro tận, lúc bấy giờ chỉ còn bầu
trời trong suốt.
- Lưu Ý
- Trong chương
Phổ Hiền này, chúng ta nên lưu ý về câu hỏi của Ngài Phổ Hiền và
lời đáp của Phật, vì rất quan hệ đến đời tu hành của chúng ta.
- Ngài Phổ Hiền
hỏi rằng: “Ðã là huyễn thì cần gì phải tu? Tại sao còn dùng thân
tâm như huyễn để tu hành như huyễn?” - Ðoạn này chúng ta hiểu lầm,
thì không sao khỏi sanh ra những vọng chấp: “Thân huyễn, cảnh
huyễn, tu học cũng huyễn v.v...” rồi trăm việc lành đều bỏ xuôi,
thật là nguy hiểm vô cùng.
- Vậy ta cần phai
xét kỹ về đoạn trả lời của Phật. Ðại ý Phật dạy rằng: Tuy biết các
pháp là “huyễn” nhưng cần phải tu mới đạt đến chỗ “phi huyễn”
(Chơn). Cũgn như: vẫn biết “tiếng gõ bảng” của thầy giáo thì
không sao dẹp được hết tiếngồn ào của học trò. Ðến khi hết tiếng
ồn ào của học trò thì tiếng gõ bảng cũng không cần nữa.
- Tổ sư đã dạy:
“hữu vị tuy nguy, xả chi tắc Phật đạo nan thành”; nghĩa là các
việc tu hành đều thuộc về hữu vi phá, tuy biết là vọng, nhưng nếu
bỏ đi không tu thi khó thành đạo Phật. Cổ nhơn dạy: “Ðạp gai lấy
gai mà lể” hay là “phải dùng giặc để dẹp giặc” cũng là nghĩa ấy.
- Vẫn biết “Viên
Giác” tánh “Không phải huyễn, nhưng muốn nhập viên giác thì phải
dùng huyễn để trừ huyễn. Khi các huyễn diệt hết, thì tánh “Viên
Giác” mới hiện
- Cổ Ðức dạy: “thật tế
lý địa bất thọ nhứt trần, vạn sự môn trung bất xả nhứt pháp”,
nghĩa là: về chỗ lý tánh chơn thật (Viên Giác) thì khôgn thọ một
mảy trần; nhưng về sự tướng tu hành, thì không bỏ một việc nhỏ.
- Ðây là một quy
tắc từ nghìn xưa. Những vị tu hành được thành đạo quả, không một
ai vượtg qua ngoài quy tắc này.
--o0o--
|
|